Tải bản đầy đủ (.pdf) (168 trang)

quản lý nhà nước về biên giới quốc gia trên biển của bộ đội biên phòng việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.13 MB, 168 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

TRẦN MINH NGUYỆT

QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ BIÊN GIỚI QUỐC GIA
TRÊN BIỂN CỦA BỘ ĐỘI BIÊN PHÒNG VIỆT NAM

LUẬN ÁN TIẾN SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI - 2018


VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

TRẦN MINH NGUYỆT

QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ BIÊN GIỚI QUỐC GIA
TRÊN BIỂN CỦA BỘ ĐỘI BIÊN PHÒNG VIỆT NAM

Ngành: Luật Hiến pháp và Luật Hành chính
Mã số: 9380102

LUẬN ÁN TIẾN SĨ LUẬT HỌC

Người hướng dẫn khoa học: GS.TS. Võ Khánh Vinh

HÀ NỘI - 2018




LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số
liệu, kết quả nêu trong Luận án là trung thực và chưa từng được công bố trong
bất kỳ công trình khoa học nào.

TÁC GIẢ LUẬN ÁN

Trần Minh Nguyệt


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
Chương 1. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU

1.1. Tình hình nghiên cứu
1.2. Đánh giá tình hình nghiên cứu và những vấn đề đặt ra nghiên
cứu trong luận án
1.3. Cơ sở lý thuyết nghiên cứu của đề tài luận án

Trang
1
7
7
17
20

Chương 2. LÝ LUẬN QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ BIÊN GIỚI QUỐC GIA
TRÊN BIỂN CỦA BỘ ĐỘI BIÊN PHÒNG


2.1. Khái niệm, đặc điểm, vai trò của quản lý nhà nước về biên giới
quốc gia trên biển của Bộ đội Biên phòng
2.2. Chủ thể quản lý nhà nước về biên giới quốc gia trên biển của Bộ
đội Biên phòng
2.3. Nội dung quản lý nhà nước về biên giới quốc gia trên biển của
Bộ đội Biên phòng
Chương 3. THỰC TRẠNG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ BIÊN GIỚI
QUỐC GIA TRÊN BIỂN CỦA BỘ ĐỘI BIÊN PHÒNG

3.1. Những yếu tố cơ bản tác động đến quản lý nhà nước về biên giới
quốc gia trên biển của Bộ đội Biên phòng
3.2. Thực trạng chủ thể, nội dung quản lý nhà nước về biên giới quốc
gia trên biển
3.3. Đánh giá thực trạng quản lý nhà nước về biên giới quốc gia trên
biển của Bộ đội Biên phòng

23
23
42
49
57
57
68
99

Chương 4. PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG QUẢN
LÝ NHÀ NƯỚC VỀ BIÊN GIỚI QUỐC GIA TRÊN BIỂN CỦA BỘ ĐỘI
BIÊN PHÒNG


4.1. Phương hướng tăng cường quản lý nhà nước về biên giới quốc
gia trên biển của Bộ đội Biên phòng
4.2. Giải pháp tăng cường quản lý nhà nước về biên giới quốc gia
trên biển của Bộ đội Biên phòng
KẾT LUẬN
DANH MỤC CÔNG TRÌNH CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC

110
110
113
143
145
146
161


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
ATXH

An toàn xã hội

CHXHCN

Cộng hòa xã hội chủ nghĩa

CKCB

Cửa khẩu cảng biển


BĐBP

Bộ đội Biên phòng

BGQG

Biên giới quốc gia

BGQGTB

Biên giới quốc gia trên biển

ĐBP

Đồn Biên phòng

KVBG

Khu vực biên giới

KVBGB

Khu vực biên giới biển

PBGDPL

Phổ biến, giáo dục pháp luật

QLNN


Quản lý nhà nước

VPHC

Vi phạm hành chính

VPPL

Vi phạm pháp luật

VBQPPL

Văn bản quy phạm pháp luật


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Quản lý nhà nước về biên giới quốc gia trên biển là một bộ phận của
quản lý nhà nước về biên giới quốc gia, một lĩnh vực trọng yếu của quản lý
nhà nước về quốc phòng, an ninh của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam. Luật Biên giới quốc gia năm 2003 quy định: Chính phủ thống nhất
quản lý nhà nước về biên giới quốc gia; Bộ Quốc phòng chủ trì phối hợp với
Bộ Ngoại giao, Bộ Công an chịu trách nhiệm trước Chính phủ thực hiện quản
lý nhà nước về biên giới quốc gia.
Bộ đội Biên phòng thuộc Bộ Quốc phòng là "lực lượng nòng cốt, chuyên
trách phối hợp với lực lượng Công an, các ngành hữu quan và chính quyền
địa phương trong hoạt động quản lý, bảo vệ biên giới quốc gia, giữ gìn an
ninh, trật tự an toàn xã hội ở khu vực biên giới theo quy định của pháp luật"
[94]. Kể từ năm 2004 đến nay, Chính phủ chính thức giao cho Bộ đội Biên

phòng trách nhiệm quản lý nhà nước về biên giới quốc gia. Trong đó, trách
nhiệm quản lý nhà nước về biên giới quốc gia trên biển của Bộ đội Biên
phòng được ghi nhận tại nhiều văn bản quy phạm pháp luật có hiệu lực pháp
lý khác nhau, do nhiều chủ thể có thẩm quyền ban hành. Các quy định của
pháp luật đã tạo cơ sở pháp lý hữu hiệu cho việc thực thi chức năng, nhiệm
vụ, quyền hạn của Bộ đội Biên phòng trên địa bàn khu vực biên giới biển.
Những năm qua, việc thực hiện trách nhiệm của Bộ đội Biên phòng trong
quản lý nhà nước về biên giới quốc gia trên biển đã góp phần quan trọng vào
việc giữ vững chủ quyền biển, đảo của Tổ quốc; an ninh, trật tự, an toàn xã hội
khu vực biên giới biển cơ bản ổn định; các mặt công tác khác (tham mưu, đối
ngoại, quân sự, xây dựng nền biên phòng toàn dân, thế trận biên phòng toàn
dân, xây dựng khu vực biên giới biển vững mạnh về mọi mặt, phòng, chống
thiên tai, tìm kiếm, cứu hộ, cứu nạn…) ngày càng được tăng cường. Tuy nhiên,
do nhiều nguyên nhân, cả khách quan và chủ quan, đặc biệt là nguy cơ chủ

1


quyền biển, đảo bị xâm phạm và sự thiếu hoàn thiện của pháp luật về quản lý,
bảo vệ biên giới quốc gia đã khiến cho việc thực hiện trách nhiệm của Bộ đội
Biên phòng trong quản lý nhà nước về biên giới quốc gia trên biển còn có
những khó khăn, vướng mắc và hạn chế nhất định, như: hoạt động tuyên
truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về biên giới quốc gia chưa được tiến hành
thường xuyên; công tác nắm, dự báo tình hình, tham mưu và xử lý các tình
huống vi phạm chủ quyền, an ninh biên giới quốc gia trên biển có lúc, có nơi,
có vụ việc chưa kịp thời, chủ động và chưa sát với thực tế; việc thực hiện thẩm
quyền của Bộ đội Biên phòng trong tuần tra, kiểm tra, kiểm soát, phát hiện, xử
lý vi phạm pháp luật trong khu vực biên giới biển có việc còn lúng túng, hiệu
quả chưa cao; công tác phối hợp giữa Bộ đội Biên phòng với các cơ quan, lực
lượng chức năng trong quản lý, bảo vệ biên giới quốc gia trên biển, giữ gìn an

ninh, chính trị, trật tự an toàn xã hội ở khu vực biên giới biển chưa thực sự
thường xuyên, thông suốt và hiệu quả… Những hạn chế trên có ảnh hưởng trực
tiếp đến việc thực hiện thành công Chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020 và
công cuộc bảo vệ chủ quyền biển, đảo của Tổ quốc trong tình hình mới. Tuy
nhiên, thời gian qua, chưa có công trình khoa học nào nghiên cứu một cách có
hệ thống và toàn diện vấn đề này. Bởi vậy, việc nghiên cứu sinh lựa chọn đề tài
Quản lý nhà nước về biên giới quốc gia trên biển của Bộ đội Biên phòng Việt
Nam làm luận án tiến sĩ có ý nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc, góp phần nâng
cao hiệu quả xây dựng và tổ chức thực thi pháp luật về biển, đảo, biên giới
quốc gia trên biển của Việt Nam nói chung, của Bộ đội Biên phòng nói riêng
trong tình hình mới.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án
2.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của luận án là làm sáng tỏ những vấn đề lý luận
quản lý nhà nước về biên giới quốc gia trên biển của Bộ đội Biên phòng; phân
tích, đánh giá thực trạng quản lý nhà nước về biên giới quốc gia trên biển của

2


Bộ đội Biên phòng ở nước ta hiện nay; trên cơ sở đó, đề xuất phương hướng,
giải pháp tăng cường quản lý nhà nước về biên giới quốc gia trên biển của Bộ
đội Biên phòng.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để thực hiện mục tiêu nghiên cứu trên, luận án có các nhiệm vụ sau:
- Nghiên cứu, đánh giá kết quả các công trình khoa học trong và ngoài
nước liên quan đến đề tài luận án để từ đó xác định những vấn đề lý luận, thực
tiễn và giải pháp cần nghiên cứu trong luận án.
- Phân tích, làm rõ những vấn đề lý luận cơ bản của quản lý nhà nước về
biên giới quốc gia trên biển của Bộ đội Biên phòng, như: khái niệm, đặc

điểm, vai trò, chủ thể, nội dung quản lý nhà nước về biên giới quốc gia trên
biển của Bộ đội Biên phòng.
- Khảo sát thực tế, nghiên cứu báo cáo tổng kết công tác của Bộ đội Biên
phòng, phân tích, đánh giá kết quả, rút ra những ưu điểm, hạn chế, nguyên
nhân của những ưu điểm và hạn chế trong quản lý nhà nước về biên giới quốc
gia trên biển của Bộ đội Biên phòng.
- Đề xuất phương hướng và giải pháp tăng cường quản lý nhà nước về
biên giới quốc gia trên biển của Bộ đội Biên phòng.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận án là hoạt động quản lý nhà nước về biên
giới quốc gia trên biển của Bộ đội Biên phòng theo quy định của pháp luật
Việt Nam và các điều ước quốc tế mà Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt
Nam là thành viên.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu của luận án là hoạt động thực thi trách nhiệm của Bộ
đội Biên phòng trong quản lý nhà nước về biên giới quốc gia trên biển từ năm
2008 (thời điểm Chính phủ Việt Nam trình Uỷ ban Ranh giới thềm lục địa

3


báo cáo quốc gia xác định ranh giới thềm lục địa nằm ngoài phạm vi 200 hải
lý tính từ đường cơ sở của Việt Nam) đến năm 2018 trong khuôn khổ khoa
học Luật Hành chính Việt Nam, các quy định của pháp luật hiện hành về chức
năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Bộ đội Biên phòng.
4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của luận án
4.1. Phương pháp luận nghiên cứu
Phương pháp luận nghiên cứu của luận án là phương pháp luận duy vật
biện chứng, duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lênin, quan điểm của Đảng

và tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật; về quản lý,
bảo vệ chủ quyền, an ninh biên giới quốc gia.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu của luận án bao gồm: phân tích và tổng hợp, hệ
thống, so sánh, lịch sử cụ thể, chuyên gia, thống kê, lựa chọn điển hình. Ngoài
ra, luận án còn sử dụng cách tiếp cận đa ngành và liên ngành luật học trong
các nghiên cứu lý luận và thực trạng quản lý nhà nước về biên giới quốc gia
trên biển của Bộ đội Biên phòng.
Bằng phương pháp thống kê, hệ thống, phân tích và tổng hợp, luận án
nghiên cứu, phân tích, đánh giá kết quả các công trình khoa học liên quan đến
đề tài luận án để rút ra những vấn đề cần nghiên cứu, giải quyết trong luận án.
Để nghiên cứu, làm rõ lý luận quản lý nhà nước về biên giới quốc gia
trên biển của Bộ đội Biên phòng, luận án sử dụng phương pháp phân tích và
tổng hợp với cách tiếp cận liên ngành, đa ngành luật học. Bằng phương pháp
thống kê, lựa chọn điển hình, luận án nghiên cứu, đánh giá thực trạng quản lý
nhà nước về biên giới quốc gia trên biển của Bộ đội Biên phòng trong khoảng
thời gian từ năm 2008 đến năm 2018. Các phương pháp hệ thống, phân tích
và tổng hợp được luận án sử dụng để xác định phương hướng và đề ra giải
pháp tăng cường trách nhiệm của Bộ đội Biên phòng trong quản lý nhà nước
về biên giới quốc gia trên biển.

4


5. Đóng góp mới về khoa học của luận án
- Bổ sung, hoàn thiện lý luận quản lý nhà nước về biên giới quốc gia trên
biển trong lực lượng Bộ đội Biên phòng.
- Bổ sung luận cứ khoa học cho lực lượng Bộ đội Biên phòng nâng cao
hiệu quả quản lý nhà nước về biên giới quốc gia trên biển.
- Góp phần hoàn thiện cơ sở pháp lý cho việc thực thi quản lý nhà nước

về biên giới quốc gia trên biển của Bộ đội Biên phòng.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
6.1. Ý nghĩa lý luận
Kết quả nghiên cứu của luận án góp phần bổ sung, phát triển và hoàn
thiện lý luận quản lý nhà nước về biên giới quốc gia nói chung, quản lý nhà
nước về biên giới quốc gia trên biển của Bộ đội Biên phòng nói riêng.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Luận án có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo phục vụ công tác
nghiên cứu, giảng dạy về quản lý nhà nước; biên giới lãnh thổ; quản lý nhà
nước về biên giới quốc gia và quản lý nhà nước về biển, đảo. Đồng thời, góp
phần nâng cao nhận thức và hiệu quả thực hiện quản lý nhà nước về biên giới
quốc gia trên biển của Bộ đội Biên phòng.
7. Cơ cấu của luận án
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo và Phụ lục,
Luận án được kết cấu thành 4 chương sau:
Chương 1. Tổng quan tình hình nghiên cứu
Chương 2. Lý luận quản lý nhà nước về biên giới quốc gia trên biển của
Bộ đội Biên phòng
Chương 3. Thực trạng quản lý nhà nước về biên giới quốc gia trên biển
của Bộ đội Biên phòng
Chương 4. Phương hướng và giải pháp tăng cường quản lý nhà nước về
biên giới quốc gia trên biển của Bộ đội Biên phòng

5


Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
1.1. Tình hình nghiên cứu
1.1.1. Các nghiên cứu ngoài nước và ở Việt Nam liên quan đến lý luận

quản lý nhà nước về biên giới quốc gia trên biển của Bộ đội Biên phòng
Trong xã hội hiện đại, QLNN được thực hiện trên cơ sở pháp luật, đặc
biệt là pháp luật hành chính. Sự đan xen giữa lĩnh vực pháp luật này với các
lĩnh vực pháp luật khác đã được chứng minh. Bởi vậy, nghiên cứu về QLNN
trong các lĩnh vực cụ thể dưới góc độ khoa học luật hành chính diễn ra khá
phổ biến. Vấn đề này đã được thể hiện trong nhiều nghiên cứu của các học giả
ngoài nước, tiêu biểu là Prosper Weil, Martine Lombard, Gilles Dumont…
Tác giả Prosper Weil trong cuốn sách Luật hành chính đã đề cập đến việc
chính quyền có thể đơn phương ấn định ranh giới, không cần sử dụng đến thủ
tục cắm mốc phân giới hai bên đối với tài sản công cộng tự nhiên (sông ngòi,
bờ biển…); có quyền cảnh sát để bảo toàn tài sản công cộng, trấn áp những sự
vi phạm bằng cách xử phạt (bắt sửa chữa và chịu hình phạt) [136, tr.68]. Về
quyền cảnh sát, tác giả Martine Lombard và Gilles Dumont trong cuốn sách
Pháp luật hành chính của Cộng hòa Pháp [88], tác giả Phrăngxoa Galúđiên
Ghiniús và các tác giả trong cuốn sách Bàn về hành chính Pháp [45] cho rằng,
cảnh sát hành chính là hoạt động phòng ngừa những hành vi gây rối trật tự
công và giữ gìn, bảo vệ trật tự công. Tuy không trực tiếp có những bàn luận
sâu sắc về QLNN đối với BGQGTB nhưng kết quả nghiên cứu của các tác giả
đã xác định cách tiếp cận QLNN đối với các ngành, lĩnh vực của đời sống xã
hội nói chung, BGQGTB nói riêng dưới góc độ khoa học Luật hành chính là
hoàn toàn chính xác.
Biên giới nói chung, BGQGTB nói riêng là giới hạn không gian chủ
quyền lãnh thổ của một quốc gia, cần được hoạch định phù hợp với pháp luật
quốc tế và phải được quản lý, bảo vệ để chống lại mọi nguy cơ xâm phạm chủ

6


quyền. Những vấn đề này đã được nghiên cứu, bàn thảo trong nhiều công
trình khoa học, tiêu biểu là công trình Việc giải quyết những tranh chấp về

đường biên giới trong luật pháp quốc tế của tác giả A.O.Cukwurah, Các
đường biên giới của nước Campuchia cận đại của tác giả Raoul Marc Jennar,
tài liệu Vấn đề hoạch định ranh giới trên biển ở Đông Nam Á của tác giả
Prasit Aekaputra. Các nghiên cứu đã chỉ ra khái niệm về biên giới, BGQG,
đường biên giới quốc tế, biên giới quốc tế; hình thức và đặc điểm của các
đường biên giới quốc tế, trong đó có đường biên giới nước; sự phân định ranh
giới và phân giới những đường biên giới quốc tế [35]; định nghĩa biên giới,
tầm quan trọng và các nét đặc thù của biên giới [74]; khái niệm pháp lý và
việc vạch các đường cơ sở; cách làm và vấn đề hoạch định ranh giới trên biển
ở Đông Nam Á [1].
Hoạch định biên giới gắn liền với xây dựng và tổ chức lực lượng quản
lý, bảo vệ biên giới. Tuỳ thuộc đặc thù của từng quốc gia, việc tổ chức lực
lượng quản lý, bảo vệ biên giới biển có tên gọi khác nhau, phạm vi thẩm
quyền khác nhau. Tiêu biểu cho các nghiên cứu về vấn đề này phải kể đến tài
liệu Bàn về Biên phòng (Biên phòng luận) của tác giả Mao Chấn Phát. Trong
nghiên cứu của mình, tác giả đã đề cập khái quát công tác biên phòng của một
số quốc gia trên thế giới; luận giải về công năng, nhiệm vụ của biên phòng;
việc tăng cường xây dựng biên phòng; tư tưởng phòng vệ biển kết hợp với
quản lý biển của Trung Quốc. Theo tác giả, công tác biên phòng, hải phòng có
ý nghĩa sống còn đối với đất nước Trung Quốc. Biên phòng là lực lượng có
nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, quyền lợi biển của quốc gia;
thúc đẩy xây dựng kinh tế, xã hội, tiến bộ ở khu vực ven biển; đấu tranh với kẻ
thù xâm lược, xâm phạm và khiêu khích ở biên giới; phòng, chống xuất, nhập
cảnh, phá hoại, lật đổ, buôn lậu, buôn bán ma tuý; chống thâm nhập, lật đổ,
kích động chia rẽ, phá hoại đoàn kết dân tộc; tăng cường quản lý biên giới, hải
đảo, kết hợp giữa bảo vệ và quản lý [91, tr.14, 25, 142, 143]. Tác giả khẳng

7



định: Không có quốc phòng, biên phòng mất cơ sở và trung tâm; không có biên
phòng, quốc phòng mất đi chân, tay và tấm lá chắn. Bảo vệ quyền lợi biển là
nhiệm vụ quan trọng của biên phòng thời kỳ mới [91, tr.142, 143, 257].
Ở Việt Nam, các công trình khoa học liên quan đến lý luận QLNN về
BGQGTB của BĐBP rất phong phú, thường được tiếp cận dưới góc độ khoa
học pháp lý và khoa học QLNN. Trong đó, những vấn đề lý luận của QLNN
đã được luận giải về cơ bản. Tiêu biểu là nghiên cứu của các tác giả như Mai
Hữu Khuê, Phạm Hồng Thái, Đinh Văn Mậu, Từ Điển, Tô Tử Hạ…
Tác giả Mai Hữu Khuê với cuốn sách Lý luận QLNN đề cập một cách toàn
diện những vấn đề lý luận về QLNN, nhất là các yếu tố cấu thành của nó (chủ
thể, khách thể, hình thức, phương pháp), các nguyên tắc quản lý, thủ tục và
quyết định hành chính, vi phạm và trách nhiệm hành chính, thẩm quyền hành
chính nhà nước, thanh tra, kiểm tra, giám sát trong QLNN, cải cách hành chính,
giải quyết khiếu nại, tố cáo… [78]. Những nội dung nghiên cứu này được bổ
sung, làm rõ dưới góc độ khoa học pháp lý hành chính bởi nghiên cứu của các
tác giả Phạm Hồng Thái, Đinh Văn Mậu trong cuốn sách Luật Hành chính Việt
Nam [105] và được thể hiện trong giáo trình của các cơ sở đào tạo như: Giáo
trình Luật Hành chính Việt Nam của Học viện Hành chính Quốc gia, Trường
Đại học Luật Hà Nội [63], [126]; Giáo trình thanh tra và giải quyết khiếu nại,
tố cáo của Trường Đại học Luật Hà Nội [123]. Lý luận QLNN trên một số lĩnh
vực cụ thể cũng đã được đề cập, nghiên cứu bởi nhiều công trình khoa học, tiêu
biểu như: Giáo trình Luật Hành chính Việt Nam của Trường Đại học Luật Hà
Nội [126]; Giáo trình QLNN về dân tộc, tôn giáo và Giáo trình QLNN về an
ninh, quốc phòng của Học viện Hành chính Quốc gia [61], [65].
Trong các lĩnh vực của QLNN, quản lý nhà nước đối với vùng bờ, biển và
hải đảo ngày càng thu hút sự quan tâm nghiên cứu của các nhà khoa học, tiêu
biểu phải kể đến cuốn sách Quản lý nhà nước tổng hợp và thống nhất về biển,
hải đảo của tác giả Đặng Xuân Phương và Nguyễn Lê Tuấn [93], tài liệu Quản

8



lý vùng bờ của tác giả Nguyễn Bá Quỳ [100]; tài liệu Quản lý tổng hợp vùng ven
biển của Đại học Nha Trang và Trung tâm Bảo tồn Sinh vật biển và Phát triển
Cộng đồng [41], tài liệu Một số vấn đề về tổ chức bộ máy QLNN về biển của Ban
Biên giới của Chính phủ [3]. Các nghiên cứu đã làm rõ một số vấn đề lý luận về
quản lý vùng bờ, vùng ven biển; quản lý tổng hợp và thống nhất về biển, hải đảo;
về mô hình quản lý biển ở Việt Nam và một số quốc gia trên thế giới; về kinh
nghiệm xây dựng lực lượng Phòng vệ bờ biển (Coast Guard) của một số quốc
gia, cường quốc biển trên thế giới; về BĐBP với tư cách là lực lượng nòng cốt,
đa nhiệm, hoạt động rộng khắp từ bờ ra đến vùng biển ngoài khơi.
Quản lý biển, đảo bằng pháp luật là hướng nghiên cứu được đặc biệt chú
trọng kể từ sau khi Việt Nam trở thành thành viên Công ước của Liên hợp quốc
về Luật biển năm 1982. Các tác giả Nguyễn Ngọc Minh với cuốn sách Luật
biển [81], Trần Công Trục với luận án tiến sĩ Hoàn thiện pháp luật về QLNN
đối với các vùng biển của nước CHXHCN Việt Nam [119], Nguyễn Hồng Thao
với cuốn sách Những điều cần biết về Luật biển [106], Nguyễn Bá Diến với
bài viết Địa vị pháp lý của các đảo trong phân định các vùng biển [36] đã đi
sâu phân tích chế độ pháp lý các vùng biển, đảo; phân định biển và giải quyết
tranh chấp trên biển. Cùng với hướng nghiên cứu này còn có nhiều công trình
khác như cuốn sách Giới thiệu một số vấn đề cơ bản của luật biển ở Việt Nam
và tài liệu Khái quát về luật biển quốc tế và việc áp dụng luật biển tại Việt Nam
do Ban Biên giới của Chính phủ biên soạn [2], [4], Giáo trình Luật quốc tế và
sách Luật biển quốc tế hiện đại của Trường Đại học Luật Hà Nội [124], [125].
Kết quả nghiên cứu của các tác giả đã góp phần quan trọng làm sáng tỏ chế độ
pháp lý các vùng biển, đảo của Việt Nam. Trong khi đó, tác giả Lê Minh Nghĩa
với đề tài nghiên cứu cấp Bộ Cơ sở khoa học của việc hoạch định và quản lý
các vùng biển, thềm lục địa Việt Nam [84], Huỳnh Minh Chính với bài viết
Pháp luật quốc tế và việc vạch biên giới biển giữa Việt Nam với các quốc gia
láng giềng [18] đi sâu nghiên cứu, chỉ ra các căn cứ cho việc thực hiện hoạch


9


định và quản lý các vùng biển, thềm lục địa của nước CHXHCN Việt Nam;
nguyên tắc và các yếu tố có liên quan đến việc vạch đường biên giới trên
biển; quan điểm và chủ trương của Nhà nước Việt Nam trong việc hợp tác
hoạch định biên giới biển với các quốc gia có liên quan.
Biên giới quốc gia trên biển là bằng chứng tiên quyết cho việc khẳng định
chủ quyền của quốc gia trên biển. Bởi vậy, các nghiên cứu về BGQGTB và
quản lý, bảo vệ BGQGTB đã được hình thành và thể hiện qua một số công
trình nghiên cứu, tiêu biểu như: Giáo trình Lý luận chung về BGQG và quản
lý, bảo vệ BGQG; Giáo trình QLNN về BGQG; Giáo trình Luật Hành chính
và QLNN về BGQG; Giáo trình Quy chế pháp lý BGQG của Học viện Biên
phòng [49], [50], [56], [57]; Giáo trình Luật quốc tế của Trường Đại học Luật
Hà Nội [124]. Các giáo trình đã đề cập đến khái niệm BGQGTB, lịch sử hình
thành BGQGTB của nước CHXHCN Việt Nam; quy chế pháp lý KVBGB,
các vùng biển thuộc quyền chủ quyền, quyền tài phán của Việt Nam; quy
trình xử lý các sự kiện pháp lý BGQGTB của BĐBP.
1.1.2. Các nghiên cứu ngoài nước và ở Việt Nam liên quan đến thực
trạng quản lý nhà nước về biên giới quốc gia trên biển của Bộ đội Biên phòng
Kể từ thế kỷ XV, biển và đại dương đã trở thành đối tượng chinh phục
của các quốc gia. Xu thế mở rộng quyền lực ra phía biển đã đặt biển và đại
dương trở thành đối tượng điều chỉnh của luật pháp. Đối với các quốc gia có
biển, quản lý biển bằng pháp luật là con đường để khẳng định chủ quyền,
quyền chủ quyền của mình đối với các vùng biển ở phía ngoài lãnh thổ đất
liền, các đảo, quần đảo. Bởi vậy, song hành với quá trình mở rộng chủ quyền
quốc gia về phía biển là thực tiễn xây dựng luật biển quốc tế. Việc so sánh,
đối chiếu giữa pháp luật quốc tế về biển, nhất là Công ước của Liên hợp quốc
về Luật biển năm 1982 vào thực tiễn phân định biển, giải quyết tranh chấp

chủ quyền, quyền chủ quyền trên biển giữa các quốc gia trên thế giới, trong
đó có các quốc gia ven bờ Biển Đông đã trở thành một trong những hướng

10


nghiên cứu nhận được nhiều sự quan tâm của các học giả trong và ngoài
nước. Tiêu biểu phải kể đến cuốn sách Biển Đông: cuộc tìm kiếm đồng thuận
nan giải của tác giả G.M. Lokshin [87], bài viết đăng trong Niêm giám về
biển Các đảo và việc hoạch định không gian biển ở Biển Đông của tác giả
Jon M.Vandyke, Dale L.Bennett [134]… Kết quả nghiên cứu của các tác giả
đã đề cập, phân tích cụ thể, có hệ thống Công ước của Liên hợp quốc về Luật
biển năm 1982 cùng các phán quyết phân định biển của Toà án quốc tế về luật
biển và khuyến nghị khả năng áp dụng cho việc giải quyết các tranh chấp chủ
quyền ở Biển Đông, trong đó có tranh chấp chủ quyền giữa Việt Nam và các
quốc gia có liên quan. Song song với việc phân tích hoạt động hiện thực hoá
yêu sách chủ quyền của các quốc gia ven Biển Đông, đặc biệt là Trung Quốc,
các nghiên cứu cũng đề cập đến hoạt động ban hành Luật Biển Việt Nam năm
2012 của Quốc hội để khẳng định chủ quyền đối với quần đảo Hoàng Sa và
quần đảo Trường Sa; những nỗ lực quản lý, bảo vệ chủ quyền biển, đảo của
Nhà nước Việt Nam. Hoạt động của các lực lượng quản lý, bảo vệ chủ quyền
biển, đảo, trong đó có BĐBP cũng được đề cập nhưng còn mờ nhạt.
Liên quan đến hoạt động của các lực lượng quản lý biển, tác giả Alan
Dupont và Christopher G.Baker trong bài viết Tranh chấp biển ở Đông Á:
đánh cá trên vùng biển động đã đề cập đến hệ thống cơ quan đảm trách việc
chấp pháp và an ninh trên biển (kiểm ngư, hải quan, hải giám, chấp pháp, biên
phòng) của Trung Quốc và sự hỗ trợ của hệ thống này cho hoạt động khai
thác hải sản của đội tàu cá có quy mô lớn nhất trên thế giới nhằm từng bước
thực hiện mưu đồ "độc chiếm Biển Đông". Ngoài ra, các tác giả cũng đề cập
đến việc Trung Quốc đơn phương áp đặt một lệnh cấm đánh bắt cá từ tháng 5

đến tháng 8 hàng năm ở Biển Đông và áp dụng các “biện pháp thi hành lệnh
cấm bao gồm phạt tiền, tống giam, tịch thu phương tiện, đâm va tàu, cố ý
đánh chìm, nổ súng và giam giữ tàu thuyền” [38, tr.8]. Những nghiên cứu trên
của các tác giả đã khẳng định một thực tế là tàu cá của Trung Quốc khai thác

11


hải sản trái phép trên vùng biển thuộc chủ quyền, quyền chủ quyền của nhiều
quốc gia, trong đó có Việt Nam và đây là một trong những khó khăn mà các
lực lượng thực thi pháp luật trên biển của Việt Nam nói chung, lực lượng
BĐBP nói riêng phải đối mặt.
Đấu tranh chống tội phạm và VPPL trên biển là trách nhiệm của các cơ
quan và lực lượng thực thi pháp luật của quốc gia ven biển. Giáo sư Geoffrey
Till trong bài viết "Thời khắc biển" Châu Á và vấn đề Biển Đông cho rằng:
các loại tội phạm (khủng bố và cướp biển, buôn lậu thuốc phiện, ma túy, gỗ, vũ
khí, buôn người) thường sử dụng Biển Đông như một phương tiện vận chuyển
bất hợp pháp, điều này ảnh hưởng “đến tự do hàng hải, cả trực tiếp lẫn gián
tiếp”, “gây ra rối loạn xã hội và bất ổn chính trị”, “đe dọa gián tiếp đến thương
mại đường biển” [101, tr.22, 23]. Nguyên nhân cơ bản của tình trạng này được
tác giả Ian Storey trong bài viết Lợi ích an ninh hàng hải của Nhật ở Đông
Nam Á và tranh chấp Biển Đông xác định là do sự “kiểm soát chính trị yếu
kém, điều kiện chính phủ và kinh tế xã hội nghèo nàn, và thiếu năng lực
QLNN”, cũng như “sự thiếu hợp tác giữa các nước Đông Nam Á do những sự
nhạy cảm về chủ quyền” [131, tr.7, 8]. Kết quả của những nghiên cứu này đã
khẳng định đấu tranh chống tội phạm và VPPL trên biển là một trong những
nhiệm vụ của lực lượng quản lý biển nói chung, của BĐBP nói riêng.
Ở Việt Nam, thực tiễn QLNN đối với biển và hải đảo đã được nhiều nhà
khoa học nghiên cứu, đánh giá với những chiều cạnh khác nhau. Tiêu biểu là
cuốn sách Quản lý nhà nước tổng hợp và thống nhất về biển, hải đảo của tác

giả Đặng Xuân Phương, Nguyễn Lê Tuấn. Các tác giả cho rằng: Việt Nam là
quốc gia có nhiều lợi thế về biển nhưng đang phải đối mặt với nhiều thách
thức trong quản lý biển, đảo, nhất là nguy cơ mất chủ quyền kinh tế trong
khai thác, sử dụng biển bên cạnh nguy cơ bị chèn ép về chủ quyền lãnh thổ.
Hệ thống quản lý nhà nước về biển với các chức năng QLNN đối với ngành,
nghề khai thác, sử dụng biển, hải đảo cũng đã được đề cập cụ thể cho thấy sự

12


phân tán, thiếu hiệu quả và yêu cầu đổi mới tư duy, phương pháp và củng cố
hệ thống QLNN về biển, đảo… [93].
Thực trạng pháp luật và việc thi hành pháp luật trong QLNN đối với các
vùng biển Việt Nam đã được đề cập trong các nghiên cứu của nhiều nhà khoa
học, tiêu biểu là Luận án tiến sĩ Hoàn thiện pháp luật về QLNN đối với các
vùng biển của nước CHXHCN Việt Nam của tác giả Trần Công Trục. Mặc dù
tính thời sự của kết quả nghiên cứu không cao, nhưng một số hạn chế trong
QLNN đối với các vùng biển được tác giả chỉ ra đến nay vẫn chưa được khắc
phục, nhất là tình trạng an ninh, trật tự, tranh chấp chủ quyền trên các vùng
biển còn diễn biến phức tạp; sự phân công, phân nhiệm, phạm vi trách nhiệm
của các lực lượng, các ngành, các cấp trong công tác quản lý, kiểm tra, kiểm
soát biển chưa thật rõ ràng, cụ thể, còn chồng chéo và thiếu sự phối hợp; khả
năng, lực lượng, trang bị của các ngành quá yếu chưa đáp ứng với sự phát
triển của tình hình trên biển [119].
Với vai trò là một trong các lực lượng thực thi pháp luật trên biển, thực
trạng hoạt động của BĐBP cũng được bàn thảo trong nhiều công trình khoa
học, tiêu biểu là sách chuyên khảo QLNN về an ninh, trật tự KVBGB của tác
giả Hoàng Hữu Chiến [16], sách chuyên khảo Nâng cao chất lượng tuyên
truyền, PBGDPL của BĐBP cho đồng bào dân tộc thiểu số ở KVBG hiện nay
và sách chuyên khảo Phát huy vai trò BĐBP trong PBGDPL cho nhân dân

vùng biển, đảo hiện nay của Tổng cục Chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam
[116], [117], Luận án Tiến sĩ BĐBP vận động ngư dân tham gia quản lý, bảo
vệ chủ quyền, an ninh BGQGTB khu vực miền Trung của tác giả Vũ Hồng
Khanh [76], bài viết BĐBP xử lý tàu thuyền nước ngoài VPHC trong KVBGB
và bài viết BĐBP ngăn chặn tình trạng tàu cá Việt Nam vi phạm vùng biển
nước ngoài khai thác thuỷ sản của tác giả Hoàng Hữu Chiến [15], [17]… Các
nghiên cứu trên đã góp phần làm rõ kết quả thực hiện một số nhiệm vụ, quyền
hạn của BĐBP trong quá trình thực hiện trách nhiệm QLNN về BGQGTB;

13


đồng thời, thể hiện tính chất toàn diện và phức tạp của công tác Biên phòng
trên địa bàn KVBGB thời kỳ mới. Qua đó, thực trạng tổ chức thực hiện một số
nội dung QLNN về BGQGTB của BĐBP đã được đề cập, phân tích, nhất là
thực trạng hoạt động PBGDPL, giữ gìn an ninh, trật tự, ATXH của BĐBP ở
KVBGB - địa bàn chủ yếu cho việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của BĐBP.
1.1.3. Các nghiên cứu ngoài nước và ở Việt Nam liên quan đến giải
pháp tăng cường quản lý nhà nước về biên giới quốc gia trên biển của Bộ
đội Biên phòng
Quản lý nhà nước về BGQGTB thực chất là quản lý, bảo vệ chủ quyền
lãnh thổ của quốc gia trên biển. Trước những căng thẳng trong việc đưa ra
yêu sách chủ quyền của các quốc gia ven bờ Biển Đông, nghiên cứu của các
học giả nước ngoài tập trung khuyến nghị một số giải pháp giải quyết căng
thẳng, như: xây dựng lòng tin, ngoại giao phòng ngừa, ngoại giao bình tĩnh;
giải quyết tranh chấp bằng đối thoại trực tiếp và biện pháp hoà bình; gác tranh
chấp cho tương lai và cùng phát triển chung [87]; giải quyết tranh chấp lãnh
thổ và quyền tài phán bằng các biện pháp hoà bình, không sử dụng vũ lực
hoặc đe dọa sử dụng vũ lực; không tiến hành những hoạt động có thể làm
phức tạp hoặc leo thang tranh chấp, các hoạt động đưa người đến sinh sống

trên các đảo, bãi đá ngầm, bãi cát ngầm, dải đá ngầm và những cấu trúc khác
hiện chưa có người sinh sống; xử lý các bất đồng một cách xây dựng [82].
Những giải pháp này hoàn toàn phù hợp với quan điểm chỉ đạo của Đảng và
Nhà nước Việt Nam đối với hoạt động quản lý, bảo vệ chủ quyền biển, đảo
của các lực lượng thực thi pháp luật trên biển, trong đó có BĐBP.
Quản lý nhà nước về BGQGTB của BĐBP có mối quan hệ mật thiết với
các lĩnh vực khác của QLNN tổng hợp và thống nhất về biển và hải đảo.
Trước những hạn chế trong QLNN về biển, đảo thời gian qua, các nhà khoa
học đã đi sâu nghiên cứu và đề xuất giải pháp cho nhiều vấn đề tồn tại trong
thực tiễn. Điển hình trong các nghiên cứu đó phải kể đến cuốn sách QLNN

14


tổng hợp và thống nhất về biển, hải đảo của tác giả Đặng Xuân Phương,
Nguyễn Lê Tuấn. Trong nghiên cứu của mình các tác giả đã đề cập đến
phương hướng và giải pháp hoàn thiện một số nội dung QLNN tổng hợp và
thống nhất về biển, hải đảo, như: hoàn thiện và vận hành thông suốt thể chế
QLNN tổng hợp và thống nhất về biển, hải đảo dựa trên đổi mới tư duy hoạch
định chiến lược, chính sách biển; hoàn thiện tổ chức bộ máy và phát triển
nguồn nhân lực phục vụ QLNN tổng hợp và thống nhất về biển, hải đảo; đẩy
mạnh công tác tuyên truyền về quản lý, bảo vệ và phát triển bền vững biển,
hải đảo Việt Nam; hoàn thiện các luận cứ khoa học cho việc hoạch định ranh
giới quản lý biển, hải đảo [93].
Pháp luật có vai trò quan trọng trong QLNN đối với biển, hải đảo Việt
Nam. Trên cơ sở đánh giá những tồn tại, hạn chế của pháp luật về QLNN đối
với các vùng biển Việt Nam, tác giả Trần Công Trục với luận án tiến sĩ Hoàn
thiện pháp luật về QLNN đối với các vùng biển của nước CHXHCN Việt Nam
đã có những đề xuất về phương hướng, giải pháp hoàn thiện pháp luật về
QLNN đối với các vùng biển của nước CHXHCN Việt Nam; trong đó, bổ

sung, hoàn thiện pháp luật nhằm củng cố, tăng cường hệ thống tổ chức QLNN
đối với các vùng biển được coi là một giải pháp cơ bản. Trong giải pháp này,
tác giả đã kiến nghị phạm vi thẩm quyền của BĐBP và cơ chế phối hợp giữa
BĐBP với các lực lượng khác trong quản lý, bảo vệ BGQGTB, bảo đảm an
ninh, trật tự, xử lý vi phạm pháp luật trên biển [119].
Các nghiên cứu chuyên sâu về một số hoạt động cụ thể của BĐBP cũng
đã đề cập đến những giải pháp cho việc nâng cao hiệu quả thực thi một số
nhiệm vụ cụ thể của BĐBP tuyến biên giới biển, như: giải pháp phát huy vai
trò của BĐBP trong PBGDPL cho nhân dân vùng biển, đảo [117], giải pháp
nâng cao hiệu quả công tác vận động ngư dân tham gia quản lý, bảo vệ chủ
quyền, an ninh BGQGTB [76], giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động QLNN
về an ninh, trật tự KVBGB, xử lý tàu thuyền nước ngoài VPHC trong

15


KVBGB, ngăn chặn tàu cá Việt Nam vi phạm vùng biển nước ngoài khai thác
thuỷ sản [16], [15], [17]; giải pháp nâng cao hiệu quả phối hợp giữa BĐBP
với Cảnh sát biển trong quản lý, bảo vệ chủ quyền, an ninh trên biển [43].
1.2. Đánh giá tình hình nghiên cứu và những vấn đề đặt ra nghiên
cứu trong luận án
1.2.1. Đánh giá tình hình nghiên cứu
Qua nghiên cứu các công trình khoa học tiêu biểu liên quan đến đề tài
luận án từ trước tới nay trên thế giới cũng như ở Việt Nam, có thể nhận thấy
những kết quả đã đạt được như sau:
Thứ nhất, về lý luận
Các công trình nghiên cứu đã làm rõ những vấn đề lý luận cơ bản của
QLNN về BGQG (khái niệm, đặc điểm, chủ thể, khách thể, nội dung, hình
thức, phương pháp); khái niệm, lịch sử hình thành BGQGTB của Việt Nam;
hoạt động PBGDPL, vận động quần chúng, giữ gìn an ninh, trật tự của BĐBP

ở KVBGB. Tuy nhiên, kết quả nghiên cứu chưa làm sáng tỏ một cách có hệ
thống lý luận QLNN về BGQGTB của BĐBP.
Thứ hai, về thực trạng
Các công trình được nghiên cứu đã có những đánh giá xác thực về kết
quả thực hiện một số nhiệm vụ, quyền hạn của BĐBP trong QLNN về
BGQGTB, như: PBGDPL cho nhân dân vùng biển, đảo; giữ gìn an ninh, trật
tự KVBGB; quản lý, bảo vệ chủ quyền, an ninh vùng biển, đảo... Do đó, chưa
đủ để làm sáng tỏ thực trạng QLNN về BGQGTB của BĐBP một cách toàn
diện dưới góc độ khoa học Luật Hiến pháp và Luật hành chính.
Thứ ba, về giải pháp
Kết quả của các công trình được nghiên cứu đã đưa ra một số giải pháp
để nâng cao hiệu quả QLNN về biển, hải đảo; trong đó có những nhóm giải
pháp quan trọng như hoàn thiện tổ chức bộ máy và phát triển nguồn nhân lực
cho QLNN về biển, hải đảo; hoàn thiện pháp luật về BGQGTB của nước

16


CHXHCN Việt Nam. Tại một số công trình nghiên cứu chuyên sâu về hoạt
động của BĐBP, các tác giả đã có những khuyến nghị về quan điểm, giải
pháp nâng cao hiệu quả hoạt động của BĐBP trên các mặt công tác cụ thể,
như: giữ gìn an ninh, trật tự KVBGB; vận động ngư dân tham gia quản lý,
bảo vệ chủ quyền, an ninh BGQGTB; PBGDPL cho nhân dân vùng biển, đảo;
xử lý VPHC của tàu thuyền nước ngoài… Tuy nhiên, chưa có bất kỳ công
trình khoa học nào đề cập nghiên cứu có hệ thống phương hướng và giải pháp
tăng cường QLNN về BGQGTB của BĐBP.
Như vậy, những công trình khoa học được nghiên cứu chưa luận giải một
cách toàn diện, có hệ thống lý luận, thực trạng QLNN về BGQGTB của
BĐBP, cũng như chưa có những phương hướng, giải pháp phù hợp nhằm tăng
cường QLNN về BGQGTB của BĐBP trong tình hình mới. Vì vậy, đề tài

luận án có trách nhiệm tiếp tục nghiên cứu và làm sáng tỏ những vấn đề trên.
1.2.2. Những vấn đề đặt ra nghiên cứu trong luận án
Từ việc phân tích kết quả nghiên cứu của các công trình khoa học có liên
quan, luận án xác định những vấn đề sau cần được tiếp tục nghiên cứu:
Thứ nhất, những vấn đề lý luận cần nghiên cứu trong luận án
- Luận án có nhiệm vụ phân tích một cách khoa học các quan niệm về
QLNN, về biên giới và BGQGTB để đưa ra quan niệm QLNN về BGQGTB
của BĐBP.
- Quản lý nhà nước về BGQGTB là một lĩnh vực cụ thể và đặc thù của
QLNN nhưng lý luận về nó chưa được nghiên cứu một cách chuyên biệt và có
hệ thống. Vì vậy, luận án có trách nhiệm làm rõ đặc điểm, vai trò, chủ thể, nội
dung QLNN về BGQGTB trên cơ sở kế thừa hợp lý kết quả của các công
trình khoa học liên quan.
- Quản lý nhà nước về BGQGTB đa dạng về chủ thể quản lý nên luận án
có trách nhiệm làm rõ tổ chức, thẩm quyền của BĐBP trong QLNN về
BGQGTB. Nội dung QLNN về BGQGTB rất đa dạng, do nhiều chủ thể thực

17


hiện trong phạm vi thẩm quyền do pháp luật quy định nên luận án cần đi sâu
làm rõ nội dung QLNN về BGQGTB của BĐBP.
Thứ hai, những vấn đề thực tiễn cần nghiên cứu trong luận án
Các công trình khoa học liên quan đến đề tài luận án chủ yếu nghiên cứu,
đánh giá thực trạng một số hoạt động của BĐBP trên địa bàn KVBGB nhưng
chưa có những nghiên cứu, phân tích, đánh giá toàn diện thực trạng QLNN về
BGQGTB của BĐBP, trong khi BĐBP là chủ thể chủ trì, phối hợp với các
đơn vị quân đội đóng quân trong KVBGB, Công an nhân dân, chính quyền
địa phương và các cơ quan có liên quan thực hiện quản lý, bảo vệ BGQGTB;
bảo vệ an ninh chính trị và giữ gìn trật tự, ATXH trong KVBGB theo quy

định của pháp luật. Do đó, luận án cần nghiên cứu, làm sáng tỏ thực trạng
BĐBP tham mưu cho cấp có thẩm quyền thực hiện QLNN về BGQGTB và tổ
chức thực hiện trách nhiệm của mình trong QLNN về BGQGTB.
Thứ ba, phương hướng và giải pháp cần nghiên cứu trong luận án
Việc nghiên cứu, xác định phương hướng, kiến nghị giải pháp nâng cao
hiệu lực, hiệu quả QLNN về biển, hải đảo, cũng như giải pháp nâng cao hiệu
quả một số hoạt động cụ thể của BĐBP (PGGDPL, vận động quần chúng,
QLNN về an ninh, trật tự KVBGB; quản lý, bảo vệ chủ quyền biên giới quốc
gia trên biển…) đã được đề cập đến trong các công trình khoa học với đối
tượng và phạm vi nghiên cứu cụ thể, nhưng chưa có công trình nào nghiên
cứu về phương hướng và giải pháp tăng cường QLNN về BGQGTB của
BĐBP. Vì vậy, trên cơ sở lý luận, đánh giá thực trạng QLNN về BGQGTB
của BĐBP, luận án có trách nhiệm xác định phương hướng và kiến nghị các
giải pháp phù hợp nhằm tăng cường QLNN về BGQGTB của BĐBP.
Đánh giá tổng quát tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án cho
thấy, đến nay, ở nước ta, chưa có công trình chuyên khảo nào nghiên cứu một
cách toàn diện, có hệ thống đề tài QLNN về BGQGTB của BĐBP. Bởi vậy,
việc nghiên cứu đề tài luận án dưới góc độ khoa học pháp lý với cách tiếp cận

18


đa ngành và liên ngành luật học là cần thiết trong bối cảnh việc tổ chức thực
thi pháp luật quốc gia và pháp luật quốc tế trong quản lý, bảo vệ chủ quyền
biển, đảo là xu thế chung của các quốc gia có biển.
1.3. Cơ sở lý thuyết nghiên cứu của đề tài luận án
1.3.1. Lý thuyết nghiên cứu đề tài luận án
Quản lý nhà nước về BGQGTB là lĩnh vực nghiên cứu mới, phức tạp,
mang tính đa ngành, liên ngành nên để thực hiện nhiệm vụ nghiên cứu, luận
án dựa trên các lý thuyết sau:

- Lý thuyết về nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam: nội
dung của lý thuyết thừa nhận nguyên tắc tính tối cao của pháp luật và tổ chức,
quản lý xã hội bằng pháp luật. Những nội dung này là cơ sở cho các nghiên
cứu lý luận, thực trạng và kiến nghị giải pháp tăng cường QLNN về
BGQGTB của BĐBP.
- Lý thuyết về Luật hành chính Việt Nam với tư cách là một ngành luật
trong hệ thống pháp luật Việt Nam. Nội dung của lý thuyết cung cấp cho đề
tài luận án khung lý thuyết về quản lý nhà nước trên các lĩnh vực cụ thể, bao
gồm các vấn đề về tổ chức, thẩm quyền, nội dung của quản lý nhà nước, đồng
thời, là cơ sở cho việc xác định các đặc điểm của quản lý nhà nước về biên
giới quốc gia trên biển của Bộ đội Biên phòng.
- Lý thuyết về bảo vệ tổ quốc xã hội chủ nghĩa: nội dung của lý thuyết đề
cập đến vai trò của Đảng Cộng sản, của nhà nước, của lực lượng vũ trang và
quần chúng nhân dân trong tổ chức, quản lý, xây dựng và bảo vệ xã hội mới,
tăng cường khả năng quốc phòng, hiện đại hoá lực lượng vũ trang, xây dựng
quân đội kiểu mới để bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Những nội dung này
được vận dụng trong nghiên cứu về phương hướng, giải pháp tăng cường
QLNN về BGQGTB của BĐBP.
- Lý thuyết về công tác Biên phòng Việt Nam: nội dung của lý thuyết đề
cập đến các chủ trương, biện pháp, hình thức hoạt động do các cơ quan Nhà

19


nước, các lực lượng vũ trang nhân dân tiến hành trong quản lý, bảo vệ
BGQG, bảo vệ chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, bảo vệ an ninh chính trị, trật tự
xã hội; phòng, chống các hoạt động xâm nhập biên giới, buôn lậu, bảo vệ tài
nguyên của đất nước, ngăn chặn vũ trang xâm lược; xây dựng thế trận biên
phòng toàn dân và xây dựng KVBG vững mạnh toàn diện tạo thế và lực bảo
vệ an toàn lãnh thổ quốc gia, BGQG trong thời bình, đánh bại kẻ thù trong

thời chiến. Những nội dung này được vận dụng xuyên suốt và phù hợp với
từng phần cụ thể theo góc độ nghiên cứu đề tài luận án nhằm làm rõ trách
nhiệm của BĐBP trong QLNN về BGQGTB.
Ngoài ra, việc nghiên cứu đề tài luận án còn dựa trên cơ sở các quan
điểm của Đảng và Nhà nước về phát triển kinh tế gắn với tăng cường, củng cố
quốc phòng, an ninh để bảo vệ vững chắc chủ quyền biển, đảo của Tổ quốc.
1.3.2. Giả thuyết nghiên cứu của đề tài
Trên cơ sở các lý thuyết nghiên cứu, luận án xây dựng giả thuyết nghiên
cứu của đề tài như sau: Bộ đội Biên phòng có trách nhiệm QLNN về
BGQGTB theo quy định của pháp luật nhưng lý luận QLNN về BGQGTB
của BĐBP chưa được nghiên cứu một cách có hệ thống, sâu sắc và toàn diện
dưới góc độ khoa học pháp lý nói chung, khoa học Luật Hành chính nói riêng.
Thực trạng QLNN về BGQGTB của BĐBP cũng chưa được phản ánh một
cách đầy đủ. Do đó, chưa có những giải pháp thực sự phù hợp, mang tính tổng
thể để tăng cường QLNN về BGQGTB của BĐBP trong tình hình mới.
1.3.3. Câu hỏi nghiên cứu của đề tài
Từ những giả thuyết trên, luận án cần trả lời các câu hỏi sau đây:
- Quản lý nhà nước về BGQGTB của BĐBP là gì, có những đặc điểm và
vai trò như thế nào?
- Theo quy định của pháp luật, những chủ thể nào có trách nhiệm thực
hiện QLNN về BGQGTB và trách nhiệm của BĐBP trong QLNN về
BGQGTB?

20


×