Tải bản đầy đủ (.doc) (11 trang)

bài tập lớn học kỳ môn luật hình sự việt nam 1

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (93.73 KB, 11 trang )

MỤC LỤC

TÌNH HUỐNG

2

I. ĐẶT VẤN ĐỀ
II. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ

3

1. Tội hiếp dâm có cấu thành tội phạm vật chất hay cấu thành tội
phạm hình thức? Trong trường hợp trên tội hiếp dâm đã hoàn thành

3

chưa? Tại sao?
2. Trong trường hợp này M có phải chịu TNHS về tội hiếp dâm
không? Tại sao?
3. Có ý kiến cho rằng trong trường hợp phạm tội này H chỉ có lỗi
cố ý gián tiếp, còn Q có lỗi cố ý trực tiếp. Hãy bình luận ý kiến trên.

5

7

4. Nếu sau khi M và H bỏ đi, L khóc lóc van xin Q tha cho mình
và Q đã mủi lòng nên không thực hiện hành vi giao cấu với L thì Q có

9


phải chịu TNHS về tội hiếp dâm không? Tại sao?
III. KẾT THÚC VẤN ĐỀ

10

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

11

BẢNG TỪ VIẾT TẮT
BLHS

Bộ luật hình sự

CTTP

Cấu thành tội phạm

TNHS

Trách nhiệm hình sự

CNXH

Chủ nghĩa xã hội
TÌNH HUỐNG 08:

1



M (nữ) cùng hai tên H và Q rủ L là một cô gái 17 tuổi cùng đi dự sinh nhật
M tại một nhà nghỉ có phòng hát karaoke. Cả bốn cùng uống rượu, nhảy múa, H
và Q còn pha thuốc kích dục vào đồ uống của mình. Một lát sau M rủ H là bạn
trai của mình lên phòng nghỉ và đề nghị L cũng vào phòng nghỉ thành một cặp
với Q. Tuy nhiên L từ chối và đòi về. M, H và Q dùng vũ lực kéo L lên phòng nghỉ.
Thấy L vẫn tiếp tục nằng nặc từ chối M đã rút con dao đặt lên bàn và bảo “Mày
thích gì? Có chiều Q không thì bảo?” L sợ quá đành đồng ý ở lại cùng Q. Sau đó
Q đã thực hiện hành vi giao cấu trái ý muốn của L.
Hỏi:
1. Tội hiếp dâm có cấu thành tội phạm vật chất hay cấu thành tội phạm hình
thức? Trong trường hợp trên tội hiếp dâm đã hoàn thành chưa? Tại sao?
2. Trong trường hợp này M có phải chịu TNHS về tội hiếp dâm không? Tại sao?
3. Có ý kiến cho rằng trong trường hợp phạm tội này H chỉ có lỗi cố ý gián tiếp,
còn Q có lỗi cố ý trực tiếp. Hãy bình luận ý kiến trên.
4. Nếu sau khi M và H bỏ đi, L khóc lóc van xin Q tha cho mình và Q đã mủi
lòng nên không thực hiện hành vi giao cấu với L thì Q có phải chịu TNHS về
tội hiếp dâm không? Tại sao?

I. ĐẶT VẤN ĐỀ
2


"Công dân có quyền bất khả xâm phạm về thân thể, được pháp luật bảo hộ về
tính mạng, sức khoẻ, danh dự và nhân phẩm."
(Điều 71 Hiến pháp Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992)
Mọi hành vi xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tự do, tài
sản, các quyền, lợi ích hợp pháp khác của công dân đều có thể bị xử lý nghiêm minh
trước pháp luật. Một thực tế không thể phủ nhận xã hội ngày càng phát triển, tội
phạm ngày càng gia tăng, trong đó hành vi xâm hại đến quyền bất khả xâm phạm về
tình dục bị coi là tội phạm và bị xử lý theo quy định của Bộ luật Hình sự. Có rất

nhiều vụ án đều đề cập đến loại tội phạm xâm hại tới nhân phẩm, danh dự của con
người. Sau đây, em xin phép được đi sâu vào giải quyết tình huống mà em lựa chọn.
II. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
1. Tội hiếp dâm có cấu thành tội phạm vật chất hay cấu thành tội phạm hình
thức? Trong trường hợp trên tội hiếp dâm đã hoàn thành chưa? Tại sao?
Trả lời: Tội hiếp dâm là tội có cấu thành tội phạm (CTTP) hình thức.
Giải thích:
Dựa vào đặc điểm cấu trúc của các dấu hiệu thuộc mặt khách quan có thể chia
CTTP thành CTTP vật chất và CTTP hình thức:
- CTTP vật chất là CTTP có các dấu hiệu của mặt khách quan là hành vi, hậu
quả, mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả;
- CTTP hình thức là CTTP có một dấu hiệu của mặt khách quan là hành vi
nguy hiểm cho xã hội.
Điểm khác nhau giữa CTTP vật chất và CTTP hình thức ở chỗ nhà làm luật
quy định dấu hiệu hậu quả là dấu hiệu bắt buộc hay không phải là dấu hiệu bắt buộc
trong CTTP. Việc xác định loại tội có CTTP vật chất hay có CTTP hình thức phải dựa
vào quy định của luật, tránh quan niệm cho rằng nếu có hậu quả xảy ra thì tội phạm
đang xem xét có CTTP vật chất hay ngược lại, nếu hành vi phạm tội chưa gây ra hậu
3


quả thì tội có CTTP hình thức. Việc xây dựng loại tội nào có CTTP cơ bản là CTTP
vật chất hay CTTP hình thức là xuất phát từ cơ sở khách quan sau:
Dựa theo khoản 1 Điều 111 BLHS 1999 (sửa đổi, bổ sung 2009) quy định về
tội hiếp dâm: “Người nào dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực hoặc lợi dụng tình trạng
không thể tự vệ được của nạn nhân hoặc thủ đoạn khác giao cấu với nạn nhân trái ý
muốn của họ, thì bị phạt tù từ hai năm đến bẩy năm. ...”
Hành vi nguy hiểm cho xã hội đã được thể hiện ở đây là “dùng vũ lực, đe dọa
dùng vũ lực hoặc lợi dụng tình trạng không thể tự vệ được của nạn nhân hoặc thủ
đoạn khác giao cấu với nạn nhân trái với ý muốn của họ”; nhưng trong Điều luật lại

không chỉ rõ hậu quả của hành vi gây ra cũng như không nêu rõ mối quan hệ nhân
quả giữa hành vi và hậu quả. Chính vì vậy, tội hiếp dâm được quy định tại Điều 111
BLHS là tội có CTTP hình thức.
Đối với tội hiếp dâm, chỉ cần có hành vi dùng vũ lực hoặc đe dọa dùng vũ lực
hoặc lợi dụng tình trạng không thể tự vệ được của nạn nhân hoặc thủ đoạn khác để
giao cấu với nạn nhân, cho dù đã giao cấu được hay chưa thì vẫn bị coi là đã phạm
tội hiếp dâm và ở giai đoạn phạm tội hoàn thành nhưng chưa đạt.
Kết luận: Tội hiếp dâm là tội có cấu thành tội phạm (CTTP) hình thức.
Trả lời: Trong trường hợp trên thì tội hiếp dâm đã hoàn thành rồi.
Giải thích:
Do tội hiếp dâm là tội có cấu thành tội phạm hình thức vì chỉ cần thực hiện
một trong những hành vi khách quan được quy định trong điều 111 BLHS năm 1999
(sửa đổi, bổ sung 2009) là tội phạm đã hoàn thành cho dù đã giao cấu được hay chưa.
Trong tình huống trên M, H và Q đã dùng vũ lực kéo L lên phòng ngủ nhưng L
vẫn tiếp tục từ chối sau đó M rút dao đe dọa, L sợ quá nên L đồng ý ở lại cùng Q và
sau đó Q đã thực hiện được hành vi giao cấu trái ý muốn với L. Người phạm tội

4


trong trường hợp này đã dùng vũ lực và sau đó là đe dọa dùng vũ lực buộc L phải
đồng ý giao cấu trái muốn và Q đã thực hiện hành vi giao cấu với L.
Như vậy, trong trường hợp này tội hiếp dâm đã hoàn thành.
2. Trong trường hợp này M có phải chịu TNHS về tội hiếp dâm không? Tại
sao?
Trả lời: Trong trường hợp phạm tội này M phải chịu TNHS về tội hiếp dâm.
Giải thích:
Trường hợp phạm tội này đã thỏa mãn đầy đủ các dấu hiệu về mặt chủ thể, mặt
khách quan và mặt chủ quan của tội phạm. Nhưng ở mặt chủ thể của tội phạm hiếp
dâm ngoài những yêu cầu nói chung về năng lực trách nhiệm hình sự và đạt độ tuổi

thì còn có dấu hiệu đặc biệt đó là người thực hiện hành vi phạm tội của tội này chỉ có
thể là nam giới, nếu là nữ giới thì nữ giới đóng vai trò là đồng phạm. Trong vụ án này
M là nữ giữ vai trò là người đồng phạm của tội phạm hiếp dâm nên M phải trịu trách
nhiệm hình sự về tội hiếp dâm.
Theo Điều 20 BLHS hiện hành quy định:
“1. Đồng phạm là trường hợp có hai người trở lên cố ý cùng thực hiện một tội
phạm.
2. Người tổ chức, người thực hành, người xúi giục, người giúp sức đều là
những người đồng phạm.
Người thực hành là người trực tiếp thực hiện tội phạm.
Người tổ chức là người chủ mưu, cầm đầu, chỉ huy việc thực hiện tội phạm.
Người xúi giục là người kích động, dụ dỗ, thúc đẩy người khác thực hiện tội
phạm.
Người giúp sức là người tạo những điều kiện tinh thần hoặc vật chất cho việc
thực hiện tội phạm”.

5


Trường hợp phạm tội của M, H và Q đã thỏa mãn các dấu hiệu pháp lý của
đồng phạm bao gồm mặt khách quan và mặt chủ quan:
Dấu hiệu về mặt khách quan: đồng phạm đòi hỏi phải có từ hai người trở lên
tham gia vào việc thực hiện một tội phạm. Trong trường hợp phạm tội trên thì M, H
và Q cùng nhau thực hiện một tội phạm đó là tội hiếp dâm. M, H và Q đã dùng vũ
lực kéo L lên phòng nghỉ (thể hiện sự liên kết thống nhất với nhau) để ép buộc L thực
hiện hành vi giao cấu với Q. Hành vi này của M, H và Q đã cấu thành tội phạm cụ
thể đó là tội hiếp dâm theo quy định tại khoản 1 Điều 111 BLHS. Tội phạm hiếp dâm
là tội phạm cấu thành hình thức nên khi M, H và Q dùng hành vi vũ lực với L nhằm
mục đích để Q giao cấu với L thì tội phạm hiếp dâm đã được cấu thành.
Dấu hiệu về mặt chủ quan: đòi hỏi những người thực hiện tội phạm đều có lỗi

cố ý. Ở đây M, H và Q đã cố ý thực hiện hành vi phạm tội. Về mặt lý trí M, H và Q
có đủ khả năng nhận thức để thấy được hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội và
trái với quy định của pháp luật. Về mặt ý chí M, H mong muốn Q thực hiện hành vi
giao cấu với L và Q cũng muốn thực hiện hành vi này. Như vậy, là họ mong muốn
hậu quả xảy ra.
Căn cứ vào dấu hiệu khách quan và chủ quan đã phân tích trên ta có thể khẳng
định M là đồng phạm của tội hiếp dâm. Nhưng trong trường hợp này M là nữ giới
nên ta xác định M giữ vai trò đồng phạm là người tổ chức, người xúi giục hay người
giúp sức. Trường hợp này M giữ vai trò đồng phạm là người giúp sức. Theo quy định
tại khoản 2 Điều 20 thì: “Người giúp sức là người tạo những điều kiện tinh thần
hoặc vật chất cho việc thực hiện tội phạm”. Người giúp sức có thể tạo điều kiện hay
nói cách khác là giúp sức về vật chất hoặc tinh thần. M cùng H và Q dùng vũ lực kéo
L lên phòng để tạo điều kiện cho Q giao cấu với L, sau đó M dùng dao và lời nói
mang tính chất đe dọa, nhằm cưỡng bức về tinh thần làm L sợ và không giám chống
cự. Việc M cưỡng bức về tinh thần đối với L cũng nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho
Q thực hiện hành vi giao cấu trái ý muốn với L.
6


Như vậy, có thể kết luận cả hai hành vi dùng vũ lực và dùng dao cùng lời
nói đe dọa nhằm tạo điều kiện để Q thực hiện hành vi giao cấu trái ý muốn với L
thì M chính là người giúp sức.
3. Có ý kiến cho rằng trong trường hợp phạm tội này H chỉ có lỗi cố ý
gián tiếp, còn Q có lỗi cố ý trực tiếp. Hãy bình luận ý kiến trên.
Trả lời: Ý kiến trong trường hợp phạm tội trên là sai. Ta có thể thấy H và Q đều
phạm tội lỗi cố ý trực tiếp trong việc L bị giao cấu trái ý muốn.
Theo Điều 9 BLHS quy định :
• Cố ý trực tiếp là lỗi của người phạm tội khi thực hiện hành vi nguy hiểm cho

xã hội, nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, thấy trước hậu quả

của hành vi đó và mong muốn hậu quả xảy ra.
• Lỗi cố ý gián tiếp là lỗi của người khi thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã

hội nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, thấy trước hậu quả của
hành vi đó, tuy không mong muốn nhưng ý thức để mặc cho hậu quả xảy ra.
Theo khoản 1 Điều 9 BLHS về lỗi cố ý trực tiếp:
Thứ nhất, xét về mặt lí trí: Người phạm tội nhận thức rõ tính chất nguy hiểm
cho xã hội của mình và thấy trước hậu quả của hành vi đó.
Tội hiếp dâm là loại tội có CTTP hình thức nên hậu quả không phải là dấu hiệu
bắt buộc, do vậy vấn đề có thấy trước hay không thấy trước hậu quả không được đặt
ra khi xem xét lí trí của người phạm tội với lỗi cố ý trực tiếp. Trong trường hợp trên,
ta có thể thấy cả H và Q đều nhận thức được hậu quả nguy hiểm cho xã hội khi cả M,
H và Q dùng vũ lực kéo L lên phòng nghỉ, L là cô gái chưa thành niên(17 tuổi), L
không tự nguyện lên phòng nghỉ thành một cặp với Q (L đã từ chối và đòi về), địa
điểm là phòng hát karaoke và việc dùng vũ lực kéo cô lên phòng đã thể hiện rõ tính
chất nguy hiểm của hành vi của mình. Sự nhận thức rõ tính chất nguy hiểm cho xã
hội của hành vi là cơ sở cho việc thấy trước hậu quả của hành vi.
7


Như vậy, xét về mặt lí trí thì trong trường hợp trên cả H và Q đều thỏa mãn
dấu hiệu của lỗi cố ý trực tiếp.
Thứ hai, xét về mặt ý chí: Người phạm tội mong muốn hậu quả phát sinh.
Đối với Q, việc nhận thức được tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi
của mình thì chứng tỏ chủ thể mong muốn thực hiện hành vi đó. Dùng vũ lực là dùng
sức mạnh về thể chất như vật ngã, nắm giữ chân tay, kéo, xé quần áo của nạn nhân.
Hành vi dùng vũ lực trong tội hiếp dâm cũng tương tự với hành vi dùng vũ lực ở một
số tội phạm khác, nhưng ở tội hiếp dâm thì hàng vi dùng vũ lực là nhằm giao cấu với
nạn nhân. Tội phạm được coi là hoàn thành từ thời điểm có hành động giao cấu,
không cần căn cứ là đã giao cấu xong hay chưa. Xét tình huống trên thì thấy hành vi

của Q là hành vi dùng vũ lực kéo L lên phòng nghỉ để giao cấu trái với ý muốn của
nạn nhân.
Đối với H, H đã cùng với M và Q dùng vũ lực kéo L lên phòng nghỉ, tức là H
đã thực hiện hành vi có mục đích chứ không phải không mong muốn và để mặc cho
hậu quả xảy ra. Mặc dù mục đích dùng vũ lực kéo L lên phòng nghỉ của H không
nhằm mục đích giao cấu nhưng H nhận thức được tính nguy hiểm cho xã hội của
hành vi do mình gây ra. Tội hiếp dâm là tội có CTTP hình thức nên hậu quả nguy
hiểm cho xã hội không phải là dấu hiệu bắt buộc cho nên việc xác định ý chí đối với
hậu quả nguy hiểm cho xã hội không được đặt ra. Để xác định người phạm tội có lỗi
có ý trực tiếp chỉ cần người thực hiện hành vi nhận thức được tính chất nguy hiểm
cho xã hội của hành vi đó mà vẫn thực hiện hành vi đó. Như vậy, không thể cho rằng
H có lỗi gián tiếp trong tình huống trên được.
Tóm lại, cả Q và H đều thỏa mãn dấu hiệu về lí trí và ý chí của lỗi cố ý trực
tiếp, cả H và Q đều có lỗi cố ý trực tiếp của tội hiếp dâm.
Vậy, ý kiến cho rằng trường hợp phạm tội này H chỉ có lỗi cố ý gián tiếp,
còn Q có lỗi cố ý trực tiếp là sai.

8


4. Nếu sau khi M và H bỏ đi, L khóc lóc van xin Q tha cho mình và Q đã mủi
lòng nên không thực hiện hành vi giao cấu với L thì Q có phải chịu TNHS
về tội hiếp dâm không? Tại sao?
Trả lời: Nếu sau khi M và H bỏ đi , L khóc lóc van xin Q tha cho mình và Q đã
mủi lòng nên không thực hiện hành vi giao cấu với L thì Q không phải TNHS về
tội hiếp dâm.
Giải thích:
Vì hành vi của Q thuộc trường hợp tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội
được quy định ở Điều 19 BLHS : “Tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội là tự
mình không thực hiện tội phạm đến cùng, tuy không có gì ngăn cản. Người tự ý nửa

chừng chấm dứt việc phạm tội được miễn trách nhiệm hình sự về tội định phạm; nếu
hành vi thực tế đã thực hiện có đủ yếu tố cấu thành của một tội khác thì người đó
phải chịu trách nhiệm hình sự về tội này”.
Ta thấy rằng, quy định của tội hiếp dâm tại điều 111 BLHS có 2 loại hành vi
khác nhau. Thứ nhất là loại hành vi “dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực hoặc lợi dụng
tình trạng không thể tự vệ được của nạn nhân hoặc thủ đoạn khác” và loại hành vi
thứ hai là “giao cấu với nạn nhân trái ý muốn của họ”.
Khi mà M, H và Q dùng vũ lực kéo L lên phòng nghỉ, L vẫn tiếp tục nằng nặc
từ chối, M đã rút con dao đặt lên bàn và bảo “Mày thích gì? Có chiều Q không thì
bảo?” thì hành động đó đã làm tê liệt ý chí kháng cự của L (L sợ quá đành đồng ý ở
lại cùng). Tuy nhiên, việc Q không thực hiện hành vi giao cấu với L tức là Q chưa
thực hiện hết những hành vi được mô tả trong Điều 111 BLHS cho nên thời điểm
dừng lại việc phạm tội của Q là ở giai đoạn chưa đạt chưa hoàn thành.
Trước hết, khi Q dừng lại không thực hiện tiếp hành vi phạm tội nữa là hoàn
toàn xuất phát từ ý chí của Q chứ không phải do yếu tố khách quan nào chi phối. Khi
dừng lại, Q vẫn tin rằng, hiện tại không có gì ngăn cản và vẫn có thể thực hiện hành
vi tiếp theo là giao cấu với L nhưng Q đã không thực hiện việc đó. Sau đó, Q chấm
9


dứt một cách triệt để, từ bỏ dứt khoắt ý định phạm tội chứ không phải tạm thời ngừng
lại để tìm những thủ đoạn, phương tiện khác có hiệu quả hơn, thuận lợi hơn để tiếp
tục thực hiện tội phạm mà nguyên nhân dẫn đến việc từ bỏ ý định phạm tội, không
tiến hành tội phạm đến cùng của Q là do L khóc lóc van xin và Q đã mủi lòng thương
hại nạn nhân. Hơn nữa, L chưa bị tổn thương về mặt thể chất cũng như L chưa bị
xâm phạm tới quyền bất khả xâm phạm về tình dục. Do đó Q được miễn chịu trách
nhiệm hình sự về tội hiếp dâm xuất phát từ chế định nhân đạo trong luật hình sự Việt
Nam đối với người có hành vi chuẩn bị hoặc bắt tay vào việc thực hiện tội phạm
nhưng đã tự nguyện nửa chừng chấm dứt việc phạm tội thì được hưởng lượng khoan
hồng.

Kết luận: Q không phải TNHS về tội hiếp dâm.
III. KẾT THÚC VẤN ĐỀ
Qua việc nghiên cứu về các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm,
danh dự của con người, Nhà nước ta đã có những hình phạt trừng trị thích đáng đối
với tội phạm nói chung và tội hiếp dâm nói riêng. Cũng từ đó pháp luật cần phải tiếp
tục đổi mới và hoàn thiện, Đảng và Nhà nước cần cố gắng hơn nữa trong công tác
đấu tranh phòng chống tội phạm để bảo vệ chế độ XHCN, bảo vệ chính quyền nhân
dân, lợi ích chính đáng của công dân, trật tự an toàn xã hội và pháp chế XHCN.

10


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. BLHS của nước Cộng hòa XHCN Việt Nam năm 1999.
2. Giáo trình Luật Hình Sự Việt Nam- Tập I, NXB CAND, Hà Nội- 2007,
2009, 2010.
3. Khoa luật – Đại học quốc gia Hà Nội, Giáo trình luật hình sự (Phần
chung), Nxb. ĐHQG, Hà Nội, 2005.
4. Trường Đại học Luật Hà Nội – Bùi Đức Lợi, Tự ý nửa chừng chấm dứt việc
phạm tội trong luật hình sự Việt Nam, Luận văn thạc sĩ luật học, Hà Nội 2005.
5. Trường Đại học Luật Hà Nội – Trần Quang Tiệp, Đồng phạm trong Luật
hình sự Việt Nam, Luận án tiến sĩ luật học, Hà Nội, 2000
6. tailieu.vn
7. luanvan.com

11




×