Tải bản đầy đủ (.doc) (12 trang)

bài nhóm hình sự 2

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (93.89 KB, 12 trang )

Mục lục
Trang
Đề bài
Giải quyết vấn đề
1. Trên cơ sở khoản 3 Điều 8 hãy xác định hành vi

1
2
2

phạm tội của A và B thuộc loại tội phạm nào?
2. Phân tích khách thể và đối tượng tác động của tội

4

phạm mà A, B đã thực hiện.
3. Trong vụ án trên có đồng phạm không? Tại sao?
4. Giả sử A vừa chấp hành xong bản án 7 năm tù về tội

5

cố ý gây thương tích (Điều 104 BLHS), ra tù được 3

10

tháng lại thực hiện hành vi phạm tội trên thì trường hợp
phạm tội của A được coi là tái phạm hay tái phạm nguy
hiểm? Tại sao?
Danh mục tài liệu tham khảo

12



Bảng từ viết tắt
BLHS: bộ luật hình sự
TNHS: trách nhiệm hình sự

Đề bài
Bài 4:

0


A (28 tuổi) đã gọi điện rủ B (15 tuổi) cùng thực hiện hành vi bắt cóc em
họ của A là C (5 tuổi) để đòi bố mẹ của C phải trả 50 triệu đồng tiền chuộc.
Hành vi của A và B bị xử lí về tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản theo khoản
2 Điều 134 BLHS.
Câu hỏi:
1. Trên cơ sở khoản 3 Điều 8 hãy xác định hành vi phạm tội của A và B
thuộc loại tội phạm nào? (1 điểm)
2. Phân tích khách thể và đối tượng tác động của tội phạm mà A, B đã
thực hiện. (1 điểm)
3. Trong vụ án trên có đồng phạm không? Tại sao? (2 điểm)
4. Giả sử A vừa chấp hành xong bản án 7 năm tù về tội cố ý gây thương
tích (Điều 104 BLHS), ra tù được 3 tháng lại thực hiện hành vi phạm tội trên
thì trường hợp phạm tội của A được coi là tái phạm hay tái phạm nguy hiểm?
Tại sao? (3 điểm)

1


Giải quyết vấn đề

1.Trên cơ sở khoản 3 Điều 8 hãy xác định hành vi phạm tội của A
và B thuộc loại tội phạm nào?
Điều 8 BLHS nước Cộng Hòa XHCN Việt Nam năm 1999 ( đã được
sửa đổi bổ sung ngày 19/6/2009) quy định khái niệm tội phạm như sau:
Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong BLHS,
do người có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý,
xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc, xâm
phạm chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hóa, quốc phòng, an ninh, trật
tự an toàn xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, xâm phạm tính mạng,
sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tự do, tài sản, các quyền, lợi ích hợp pháp
khác của công dân, xâm phạm những lĩnh vực khác của trật tự pháp luật
XHCN.
Khoản 3 Điều 8 bộ luật hình sự quy định: “Tội phạm ít nghiêm trọng là
tội phạm gây nguy hại không lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình
phạt đối với tội ấy là đến ba năm tù; tội phạm nghiêm trọng là tội phạm gây
nguy hại lớn cho xã hội mà mức cao nhất là của khung hình phạt đối với tội
ấy là đến bảy năm tù; tội phạm rất nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại rất
lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là đến
mười lăm năm tù; tội phạm đặc biệt nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại
đặc biệt lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy
là trên mười lăm năm tù, tù chung thân hoặc tử hình”.
Căn cứ vào Khoản 3 Điều 8 bộ luật hình sự, các nhóm tội phạm được
phân định với nhau bởi cả dấu hiệu về nội dung chính trị, xã hội và cả dấu
hiệu về mặt hậu quả pháp lí. Nếu như tội phạm nói chung có dấu hiệu về mặt
nội dung chính trị, xã hội là tính nguy hiểm cho xã hội và có dấu hiệu về mặt
hậu quả pháp lí là tính phải chịu hình phạt thì các nhóm tội phạm cũng có
những dấu hiệu đó. Tính nguy hiểm cho xã hội được cụ thể hóa ở tội phạm ít
nghiêm trọng là tính nguy hại không lớn cho xã hội; ở tội nghiêm trọng là tính
2



nguy hại lớn cho xã hội; ở tội rất nghiêm trọng là tính nguy hại rất lớn cho xã
hội; ở tội đặc biệt nghiêm trọng là tính nguy hại đặc biệt lớn cho xã hội.
Tương ứng và phù hợp với bốn mức độ nguy hiểm cho xã hội đã được phân
hóa như vậy cũng có bốn mức độ cao nhất của khung hình phạt : đến 3 năm
tù; đến 7 năm tù; đến 15 năm tù; trên 15 năm tù, tù chung thân hoặc tử hình.
Trong hai dấu hiệu phân biệt các tội phạm này với nhau, dấu hiệu về
mặt nội dung chính trị, xã hội quyết định dấu hiệu về mặt hậu quả pháp lí. Sự
xác định về mặt hậu quả pháp lí biểu hiện ở mức cao nhất của khung hình
phạt chỉ là kết quả của quá trình đánh giá đầy đủ và toàn diện của các nhà làm
luật về sự cần thiết khách quan của các biện pháp trách nhiệm hình sự đối với
những hành vi phạm tội có tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội khác
nhau. Nhưng khi đã được xác định, khung hình phạt cũng trở thành dấu hiệu
có tính độc lập tương đối để phân biệt các nhóm tội phạm với nhau, không
phụ thuộc vào mức độ hình phạt cụ thể được áp dụng. Theo đó tội phạm được
phân loại dựa vào “mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy”. Như
vậy thì việc phân loại tội phạm sẽ dựa vào khung hình phạt mà người phạm
tội bị Toà án áp dụng để xét xử và quyết định hình phạt đối với họ, chứ không
phải là dựa vào mức hình phạt mà Toà án đã quyết định.
Hành vi phạm tội của A và B thuộc loại tội phạm nào được xác định
như sau:
Hành vi của A và B bị xử lí về tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản,
được quy định tại khoản 2 Điều 134 BLHS như sau: “Phạm tội thuộc một
trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ năm năm đến mười hai
năm...”. Như vậy, mức cao nhất của khung hình phạt áp dụng đối với hành vi
phạm tội của A và B trong trường hợp này là mười hai năm tù. Do đó, căn cứ
vào khoản 3 Điều 8 BLHS thì hành vi phạm tội của A và B thuộc loại tội
phạm rất nghiêm trọng.

3



2. Phân tích khách thể và đối tượng tác động của tội phạm mà A, B
đã thực hiện.
2.1. Khách thể của tội phạm
Khách thể của tội phạm là quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ và
bị tội phạm xâm hại. Theo khoa học luật hình sự Việt Nam, khách thể của tội
phạm có ba loại: khách thể chung, khách thể loại và khách thể trực tiếp.
Những quan hệ xã hội được coi là khách thể bảo vệ của luật hình sự là những
quan hệ xã hội đã được xác định trong Điều 8 BLHS. Cụ thể khách thể bảo vệ
của luật hình sự bao gồm: độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ
Tổ Quốc, chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hóa, quốc phòng, an ninh,
trật tự, an toàn xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, tính mạng, sức
khỏe, danh dự, nhân phẩm, tự do, tài sản, các quyền, lợi ích hợp pháp khác
của công dân, những lĩnh vực khác của trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa.
A và B ở tình huống nêu trên đã thực hiện hành vi bắt cóc C (5 tuổi, là
em họ của A) và đòi tiền 50 triệu đồng tiền chuộc từ bố mẹ C. Hành vi này
của A và B đã cấu thành tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản theo khoản 2
điều 134 BLHS. Như vậy, khách thể trong tình huống này là quan hệ nhân
thân – quan hệ về tính mạng, sức khỏe con người, mà cụ thể là việc A và B đã
xâm hại đến sức khỏe, tính mạng của C và quan hệ sở hữu – quan hệ giữa
người với người về tài sản, mà cụ thể là quan hệ về tiền giữa gia đình C với A
và B. Hành vi bắt cóc C của A và B đã xâm hại đến sức khỏe, tính mạng của
C, gây nguy hiểm cho C. Hay nói cách khác, hành vi của A và B đã xâm hại
đến quan hệ nhân thân. Sau đó, A và B đã gọi điện thoại cho bố mẹ của C để
đòi 50 triệu đồng tiền chuộc. Hành vi của A và B xâm phạm và nhằm tước
đoạt quyền sở hữu hợp pháp của bố mẹ C về tài sản (50 triệu đồng). Hành vi
này của A và B đã xâm hại đến quan hệ sở hữu bởi hành vi đó làm bởi vì số
tiền 50 triệu là của bố mẹ C, A và B tìm cách chiếm đoạt nó một cách trái
pháp luật. Như vậy, đối với tội bắt cóc chiếm đoạt tài sản, khách thể bị xâm


4


hại trước chính là quan hệ nhân thân, thông qua việc xâm hại quan hệ nhân
thân thì người phạm tội (A và B) mới xâm hại đến quan hệ sở hữu được.
2.2. Đối tượng tác động
Đối tượng tác động của tội phạm là bộ phận của khách thể của tội
phạm, bị hành vi phạm tội tác động đến để gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt
hại cho những quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ.
Trong tình huống trên đối tượng tác động là con người mà cụ thể là C
và tài sản mà cụ thể là số tiền 50 triệu đồng. A và B đã trực tiếp xâm hại đến
sức khỏe, tính mạng của cháu C. Hành vi này đã xâm hại đến quan hệ xã hội
được luật hình sự bảo vệ, cụ thể là tính mạng và sức khỏe C. Đồng thời hành
vi bắt cóc của A và B đã làm biến đổi tình trạng của đối tượng tác động mà
trong trường hợp này là gây hoảng loạn, lo sợ cho cháu C. Đồng thời, việc A
và B đòi bố mẹ C phải trả 50 triệu đồng tiền chuộc là hành vi làm biến đổi
tình trạng bình thường của tài sản một cách trái pháp luật, gây thiệt hại về tài
sản cho gia đình C.
Chính hành vi phạm tội của A và B đã gây nên những thiệt hại cho quan
hệ nhân thân và quan hệ sở hữu– là hai quan hệ được luật hình sự bảo vệ. Vì
vậy, C và số tiền 50 triệu đồng là đối tượng tác động trong tình huống này.
3. Trong vụ án trên có đồng phạm không? Tại sao?
Trả lời: Trong vụ án trên có đồng phạm.
Giải thích:
Điều 20 BLHS quy định: “Đồng phạm là trường hợp có hai người trở
lên cố ý cùng thực hiện một tội phạm”. Theo đó, đồng phạm đòi hỏi phải có
những dấu hiệu về mặt khách quan và chủ quan.
Về mặt khách quan, đồng phạm đòi hỏi có hai dấu hiệu:
- Có hai người trở lên và những người này có đủ điều kiện của chủ thể

của tội phạm.
- Những người này phải cùng thực hiện tội phạm (cố ý).

5


* Về dấu hiệu thứ nhất: Đồng phạm đòi hỏi phải có ít nhất hai người và
hai người này phải có đủ điều kiện của chủ thể của tội phạm. Đó là điều kiện
có năng lực TNHS và đạt độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự.
Người có năng lực TNHS theo luật hình sự Việt Nam là người đã đạt
độ tuổi chịu TNHS theo Điều 12 BLHS quy định:
1. Người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội
phạm.
2. Người từ đủ 14 tuổi trở lên, nhưng chưa đủ 16 tuổi phải chịu trách
nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý hoặc tội phạm đặc biệt
nghiêm trọng.
và không thuộc trường hợp ở trong tình trạng không có năng lực TNHS
theo điều 13 BLHS:
1. Người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội trong khi đang mắc
bệnh tâm thần hoặc một bệnh khác làm mất khả năng nhận thức hoặc khả
năng điều khiển hành vi của mình, thì không phải chịu trách nhiệm hình sự;
đối với người này, phải áp dụng biện pháp bắt buộc chữa bệnh.
2. Người phạm tội trong khi có năng lực trách nhiệm hình sự, nhưng đã
lâm vào tình trạng qui định tại khoản 1 Điều này trước khi bị kết án, thì cũng
được áp dụng biện pháp bắt buộc chữa bệnh. Sau khi khỏi bệnh, người đó có
thể phải chịu trách nhiệm hình sự.
Xét tình huống trên, A 28 tuổi, B 15 tuổi cùng thực hiện hành vi bắt cóc
em họ của A là C. Như vậy, việc bắt cóc C có sự tham gia của hai người.
Hành vi đó của A và B bị xử lí về tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản theo
khoản 2, điều 134 BLHS. Khoản 2, điều 134 BLHS quy định: “Phạm tội

thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ năm năm đến mười
hai năm...”
Theo khoản 2, điều 134 BLHS có thể thấy, mức cao nhất của khung
hình phạt đối với tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản được quy định tại khoản
này là mười hai năm tù. Căn cứ vào khoản 3, điều 8 BLHS thì có thể xác định
6


loại tội phạm mà khoản 2, điều 134 BLHS quy định là tội rất nghiêm trọng.
Như vậy, đối chiếu với khoản 2, điều 12 và điều 13 BLHS thì nếu B 15 tuổi
phạm tội thì B vẫn phải chịu trách nhiệm hình sự, có nghĩa là A và B thỏa mãn
dấu hiệu thứ nhất của mặt khách quan của đồng phạm.
* Về dấu hiệu thứ 2: Cùng thực hiện tội phạm có nghĩa là người đồng
phạm phải tham gia vào tội phạm với một trong bốn hành vi sau:
- Hành vi thực hiện tội phạm (thực hiện hành vi được mô tả trong
CTTP). Người có hành vi này được gọi là người thực hành.
- Hành vi tổ chức thực hiện tội phạm (tổ chức thực hiện hành vi được
mô tả trong CTTP). Người có hành vi này được gọi là người người tổ chức.
- Hành vi xúi giục người khác thực hiện tội phạm (xúi giục người khác
thực hiện hành vi được mô tả trong CTTP). Người có hành vi này được gọi là
người xúi dục.
- Hành vi giúp sức người khác thực hiện tội phạm (giúp sức người khác
thực hiện hành vi được mô tả trong CTTP ). Người có hành vi này được gọi là
người giúp sức.
Nếu không có một trong những hành vi này thì không thể coi là cùng
thực hiện và do vậy cũng không thể là người đồng phạm được. Trong vụ đồng
phạm, có thể có đủ bốn loại hành vi tham gia nhưng cũng có thể chỉ có một
loại hành vi. Trong tình huống này, có thể thấy, A và B đã tự mình thực hiện
hành vi được mô tả trong CTTP. Hành vi của A và B đã thỏa mãn hết các dấu
hiệu của CTTP như lỗi, là hành vi và ?????? tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài

sản. Vì thế, A và B được coi là người thực hành, người trực tiếp thực hiện tội
phạm.
Về mặt chủ quan, đồng phạm đòi hỏi những người cùng thực hiện tội
phạm đều có lỗi cố ý. Ngoài ra, đối với những tội có dấu hiệu mục đích phạm
tội là dấu hiệu bắt buộc, đồng phạm đòi hỏi những người cùng thực hiện phải
có cùng mục đích phạm tội đó.

7


* Dấu hiệu lỗi: khi thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội, mỗi người
đồng phạm không chỉ cố ý với hành vi của mình mà còn biết và mong muốn
sự cố ý tham gia của những người đồng phạm khác. Lỗi cố ý trong đồng
phạm được thể hiện trên hai mặt lí trí và ý chí:
- Về lí trí: Mỗi người đều biết hành vi của mình nguy hiểm cho xã hội
và đều biết người khác cũng có hành vi nguy hiểm cho xã hội cùng với mình.
Nếu chỉ biết mình có hành vi nguy hiểm cho xã hội mà không biết người khác
cũng có hành vi nguy hiểm cho xã hội với mình thì chưa thỏa mãn lỗi cố ý
trong đồng phạm. Với tình huống trên, A rủ B đi bắt cóc C và B đồng ý có
nghĩa A đã biết được hành vi nguy hiểm cho xã hội của mình từ trước và B
nhận lời có nghĩa là B cũng thực hiện tội phạm giống A. Mặc dù biết được kế
hoạch phạm tội của A nhưng B vẫn nhận lời. Như vậy cả A và B đều nhận
thức được hành vi nguy hiểm cho xã hội của mình. Mặc dù thấy trước được
hậu quả nguy hiểm cho xã hội nhưng A và B vẫn làm. Như vậy, việc làm của
A và B đã bị lí trí kiểm soát.
- Về ý chí: Những người đồng phạm cùng mong muốn có hoạt động
chung và cùng mong muốn hoặc cùng có ý thức để mặc cho hậu quả phát
sinh. Giữa những người đồng phạm phải có hoạt động chung, nghĩa là các
hành vi được thực hiện trong mối liên hệ thống nhất với nhau, hành vi của
mỗi người là điều kiện hỗ trợ cho các hoạt động chung. C là em họ của A, A

rủ B đi bắt cóc em họ mình như vậy A là người tìm được đối tượng bắt cóc và
hành vi bắt cóc có sự liên kết thống nhất giữa A và B.
* Dấu hiệu mục đích: Dấu hiệu mục đích cũng là một dấu hiệu bắt buộc
trong đồng phạm. A và B bắt cóc C có cùng mục đích đó là nhận được số tiền
chuộc 50 triệu đồng từ gia đình C.
Trong tình huống này, hành vi của A và B đều thỏa mãn các dấu hiệu
chủ quan và khách của đồng phạm. Như vậy, tình huống này có đồng phạm.

8


4. Giả sử A vừa chấp hành xong bản án 7 năm tù về tội cố ý gây
thương tích (Điều 104 BLHS), ra tù được 3 tháng lại thực hiện hành vi
phạm tội trên thì trường hợp phạm tội của A được coi là tái phạm hay tái
phạm nguy hiểm? Tại sao?
Điều 49 BLHS quy định về tái phạm và tái phạm nguy hiểm như sau:
1.

“Tái phạm là trường hợp đã bị kết án, chưa được xoá án tích mà

lại phạm tội do cố ý hoặc phạm tội rất nghiêm trọng, tội đặc biệt nghiêm
trọng do vô ý.
2.
Những trường hợp sau đây được coi là tái phạm nguy hiểm:
a)
Đã bị kết án về tội rất nghiêm trọng, tội đặc biệt nghiêm trọng
do cố ý, chưa được xoá án tích mà lại phạm tội rất nghiêm trọng, tội đặc biệt
nghiêm trọng do cố ý;
b)
Đã tái phạm, chưa được xoá án tích mà lại phạm tội do cố ý.”

Theo điều 64 BLHS quy định về xóa án tích như sau:
1.

“Người được miễn hình phạt.

2.

Người bị kết án không phải về các tội quy định tại Chương

XI và Chương XXIV của Bộ luật này, nếu từ khi chấp hành xong bản án hoặc
từ khi hết thời hiệu thi hành bản án, người đó không phạm tội mới trong thời
hạn sau đây:
a) Một năm trong trường hợp bị phạt cảnh cáo, phạt tiền, cải tạo không
giam giữ hoặc phạt tù nhưng được hưởng án treo;
b) Ba năm trong trong trường hợp hình phạt là tù đến ba năm;
c) Năm năm trong trường hợp hình phạt là tù từ trên ba năm đến mười
lăm năm;
d) Bảy năm trong trường hợp hình phạt là tù từ trên mười lăm năm.”
Vậy trong trường hợp này, tại thời điểm phạm tội mới (tội bắt cóc nhằm
chiếm đoạt tài sản), A vừa chấp hành xong bản án 7 năm tù và mới ra tù được
3 tháng. Do vậy, khi phạm tội mới, A chưa được xóa án tích về tội cố ý gây
thương tích.

9


A và B bị xử lí về tội bắt cóc để chiếm đoạt tài sản theo khoản 2 điều
134 BLHS, mức cao nhất của khung hình phạt này là 12 năm, như vậy, tội
phạm mới mà A thực hiện là tội rất nghiêm trọng.
Theo tình huống, A đã từng bị kết tội cố ý gây thương tích được quy

định trong điều 104 BLHS, mà A phải chịu bản án 7 năm tù. Như vậy, A có
thể bị kết án theo khoản 2 hoặc 3 của điều 104 BLHS, cụ thể:
2. Phạm tội gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người
khác mà tỷ lệ thương tật từ 31% đến 60% hoặc từ 11% đến 30% nhưng thuộc
một trong các trường hợp quy định tại các điểm từ điểm a đến điểm k khoản 1
Điều này, thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm.
3. Phạm tội gây thương tích, gây tổn hại cho sức khỏe của người khác
mà tỷ lệ thương tật từ 61% trở lên hoặc dẫn đến chết người, hoặc từ 31% đến
60% nhưng thuộc một trong các trường hợp quy định tại các điểm từ điểm a
đến điểm k khoản 1 Điều này, thì bị phạt tù từ năm năm đến mười lăm năm.
Trường hợp 1: A bị xử lý về tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản theo
khoản 2 điều 134 BLHS, như vậy tội phạm mới mà A thực hiện là tội rất
nghiêm trọng. Nếu trước đó, A đã từng bị kết án tội cố ý gây thương tích theo
khoản 2, điều 104 BLHS thì có thể thấy mức cao nhất của khung hình phạt
này là bảy năm tù, vậy tội phạm trước mà A phạm phải là tội nghiêm trọng.
Như vậy, trong trường hợp này, A chưa được xoá án tích về tội phạm trước
(tội cố ý gây thương tích - khoản 2, điều 104) mà lại phạm tội do cố ý (tội bắt
cóc nhằm chiếm đoạt tài sản- khoản 2, điều 134). Vậy, căn cứ theo khoản 1,
điều 49 BLHS, hành vi của A là tái phạm.
Trường hợp 2: A bị xử lý về tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản theo
khoản 2 điều 134 BLHS, như vậy tội mà A phạm tội là tội rất nghiêm trọng.
Nếu trước đó, A đã từng bị kết án tội cố ý gây thương tích theo khoản 3, điều
104 BLHS thì có thể thấy mức cao nhất của khung hình phạt này là mười lăm
năm tù, vậy tội mà A phạm phải là tội rất nghiêm trọng. Như vậy, trong
trường hợp này, A đã bị kết án về tội rất nghiêm trọng do cố ý (tội cố ý gây
10


thương tích - khoản 3, điều 104), chưa được xóa án tích mà lại phạm thêm tội
mới (tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản - khoản 2, điều 134) là tội rất

nghiêm trọng do cố ý. Vậy, căn cứ vào khoản 2, đièu 49 BLHS, hành vi của A
trong trường hợp này là tái phạm nguy hiểm.

Danh mục tài liệu tham khảo
1. Nxb chính trị quốc gia, Bộ luật hình sự năm 1999 (sửa đổi bổ sung
năm 2009)
2. Trường đại học luật Hà Nội, Giáo trình Luật hình sự Việt Nam (Tập
1) – Nxb Công an nhân dân
3. />4. />5.

/>
toi-pham
6. />dinh_ve_dong_pham.aspx
7. />8. />9. />10. />x?ItemID=15325

11



Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×