Tải bản đầy đủ (.doc) (10 trang)

Bài tập lớn học kỳ môn luật hình sự việt nam 2 (8 điểm)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (99.43 KB, 10 trang )

TÌNH HUỐNG 1
Vào khoảng 19h ngày 26/03/2003 4 tên Nguyễn Văn A, Bùi Văn B, Lê
Hoàng C và Trần Đình D ngồi quán uống rượu. Tại đây, B có rút dao mang
theo cho A mượn xem. Đây là loại dao có lưỡi xếp vào cán dao, cán dao màu
vàng dài khoảng 10cm, rộng khoảng 2-3cm, mũi dao hình dạng hơi bầu, lưỡi
dao có một bên sắc bén, một bên bằng. Ra khỏi quán, B đòi A trả lại dao và cất
vào túi quần. Cả bọn gặp 2 anh T và H đi ngược chiều. Do có quen biết, A và C
dừng lại nói chuyện với H, còn B và D đi trước. A rủ H đi uống rượu tiếp
nhưng H từ chối, A liền nắm tay H kéo đi thì T ngăn cản kéo H trở lại. Thấy
vậy, A quay sang cãi nhau với T và dùng tay đẩy vào ngực T làm T bị mất thăng
bằng ngã ngồi. T và A xô xát, ẩu đả với nhau. H dùng tay ôm ngăn A, còn C
can T. A nhiều lần la lớn chửi T với nội dung “Chúng mày đánh chết nó cho
tao”. Nghe tiếng A la chửi, B đi trước quay trở lại nhìn thấy A và T đang đứng
đối diện nhau, B cho rằng A bị T đánh nên đã lấy con dao trong túi quần ra
đâm nhiều nhát vào bụng và ngực T. Do C đang can T nên cũng bị một vết đâm
vào tay trái. C bị đâm đau nên chửi. Thấy vậy, B ngừng đâm và cầm dao bỏ đi.
H buông tay giữ A ra thì thấy T đang nằm ngửa, máu ra nhiều. H gọi C đưa T
đi cấp cứu. Trên đường đi T đã tử vong.
B gọi điện thoại cho bạn là K kể về việc B vừa đâm T và nói kế hoạch
trốn của B. K bảo B về nhà K chờ để K đi cầm điện thoại giùm B lấy tiền cho B
đi trốn. B trốn ra Hải Phòng đến ngày 09/4/2003 về đầu thú tại Công an huyện
D.
Tại Bản kết luận giám định pháp y số 46/GĐPY ngày 04/3/2003 của Tổ chức
giám định pháp y tỉnh kết luận: Nạn nhân T bị tử vong do xuất huyết nội, gây
giảm thể tích máu cấp tính sau các vết thương thủng gan và thủng bàng quang.
Hỏi:
1. Hãy lập luận định tội danh cho hành vi phạm tội của B? Xác định tình tiết
tăng nặng định khung hình phạt nếu có? (3 điểm)
2. A có bị coi là đồng phạm với B không? Giải thích rõ tại sao? (2 điểm)
3. K có phải chịu trách nhiệm hình sự không? Nếu có thì về tội gì? (1 điểm)
4. Giả sử B vừa chấp hành xong bản án 3 năm tù về tội trộm cắp tài sản theo


khoản 2 Điều 138 BLHS và chưa được xóa án tích. Hãy xác định lần phạm tội
này của B là tái phạm hay tái phạm nguy hiểm? (1 điểm))
1


GIẢI QUYẾT TÌNH HUỐNG
Trong tình huống đưa ra không hề đề cập đến độ tuổi cũng như năng lực
chịu trách nhiệm hình sự của B, K vì thế ta có thể mặc nhiên hiểu là B, K có đầy
đủ năng lực trách nhiệm hình sự và độ tuổi để chịu trách nhiệm hình sự do hành vi
phạm tội mà mình gây ra.
1. Hãy lập luận định tội danh cho hành vi phạm tội của B? Xác định tình tiết
tăng nặng định khung hình phạt nếu có?
Trả lời: Tội danh cho hành vi phạm tội B trong trường hợp này là tội giết
người ,tội này được quy định tại Điều 93 BLHS. Tình tiết tăng nặng định khung
hình phạt dành cho hành vi phạm tội của B là giết người có tính chất côn đồ ( theo
điểm n khoản 1 Điều 93 BLHS)
*) Khái niệm về tội giết người: Điều 93 BLHS quy định tội giết người
nhưng không mô tả cụ thể những dấu hiệu của tội này mà chỉ nêu tội danh, tuy
nhiên từ thực tiễn xét xử đã được thừa nhận, có thể định nghĩa tội giết người là
hành vi làm chết người khác một cách cố ý và trái pháp. Tội giết người có một số
căn cứ pháp lí riêng và xét trong trường hợp trên thì hành vi phạm tội của B đã
thỏa mãn hoàn toàn các căn cứ pháp lí đó.
*) Về mặt khách quan của tội phạm:
- Về hành vi. Có hành vi làm chết người khác. Được thể hiện qua hành vi dùng mọi
thủ đoạn nhằm làm cho người khác chấm dứt cuộc sống. Hành vi khách quan của
tội phạm ở đây là hành vi tước đoạt trái pháp luật tính mạng của người khác. Đây
là hành vi được hiểu là có khả năng gây ra cái chết cho con người, chấm dứt sự
sống của họ. Đối tượng của hành vi tước đoạt tính mạng chỉ có thể là người đang
sống. Trong trường hợp này ta thấy hành động của B “lấy con dao trong túi quần
ra đâm nhiều nhát vào bụng và ngực T” đã thỏa mãn hành vi khách quan của tội

giết người. B không những đã đâm vào các bộ phận trọng yếu trên cơ thể T ( bụng,
ngực ) mà còn đâm nhiều nhát. Những tác động này hoàn toàn có khả năng làm
chết người , tước đoạt tính mạng của T. Hành vi làm chết người cuả B được thực
hiện thông qua các hình thức : Hành động, việc B đã thực hiện các hành vi mà
pháp luật không cho phép là dùng dao đâm nhiều nhát vào bụng và ngực T nhằm
giết chết T.
2


- Về hậu quả của tội phạm. Hành vi nêu trên thông thường gây hậu quả làm người
khác chết (tức là chấm dứt sự sống của người khác). Tuy nhiên, về tội giết người
có cấu thành hình thức nên hậu quả có làm chết người hay không không phải là
dấu hiệu bắt buộc, chỉ cần hành vi mà người phạm tội đã thực hiện có mục đích
nhằm làm chấm dứt sự sống của người khác (hay nhằm làm cho người khác chết)
thì vẫn được xem là phạm tội giết người. Xét tình huống ta thấy, hậu quả từ hành
động của B là đã làm cho T chết “Tại Bản kết luận giám định pháp y số 46/GĐPY
ngày 04/3/2003 của Tổ chức giám định pháp y tỉnh kết luận: Nạn nhân T bị tử
vong do xuất huyết nội, gây giảm thể tích máu cấp tính sau các vết thương thủng
gan và thủng bàng quang.”
- Quan hệ nhân quả giữa hành vi khách quan và hậu quả chết người. Về nguyên
tắc, người phạm tội chỉ phải chịu trách nhiệm về hậu quả nguy hiểm cho xã hội do
chính hành vi của mình gây ra. Tuy nhiên , về tội giết người có cấu thành hình thức
nên hậu quả có làm chết người hay không không phải là dấu hiệu bắt buộc, chỉ cần
hành vi mà người phạm tội đã thực hiện có mục đích nhằm làm chấm dứt sự sống
của người khác (hay nhằm làm cho người khác chết) thì vẫn được xem là phạm tội
giết người. Người có hành vi tước đoạt trái pháp luật tính mạng người khác chỉ
phải chịu trách nhiệm hình sự về hậu quả chết người đã xảy ra nếu hành vi họ đã
thực hiện là nguyên nhân của hậu quả chết người đã xảy ra đó. Ở đây, mối quan hệ
nhân quả giữa hành vi khách quan và hậu quả chết người rất rõ ràng, đó chính là do
B đâm nhiều nhát vào bụng và ngực nên T đã tử vong.

*) Về mặt chủ quan của tội phạm:
- Lỗi của người phạm tội. Người phạm tội đã thực hiện tội phạm này với lỗi cố ý
(được thể hiện bằng lỗi cố ý trực tiếp hoặc cố ý gián tiếp) .Với lỗi cố ý trực tiếp,
người phạm tội thấy trước hậu quả chết người có thể xảy ra (hoặc tất nhiên xảy ra)
nhưng vì mong muốn hậu quả đó nên đã thực hiện hành vi phạm tội. Xét trong tình
huống này là lỗi cố ý trực tiếp. Khi nghe thấy tiếng la chửi của A “Chúng mày
đánh chết nó cho tao”, nhìn thấy A và T đang đứng đối diện nhau, B cho rằng A bị
T đánh nên đã lấy con dao trong túi quần ra đâm nhiều nhát vào bụng và ngực T. B
không hề bị ai bắt buộc thực hiện hành vi phạm tội mà với ý thức chủ quan, không
bị khống chế và áp đặt B đã cố ý lao tới đâm T nhiều nhát với hung khí là một con
dao.
*) Khách thể của tội phạm
3


Hành vi nêu trên của B đã xâm phạm đến tính mạng của người khác đây là
tính mạng của T (quyền được bảo vệ về tính mạng).
*) Chủ thể của tội phạm
Chủ thể của tội này là bất kỳ người nào có năng lực trách nhiệm hình sự.
Trong tình huống trên ta mặc nhiên thừa nhận là B có đầy đủ năng lực trách nhiệm
hình sự và độ tuổi để chịu trách nhiệm hình sự do hành vi phạm tội mà mình gây
ra.
Như vậy, từ những phân tích trên ta thấy tội danh dành cho hành vi phạm tội
của B là tội giết người. Không những thế, qua đề bài ta còn có thể thấy rõ tính chất
nguy hiểm trong hành vi phạm tội của B. Chỉ vì nghĩ bạn mình bị đánh, dù chưa
xác minh được việc đó có thật hay không, B đã không ngần ngại rút dao đâm đối
tượng gây hấn với bạn mình mà hoàn toàn bỏ mặc hậu quả. Với hung khí là một
con dao mang theo người (loại dao có lưỡi xếp vào cán dao, cán dao bằng mủ màu
vàng dài khoảng 10cm, rộng khoảng 2-3cm, mũi dao hình dạng hơi bầu, lưỡi dao
có một bên sắc bén, một bên bằng) B chắc chắn có thể nhận biết được sự nguy

hiểm của nó vậy mà vẫn rút ra đâm người khác. Với vị trí đâm là những bộ phận
trọng yếu trong cơ thể ( ngực , bụng ) và số lần đâm nhiều nhát, hành vi này của B
đã tỏ rõ tính hung hãn cao độ, hành vi côn đồ coi thường tính mạng người khác,
giết người vì một xung đột rất nhỏ hơn nữa lại không liên quan đến mình. Điều 93
BLHS đã chỉ rõ cấu thành tội phạm cơ bản và tăng nặng của tội giết người. Nếu
như khoản 2 là cấu thành tội phạm cơ bản của tội giết người thì khoản 1 của điều
này chính là cấu thành tội phạm tăng nặng của tội giết người. Xét khoản 1 điều 93
BLHS: “Người nào giết người thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt
tù từ mười hai năm đến hai mươi năm, tù chung thân hoặc tử hình:
a) Giết nhiều người;
b) Giết phụ nữ mà biết là có thai;
c) Giết trẻ em;
d) Giết người đang thi hành công vụ hoặc vì lý do công vụ của nạn nhân;
đ) Giết ông, bà, cha, mẹ, người nuôi dưỡng, thầy giáo, cô giáo của mình;
e) Giết người mà liền trước đó hoặc ngay sau đó lại phạm một tội rất nghiêm
trọng hoặc tội đặc biệt nghiêm trọng;
g) Để thực hiện hoặc che giấu tội phạm khác;
h) Để lấy bộ phận cơ thể của nạn nhân;
i) Thực hiện tội phạm một cách man rợ;
4


k) Bằng cách lợi dụng nghề nghiệp
;l) Bằng phương pháp có khả năng làm chết nhiều người;m) Thuê giết người hoặc
giết người thuê;
n) Có tính chất côn đồ;
o) Có tổ chức;
p) Tái phạm nguy hiểm;
q) Vì động cơ đê hèn”
Từ đây ta có thể thấy hành vi phạm tội của B còn thỏa mãn thêm một tình

tiết tăng nặng định khung hình phạt nữa đó là giết người có tính chất côn đồ theo
điểm n khoản 1 điều 93 BLHS.
2. A có bị coi là đồng phạm với B không? Giải thích rõ tại sao?
Trả lời: A có bị coi là đồng phạm với B.
*) Khái niềm đồng phạm: Theo khoản 1 Điều 20 BLHS thì “ đồng phạm
là trường hợp có hai người trở lên cố ý cùng thực hiện mộ`t tội phạm”.Như
vậy,đồng phạm là một khái niệm pháp lí nói lên quy mô tội phạm, được thể hiện
trong một vụ án có nhiều người tham gia. Tuy nhiên, không phải cứ có nhiều
người tham gia là đồng phạm, mà nhiều người tham gia đó phải cố ý cùng thực
hiện một tội phạm, nếu có nhiều người phạm tội nhưng không cùng thực hiện
một tội phạm thì không gọi là đồng phạm
*) Mặt khách quan, đồng phạm đòi hỏi có hai dấu hiệu:
- Đồng phạm đòi hỏi phải có ít nhất từ hai người và hai người này phải có đủ
điều kiện của chủ thể của tội phạm, đó là điều kiện năng lực TNHS và đạt độ
tuổi chịu TNHS
- Đồng phạm đòi hỏi những người phạm tội cùng thực hiện tội phạm với lỗi cố
ý, có nghĩa là đồng phạm phải tham gia vào tội phạm với một trong bốn loại
hành vi được BLHS quy định sau: Hành vi thực hiện tội phạm; hành vi tổ chức
thực hiện tội phạm; hành vi xúi giục người khác thực hiện tội phạm; hành vi
giúp người khác thực hiện tội phạm
Xét trong tình huống trên ,ta thấy B và A đều cùng thực hiện tội phạm
với lỗi cố ý ,vì với hành vi này thì đã thỏa mãn điều kiện đồng phạm phải có ít
nhất từ hai người trở lên, trong trường hợp này ta mặc nhiên thừa nhận B và A
đã có đầy đủ năng lực TNHS và đạt độ tuổi chịu TNHHS theo luật định; Đi vào
phân tích hành động của A, nhận thấy hành vi của A thỏa mãn hoàn toàn với
hành vi xúi giục người khác thực hiện tội phạm, hay nói cách khác, trong vụ án
5


này, A được gọi là người xúi giục. Hành vi phạm tội của B và A với vai trò là

khác nhau : B với vai trò là người thực hành ; A với vai trò là người xúi giục,
người kêu gọi người khác giết T qua câu nói : “Chúng mày đánh chết nó cho
tao”.
Khoản 2 Điều 20 BLHS quy định: “ Người xúi giục là người kích động,
dụ dỗ, thúc đẩy người khác thực hiện tội phạm”. Đặc điểm của người xúi giục
là tác động đến tư tưởng và ý chí của người khác, khiến người này phạm tội.
Về khách quan, hành vi xúi giục phải trực tiếp, nghĩa là kẻ xúi giục phải
nhằm vào một hoặc một số người nhất định. Ở đây, hành động la lớn vớinội
dung “Chúng mày đánh chết nó cho tao” có thể nhận thấy đối tượng xúi giục
của A là B, C, D – những người bạn đang đi cùng mình. Hành vi xúi giục còn
phải cụ thể, nghĩa là phải nhằm gây ra việc thực hiện tội phạm nhất định. Dựa
trên nội dung câu la hét của A, ta xác định được A đang xúi giục những người
bạn của mình cùng đánh chết T, nói cách khác, cùng thực hiện tội giết người.
*) Mặt chủ quan gồm những dấu hiệu sau:
- Dấu hiệu lỗi:
+ Về lí trí : Mỗi người đều biết hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội và
đều biết người khác cũng có hành vi nguy hiểm cho xã hội cùng với mình . Xét
trong tình huống trên ta thấy A đều biết hành vi của mình là nguy hiểm cho xã
hội và A đều biết hành vi của B bạn mình cũng là nguy hiểm cho xã hội cùng
với mình nhưng vẫn cố ý kêu “Chúng mày đánh chết nó cho tao” .Trường hợp
này A biết hành vi kêu gọi mọi người có thể mang lại hậu quả nguy hiểm khôn
lường là gây nguy hiểm cho T nhưng A vẫn cố tình thực hiện, không những thế
A còn thực hiện nhiều lần ( nhiều lần la chửi lớn với nội dung đó). Biết bạn
mình là B có thể gây thương tích cho T, thấy B đâm T, A hoàn toàn có thể thấy
trước được hậu quả nguy hiểm sẽ xảy ra cho T nhưng A bất chấp, A mặc kệ.
+ Về ý chí : Những ngườiđược coi là đồng phạm với nhau cùng mong muốn có
hoạt động chung và cùng mong muốn hoặc cùng có ý thức để mặc cho hậu quả
phát sinh. Hậu quả trong trường hợp này B và A là cùng có ý thức để mặc cho
hậu quả xảy ra đó là B đâm T chết sau khi thấy A kêu chúng mày đánh chết nó
cho tao. Trong trường hợp này, tuy A và B không cùng lên kế hoạch giết T

nhưng với việc A kêu gọi mọi người “Chúng mày đánh chết nó cho tao” và
việc A để mặc B lao tới đâm T nhiều nhát bằng dao cho thấy cả A và B đã cùng
có ý thức để mặc cho hậu quả phát sinh, hậu quả đó chính là T chết.
6


- Dấu hiệu mục đích: Đây là dấu hiệu bắt buộc trong đồng phạm, tình huống
trên
Về mặt chủ quan, người xúi giục có ý định rõ ràng thúc đẩy người khác
phạm tội. Ở đặc điểm này A cũng đã hoàn toàn thỏa mãn. Do tức giận với
những lời nói và hành động của T, A đã kêu gọi mọi người đánh chết T để hả
giận, đồng thời khi B lao vào đâm T thì A cũng để mặc cho B đâm T mà không
có hành động ngăn cản gì khác.
Qua những phân tích trên, có thể khẳng định A có thể bị coi là đồng
phạm với B.
3. K có phải chịu trách nhiệm hình sự không? Nếu có thì về tội gì?
Trả lời: K có phải chịu trách nhiệm hình sự về tội che giấu tội phạm.
Theo quy định tại điều 21 BLHS thì quy định: “Người nào không hứa hẹn
trước, nhưng sau khi biết tội phạm được thực hiện, đã che giấu người phạm tội,
các dấu vết, tang vật của tội phạm hoặc có hành vi khác cản trở việc phát hiện,
điều tra, xử lý người phạm tội, thì phải chịu trách nhiệm hình sự về tội che giấu
tội phạm trong những trường hợp mà Bộ luật này quy định”
Xét tình huống đề bài ra: “…B gọi điện thoại cho bạn là K kể về việc B vừa
đâm T và nói kế hoạch trốn của B. K bảo B về nhà K chờ để K đi cầm điện
thoại giùm B lấy tiền cho B đi trốn. B trốn ra Hải Phòng đến ngày 09/4/2003 về
đầu thú tại Công an huyện D.” Có thể thấy hành vi của K đã hoàn toàn thỏa
mãn các điều kiện về mặt khách quan, chủ quan của cấu thành tội che giấu tội
phạm. K không hứa hẹn trước nhưng sau khi biết được hành vi phạm tội của B,
được B kể cho nghe tất cả sự việc và cả kế hoạch chạy trốn, K không những
không khuyên B ra đầu thú mà còn có hành vi che giấu người phạm tội là B

bằng cách “bảo B về nhà K chờ để K đi cầm điện thoại giùm B lấy tiền cho B đi
trốn.”
Che giấu tội phạm có thẻ là hành vi của bất kỳ ai có năng lực trách
nhiệm hình sự. Bộ luật hình sự đã quy định người có hành vi che giấu chỉ phải
chịu trách nhiệm hình sự về tội che giấu tội phạm trong những trường hợp được
liệt kê tại Điều 313 BLHS. Một trong số những tội quy định tại điều 313 có tội
giết người. Mà trong những phân tích trên đã thấy B phạm tội giết người, chính
vì thế, K đã che giấu tội phạm giết người nên K phải chịu trách nhiệm hình sự
về tội che giấu tội phạm theo hai Điều 21 và Điều 313 BLHS.
7


4. Giả sử B vừa chấp hành xong bản án 3 năm tù về tội trộm cắp tài sản theo
khoản 2 Điều 138 BLHS và chưa được xóa án tích. Hãy xác định lần phạm
tội này của B là tái phạm hay tái phạm nguy hiểm?
Trả lời: Nếu B vừa chấp hành xong bản án 3 năm tù về tội trộm cắp tài
sản theo khoản 2 Điều 138 BLHS và chưa được xóa án tích thì lần phạm tội này
của B được xác định là tái phạm. Bởi vì:
“1.Tái phạm là trường hợp đã bị kết án, chưa được xoá án tích mà lại phạm tội
do cố ý hoặc phạm tội rất nghiêm trọng, tội đặc biệt nghiêm trọng do vô ý.
2.Những trường hợp sau đây được coi là tái phạm nguy hiểm:
a) Đã bị kết án về tội rất nghiêm trọng, tội đặc biệt nghiêm trọng do cố ý, chưa
được xoá án tích mà lại phạm tội rất nghiêm trọng, tội đặc biệt nghiêm trọng
do cố ý;
b) Đã tái phạm, chưa được xoá án tích mà lại phạm tội do cố ý.”
Do vậy, xét trong trường hợp này, những đặc điểm trong quá trình phạm
tội của B hoàn toàn phù hợp với các đặc điểm được nêu trong khoản 1 Điều 49
BLHS quy định về tái phạm, tái phạm nguy hiểm.
Xét về lí lịch của B: Trước khi phạm tôi giết người như trong đề bài đã đưa
ra, B vừa chấp hành xong bản án 3 năm tù về tội trộm cắp tài sản theo khoản 2

Điều 138 BLHS và chưa được xóa án tích.
Khoản 2 Điều 138 quy định: “Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây,
thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm:
a) Có tổ chức;b) Có tính chất chuyên nghiệp;c) Tái phạm nguy hiểm
d)Dùng thủ đoạn xảo quyệt, nguy hiểm;đ) Hành hung để tẩu thoát;
e) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm mươi triệu đồng đến dưới hai trăm triệu
đồng;g) Gây hậu quả nghiêm trọng”.
Nhận thấy mức phạt cao nhất của khung hình phạt tại khoản này là bảy năm
tù, căn cứ vào khoản 3 Điều 8 BLHS, có thể xác định được tội mà B vừa chấp hành
xong bản án 3 năm tù là tội nghiêm trọng. Song song với đó là việc B chưa được
xóa án tích nhưng lại tiếp tục phạm tội giết người với lỗi cố ý như đã phân tích ở
trên. Chính vì vậy áp dụng khoản 1 Điều 49 BLHS có thể xác định hành vi phạm
tội của B trong trường hợp là hành vi tái phạm.
Do vậy, có thể kết luận, lần phạm tội này của B là tái phạm theo quy định
tại khoản 1 Điều 49 BLHS

8


BẢNG TỪ VIẾT TẮT
BLHS : Bộ luật hình sự
TNHS:Trách nhiệm hình sự

DANH MỤCTÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình luật hình sự Việt Nam tập 1, tập 2, NXB Công an nhân dân
2. Bộ luật hình sự nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam sửa đổi, bổ sung
năm 2009.
3. Bình luận khoa học Bộ luật hình sự của Nước CHXH chủ nghĩa Việt Nam, đã
sửa đổi, bổ sung năm 2009, NXB Lao động, Hà Nội năm 2013.
4. Tìm hiểu tội phạm trong Bộ luật hình sự năm 1999, Đinh Văn Quế - Thạc sĩ

luật học – Tòa án nhân dân tối cao, NXB thành phố Hồ Chí Minh
5. />p_page_id=1754190&p_cateid=1751909&article_details=1&item_id=1093163
6

MỤC LỤC
9


TÌNH HUỐNG 1------------------------------------------------------------------------------1
GIẢI QUYẾT TÌNH HUỐNG--------------------------------------------------------------2
1. Hãy lập luận định tội danh cho hành vi phạm tội của B? Xác định tình tiết tăng
nặng định khung hình phạt nếu có?------------------------------------------------------2
2. A có bị coi là đồng phạm với B không? Giải thích rõ tại sao?--------------------5
3. K có phải chịu trách nhiệm hình sự không? Nếu có thì về tội gì?----------------7
4. Giả sử B vừa chấp hành xong bản án 3 năm tù về tội trộm cắp tài sản theo
khoản 2 Điều 138 BLHS và chưa được xóa án tích. Hãy xác định lần phạm tội
này của B là tái phạm hay tái phạm nguy hiểm?---------------------------------------8
DANH MỤCTÀI LIỆU THAM KHẢO---------------------------------------------------9

10



×