Tải bản đầy đủ (.doc) (4 trang)

ĐỀ bài số 4 tháng 42009, quốc gia a đã tiến hành đặt dây cáp và ống dẫn ngầm trong vùng đặc quyền kinh tế của quốc gia b trước hành dộn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (66.44 KB, 4 trang )

ĐỀ BÀI SỐ 4
Tháng 4/2009, quốc gia A đã tiến hành đặt dây cáp và ống dẫn ngầm trong
vùng đặc quyền kinh tế của quốc gia B. Trước hành dộng này của quốc gia A,
quốc gia B đã lên tiếng phản đối và yêu cầu quốc gia A dùng ngay các hoạt động
lắt đặt với lập luận rằng : Vùng biển quốc gia A đang tiến hành đặt dây cáp ngầm
là vùng biển thuộc quyền chủ quyền của B, tại đó các quốc gia khác không có
quyền tự ý đặt dây cáp ngầm nếu chưa có sự cho phép của quốc gia ven biển là
B. Đáp lại yêu cầu này của quốc gia B, A cho rằng đây là vùng biển quốc gia B
chỉ có đặc quyền trong việc khai thác tài nguyên thiên nhiên, còn các quốc gia
khác sẽ được hưởng tất cả các quyền tự do truyền thống khác như tự do hàng hải,
tự do đặt dây cáp và ống dẫn ngầm…
Bằng các quy định của Công ước luật biển năm 1982 hãy cho biết :
1. Lập luật của hai quốc gia A và B có phù hợp với các quy định của công
ước hay không?
2. GIả thiết rằng, bất chấp các yêu cầu của quốc gia B, quốc gia A vẫn tiến
hành các hoạt động lắp đặt và khoan 11 điểm cố định trong vùng biển này
nhằm hoàn thiện đường ống dẫn ngầm của quốc gia mình. Hỏi : Hành vi
này của A có hợp pháp hay không?


BÀI LÀM
1. Lập luận của 2 quốc gia A và B có phù hợp với quy định của công ước hay
không?
Theo Điều 55 Công ước luật biển năm 1982 quy định : “ vùng đặc quyền
kinh tế là một vùng nằm ởphía ngoài lãnh hải và tiếp liền với lãnh hải, đặt dưới
chế độ pháp lý riêng quy định trong phần này, theo đó quyền và quyền tài phán
của quốc gia ven biển và các quyền tự do của các quốc gia khác đều do các quy
định thích hợp của Công ước điều hành”. Các quốc gia ven biển phải ra tuyên
bố để xác lập vùng đặc quyền kinh tế của mình. Trong vùng đặc quyền kinh tế
thì quốc gia ven biển có quyền chủ quyền về kinh tế và quyền tài phán. Quyền
chủ quyền về kinh tế bao gồm các quyền đối với khai thác tài nguyên sinh vật


(Điều 62), tài nguyên không sinh vật của cột nước bên trên đáy biển, của đáy
biển và lòng đất dưới đáy biển. Hoạt động khai thác tài nguyên trên vùng đặc
quyền kinh tế đem lại lợi ích cho quốc gia ven biển như khai thác năng lượng
nước, hải lưu, gió, v.v… Mọi tổ chức, cá nhân nước ngoài muốn khai thác tài
nguyên trên vùng đặc quyền kinh tế phải có sự xin phép và đồng ý của quốc gia
ven biển.
Quyền tài phán trên vùng đặc quyền kinh tế của quốc gia ven biển bao
gồm quyền lắp đặt, sửa chữa các đảo nhân tạo, công trình, thiết bị trên biển;
quyền nghiên cứu khoa học biển; quyền bảo vệ môi trường.
Điều 58 của Công ước có quy định các quốc gia khác có các quyền tự do
biển cả như: quyền tự do hàng hải; quyền tự do bay; quyền tự do lắp đặt dây cáp,
ống dẫn ngầm; các quyền tự do khác phù hợp với quy định của Công ước.
Theo tình huống của đề bài, tháng 4/2009, quốc gia A đã tiến hành đặt dây
cáp và ống dẫn ngầm trong vùng đặc quyền kinh tế của quốc gia B . Trước hành
động này của quốc gia A, quốc gia B đã lên tiếng phản đối và yêu cầu quốc gia A
dừng ngay các hoạt động lắp đặt với luật luận rằng : “vùng biển quốc gia A
đang tiến hành đặt dây cáp ngầm là vùng biển thuộc quyền chủ quyền của B,
tại đó các quốc gia khác không có quyền tự ý đặt dây cáp ngầm nếu chưa có
sự cho phép của quốc gia ven biển là B”,A cho rằng “đây là vùng biển quốc
gia B chỉ có đặc quyền trong việc khai thác tài nguyên thiên nhiên, còn các
quốc gia khác sẽ được hưởng tất cả các quyền tự do truyền thống khác như tự
do hàng hải, tự do đặt dây cáp và ống dẫn ngầm” Theo Điều 58 của Công ước,
trong vùng đặc quyền kinh tế tất cả các quốc gia, dù có biển hay không có biển ,
trong những điều kiện do các quy định thích hợp của Công ước trù định, được
hưởng các quyền tự do biển cả nêu ở Điều 87 trong đó điểm c khoản 1 Điều 87
quy định “ Tự do đặt các dây cáp và ống dẫn ngầm với điều kiện tuân thủ phần


VI”. Ngoài ra khoản 2 Điều 79 có quy định “ quốc gia ven biển không được cản
trở việc lắp đặt hay bảo quản các dây cáp và ống dẫn đó”

Như vậy theo Công ước luật Biển năm 1982, lập luận của quốc gia B
không phù hợp với công ước mặc dù có quyền chủ quyền và tài phán trong
vùng đặc quyền kinh tế nhưng quốc gia A không được cản trở các quốc gia khác
trong việc lắp đặt dây cáp và ống dẫn ngầm. Lập luận của quốc gia Acũng là
không phù hợp với công ước.Mặc dù theo các quy định của công ước, quốc gia
B được hưởng các quyền tự do biển cả ( điều 58) trong đó có quyền tự do đặt
dây cáp và ống dẫn ngầm tại vùng đặc quyền kinh tế của quốc gia ven biển.Tuy
nhiên , việc quốc gia A cho rằng quốc gia B “chỉ có” đặc quyền trong việc khai
thác tài nguyên thiên nhiên là sai vì quốc gia B còn có những quyền khác theo
quy định tại điều 56 công ước năm 1982.
2. Hành vi của quốc gia A có hợp pháp không ?
Hành vi của quốc gia A là không hợp pháp
Bất chấp các yêu cầu từ phía quốc gia B, quốc gia A vẫn tiến hành các hoạt
động lắp đặt và khoan 11 điểm cố định trong vùng biển này nhằm hoàn thiện
đường dẫn ngầm của quốc gia mình. Vậy, hành vi của quốc gia B là không hợp
pháp bởi vì quốc gia B chỉ có quyền tự do đặt ống dẫn ngầm trong vùng đặc
quyền kinh tế còn việc khoan 11 điểm cố định phải được thực hiện tại vùng thềm
lục địa, trong vùng thềm lục địa của quốc gia B quốc gia A không có quyền tự ý
khoan tại thềm lục địa của quốc gia khác. Việc khoan ở thềm lục địa được quy
định Điều 81 “ quốc gia ven biển có đặc quyền cho phép và quy định việc khoan
ở thềm lục địa bất kì mục đích gì”. Việc khoan 11 điểm cố định của quốc gia A
cần được sự cho phép của quốc gia B vì quốc gia B có đặc quyền cho phép và
quy định khoan trong vùng thềm lục địa của mình.
Tại Điều 79 Công ước luật biển 1982 quy định : “Tất cả các quốc gia có
quyền đặt các dây cáp và ống dẫn ngầm ở thềm lục địa theo đúng điều này ; tuyến
ống dẫn đặt ở thềm lục địa cần được sự thỏa thuận của quốc gia ven biển ; không
một quy định nào ở phần này đụng chạm đến quyền của quốc gia ven biển đặt ra các
điều kiện đối với các đường dây cáp hay các đường ống dẫn đi vào lãnh thổ hay lãnh
hải của mình, cũng như, không đụng chạm đến đường tài phán của quốc gia này đối
với dây và ống dẫn được đặt, hoặc sử dụng trong khuôn khổ của việc thăm dò thềm

lục địa của mình hay việc khai khác tài nguyên thiên nhiên của mình, hoặc của việc
khai thác các đảo nhân tạo, thiết bị hay công trình thuộc quyền tài phán của quốc
gia này’’.Vậy quốc gia A không thể tự ý khoan 11 điểm cố định trong vùng biển
cụ thể là vùng thềm lục địa của quốc gia B, quốc gia A cần có sự cho phép của
quốc gia B trong việc khoan và có sự thỏa thuận của quốc gia B, khi đặt ống dẫn
ngầm quốc gia A cần thỏa thuận với quốc gia B về hướng đi để tránh ảnh hưởng
tới lợi ích của quốc gia A.
Như vậy, hành vi của quốc gia A là không hợp pháp.


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình luật quốc tế , trường đại học luật Hà Nội, nhà xuất bản Công an
nhân dân năm 2013
2. Công ước luật biển năm 1982



×