Tải bản đầy đủ (.doc) (15 trang)

P hân tích những yếu tố ảnh hưởng đến việc thực thi pháp luật thuế GTGT ở việt nam trong năm 2013 và đề xuất ý kiến pháp lý nhằm thực thi tốt pháp luật

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (111.11 KB, 15 trang )

MỤC LỤC
A. ĐẶT
VẤN
ĐỀ………………………………………………….…….
……………..0
B. GIẢI QYẾT VẤN ĐỀ……………………………………………….…..………..1
I. Khái quát chung về pháp luật thuế GTGT………………………..
…………………..1
1. Khái niệm về pháp luật thuế GTGT……………………………….………………………1
2.
Đặc
điểm
của
pháp
GTGT………………………………………………………..1

luật

thuế

II.Các yếu tố ảnh hưởng đến việc thực thi pháp luật thuế GTGT pử Việt Nam hiện
nay……………………………………………………………………1
1. Các yếu tố khách quan………………………...…………….……………………………..1
2. Các yếu tố chủ quan……………………………………………..…………………………5
II. Chiều hướng thay đổi các yếu tố trên để việc thực thi pháp luật Thuế GTGT đạt
hiệu
quả
cao……………………………………………………...
………………………….9
1. Phương hướng chung………………………..……………………….………………..9
2. Một số phương hướng cụ thể……………...………….…………………………….11


C. KẾT
THÚC
VẤN
ĐỀ………………………..…..…………….…….
…………….12
D. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO……………….………….…………….13

1


A. ĐẶT VẤN ĐỀ
Từ năm 2009, Việt Nam bắt đầu thi hành luật thuế giá trị gia tăng 2008 (GTGT). Nhìn
chung, thuế GTGT được coi là phương pháp thu tiến bộ nhất hiện nay, được đánh giá cao
do đạt được mục tiêu lớn của chính sách thuế như tạo được nguồn thu lớn cho ngân sách
Nhà nước, đơn giản, trung lập, .... Có rất nhiều yếu tố ảnh hưởng đến việc thực thi pháp
luật thuế GTGT gây ảnh hưởng không nhỏ đến nên kinh tế của nước ta hiện nay.
Để làm rõ vấn đề trên em xin lựa chọn đề tài: “Phân tích những yếu tố ảnh hưởng đến
việc thực thi pháp luật thuế GTGT ở Việt Nam trong năm 2013 và đề xuất ý kiến pháp lý
nhằm thực thi tốt pháp luật thuế GTGT” làm bài tập lớn học kì của mình. Do thời gian
tìm hiểu cũng như kiến thức chưa đủ nên bài làm còn nhiều hạn chế, Em rất mong nhận
được ý kiến nhận xét,góp ý của Thầy cô để bài làm được hoàn chỉnh hơn.
Em xin chân thành cảm ơn !

KÍ HIỆU
GTGT: Giá trị gia tăng
NSNN: Ngân sách nhà nước
DN: Doanh nghiệp

2



B. GIẢI QYẾT VẤN ĐỀ
I.Khái quát chung về pháp luật thuế GTGT
1.Khái niệm về pháp luật thuế GTGT
Pháp luật thuế GTGT là tổng hợp các quy phạm pháp luật do Nhà nước ban hành
điều chỉnh các quan hệ phát sinh trong quá trình đăng ký, kê khai, nộp thuế, quản lý và
quyết toán thuế GTGT.
2.Đặc điểm của pháp luật thuế GTGT.
Thứ nhất, pháp luật thuế GTGT có tác động trong phạm vi rộng, đến tất cả các đối
tượng trong xã hội.
Thứ hai, pháp luật thuế GTGT chỉ có thể được ban hành khi các điều kiện áp dụng
đạt đến mức độ nhất định. Những điều kiện đó là: các tiêu chuẩn về kế toán, chế độ
chứng từ hóa đơn và khả năng quản lý của chính các cơ quan tham gia quản lý, thu thuế
GTGT.
II.Các yếu tố ảnh hưởng đến việc thực thi pháp luật thuế GTGT ở Việt Nam hiện nay.
1. Các yếu tố khách quan.
a) Đường lối, chính sách phát triển kinh tế - xã hội của Đảng và Nhà nước
Bản chất của thuế GTGT là thuế tính trên giá trị tăng thêm của hàng hoá, dịch vụ
phát sinh trong quá trình từ sản xuất, lưu thông đến tiêu dùng. Vì vậy, Thuế GTGT là sự
thể chế hóa của các chính sách mà Đảng, Nhà nước đề ra; được quy định nhằm phục vụ
chính sách phát triển kinh tế và chính sách thuế ở Việt Nam. Xuất phát từ mục đích này
mà việc thực thi pháp luật thuế GTGT chịu ảnh hưởng không nhỏ bởi đường lối, chính
sách phát triển kinh tế - xã hội của Đảng và Nhà nước.
Hiện nay,chiến lược phát triển kinh tế-xã hội mà Đảng đề ra trong giai đoạn 2001
– 2010 là:“Đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển; nâng cao rõ rệt đời sống vật
chất, văn hoá, tinh thần của nhân dân, tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở
thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Nguồn lực con người, năng lực khoa
học và công nghệ, kết cấu hạ tầng, tiềm lực kinh tế, quốc phòng, an ninh được tăng
cường; thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa được hình thành về cơ
bản; vị thế của nước ta trên trường quốc tế được”

3


Mục tiêu đến năm 2020 là: “Để VN trở thành một nước công nghiệp sau 20 năm
nữa đòi hỏi nền kinh tế phải đạt tăng trưởng cao một cách bền vững trên 8% trong một
thời gian dài và hướng tới mức tăng trưởng bình quân hai con số/năm; cơ cấu kinh tế
(tính theo GDP) tiên tiến với công nghiệp chiếm 45-50%, dịch vụ chiếm 40-50%; tích lũy
từ nội bộ nền kinh tế đạt trên 30%/GDP, xuất khẩu tăng với tốc độ gấp 1,5 lần trở lên so
với tốc độ tăng GDP. Chất lượng cuộc sống vật chất và văn hóa ngày càng tăng cao theo
hướng văn minh hiện đại, nhận thức và ý thức chấp hành pháp luật của mọi người dân
trong xã hội được nâng cao. Thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa được
hoàn thiện cơ bản và chủ động hội nhập kinh tế với thế giới một cách có hiệu quả.”
Muốn thực hiện được chiến lược trên thì Nhà nước ta phải có một chính sách thuế
GTGT hợp lý. Chính sách đó vừa phải đảm bảo nguồn thu cho Nhà nước vừa “vừa sức”
với người tiêu dùng nói chung. Hiện nay, quy định hiện nay của Luật thuế GTGT 2008 đã
thể hiện khá tốt việc thể chế hóa chiến lược phát triển kinh tế của Đảng, Nhà nước. Bên
cạnh ban hành các mức thuế suất hợp lý thì việc quy định 25 nhóm đối tượng không chịu
thuế GTGT cũng là một ví dụ thể hiện sự thể chế hóa này:
+ Để phát triển, nâng cao trình độ internet, viễn thông cho người dân: quy định đối tượng
không chịu thuế là dịch vụ bưu chính, viễn thông công ích và In-ter-net phổ cập theo
chương trình của Chính phủ. (Khoản 10, Điều 5 Luật thuế GTGT 2008).
+ Để thúc đẩy phát triển nông nghiệp: quy định đối tượng không chịu thuế là tưới, tiêu
nước; cày, bừa đất; nạo vét kênh, mương nội đồng phục vụ sản xuất nông nghiệp; dịch vụ
thu hoạch sản phẩm nông nghiệp. (Khoản 3, Điều 5, Luật thuế GTGT 2008).
+ Thúc đẩy việc sử dụng các phương tiện giao thông, công cộng: Vận chuyển hành khách
công cộng bằng xe buýt, xe điện. (Khoản 16 Điều 5, Luật thuế GTGT 2008).
Giả sử, nếu pháp luật không có những quy định về các đối tượng không chịu thuế
như trên, mà Nhà nước vẫn yêu cầu thực hiện thành công các chiến lược quốc gia, thì
chắc chắn, việc thực thi thuế GTGT sẽ kém, không đạt hiệu quả cao.
b) Thực trạng phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.

Bên cạnh chính sách phát triển kinh tế - xã hội của Đảng, Nhà nước, thực trạng
tình hình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước cũng là một nhân tố làm ảnh hưởng đáng
kể tới sự thực thi pháp luật thuế GTGT ở Việt Nam hiện nay.
Trước khi tìm hiểu xem sự phát triển của nền kinh tế - xã hội của đất nước tác
động như thế nào đến việc thực thi pháp luật thuế GTGT thì cần xem xét pháp luật thuế
GTGT có ảnh hưởng như thế nào đối với nền kinh tế - xã hội.
4


Thuế GTGT có vai trò quan trọng trong việc điều chỉnh nền kinh tế. Thuế có ảnh
hưởng trực tiếp đến giá cả và thu nhập nên căn cứ vào từng tình huống kinh tế, Nhà nước
có thể sử dụng thuế làm công cụ điều chỉnh nền kinh tế. Các qui định về đối tượng, pham
vi đánh thuế, thuế suất,điều kiện miễn, giảm thuế… Xét về hiện tượng thì mang tính
cưỡng chế nhưng bản chất là nhằm điều chỉnh những quan hệ kinh tế nhất định, nhằm
khuyến khích hay hạn chế đầu tư vào ngành nghề, sản phẩm hoặc dịch vụ nào đó. Bởi
đơn giản là, ngườinộp thuế sẽ thấy đầutư vào đâu thì có lợihơn.Tóm lại, thông qua thuế
Nhà nước tác động tích cực đến việc thúc đẩy sản xuất phát triển trên cơ sở tận dụng và
sử dụng hợp lý mọi nguồn lực của đất nước trong việc điều chỉnh quan hệ cung cầu và cơ
cấu kinh tế.
Như vậy, việc thực thi thuế là nhằm những mục đích về kinh tế - xã hội. Vì vậy, sự
phát triển của nền kinh tế - xã hội sẽ có những tác động nhất định tới việc thực thi pháp
luật thuế GTGT. Hiện nay, nước ta đang bước vào nền kinh tế thị trường với những thành
tựu đáng kể. Tốc độ tăng tổng sản phẩm trong nước đạt 5,83%, gấp gần 1,9 lần tốc độ
tăng trong quý I/2009. Đáng chú ý là sự phục hồi diễn ra ở hầu hết các ngành, các lĩnh
vực kinh tế then chốt: Giá trị sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản tăng 5,8%; giá trị sản
xuất công nghiệp tăng 13,6%; thị trường trong nước tiếp tục phát triển ổn định với tốc độ
tăng trưởng cao, trong đó, tổng mức bán lẻ hàng hóa và dịch vụ tiêu dùng theo giá thực tế
tăng 24,1%, hoạt động du lịch sôi nổi, lượng khách quốc tế đến Việt Nam tăng 36,2% so
với cùng kỳ năm trước; thực hiện vốn đầu tư toàn xã hội ước tính tăng 26,23% so với
cùng kì năm trước đặc biệt là khu vực ngoài nhà nước tăng tới 46,38%;...

Nhìn một cách tích cực, mọi mặt của đời sống, kinh tế, xã hội đều có sự tiến bộ rõ
rệt. Ngày càng có nhiều hàng hóa, dịch vụ được sinh ra. Từ quá trình sản xuất đến lưu
thông, hàng hóa và dịch vụ này đều có sự tăng thêm đáng kể về giá trị. Vì thế, về phía
nhà nước, khoản thuế thu thêm sẽ ngày càng tăng. Bởi lẽ, người tiêu dùng (người chịu
thuế) có đời sống khá giả hơn, sẵn sàng bỏ ra khoản tiền lớn để mua những hàng hóa đã
được tính thuế GTGT. Về phía người nộp thuế, họ cũng sẽ thực thi pháp luật thuế hiệu
quả hơn nếu như bước vào nền kinh tế thị trường, nền kinh tế phát triền. Bởi trong môi
trường này, uy tín của một doanh nghiệp sẽ ngày càng chiếm vị trí quan trọng trên thương
trường, nó còn cao hơn cả những món lợi nhất thời mà Doanh nghiệp có thể thu được từ
việc trốn thuế.
Ngược lại, nếu tình hình kinh tế - xã hội khó khăn thì việc thực thi pháp luật thuế
GTGT sẽ có thể tiển theo chiều hướng xấu. Lúc đó, sự làm ăn gặp nhiều khó khăn hơn thì
có thể lợi nhuận, tiền bạc mới là cái mà các doanh nghiệp đặt lên hàng đầu. Điều này rất
dễ xảy ra nếu tình hình đất nước phát triển giống như những tháng đầu năm 2010: “Việc
huy động vốn cho đầu tư và sản xuất kinh doanh gặp nhiều khó khăn, nhất là vốn tín
5


dụng với lãi xuất co xu hướng tăng khi phải vay với lãi xuất thỏa thuận. Hiệu quả đầu tư
và hiệu quả sản xuất kinh doanh còn thấp, trong khi đó áp lực cạnh tranh của nước ngoài
trên thị trường quốc tế và cả ở thị trường trong nước ngày càng gay gắn hơn.
Bên cạnh việc chịu chi phối bởi nền kinh tế - xã hội trong nước, nền kinh tế quốc
tế cũng có ảnh hưởng đáng kể đến việc thực thi pháp luật thuế GTGT. Hiện nay, Việt
Nam đang trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế. Xu hướng chung là phải mở cửa,
giảm thuế quan đối với hàng hóa, dịch vụ nói chung và giảm thuế GTGT nói riêng. Nếu
các mức thuế suất mà Luật thuế GTGT phù hợp với những cam kết quốc tế thì việc thực
thi sẽ có chiều hướng tốt. Đối với chủ thể nộp thuế, chịu thuế cũng cảm thấy dễ chịu và
chủ thể thực thi việc thu thuế cũng sẽ dễ dàng hơn trong việc thực thi nhiệm vụ của mình.
c) Chi phối bởi yêu cầu thu ngân sách Nhà nước.
Thuế là nguồn thu chủ yếu của ngân sách nhà nước. Một nền tài chính quốc gia

lành mạnh phải dựa chủ yếu vào nguồn thu từ nội bộ nền kinh tế quốc dân. Thuế GTGT
là một trong những loại thuế giữ vai trò này.
Hiện nay, nguồn thu từ nước ngoài đã giảm nhiều, kinh tế đối ngoại chịu sức ép
của quan hệ “mua bán sòng phẳng”,“có vay, có trả”, thuế GTGT phải là công cụ quan
trọng góp phần tích cực giảm bội chi ngân sách, giảm lạm phát, ổn định kinh tế - xã hội,
chuẩn bị điều kiện và tiền đề cho việc phát triển đất nước lâu dài.
Vì vậy, yêu cầu thu ngân sách nhà nước là một yếu tố có ảnh hưởng không nhỏ tới
việc thực thi pháp luật thuế GTGT. Điều này thể hiện ở một số điểm sau:
+ Thứ nhất, nhu cầu thu về thuế gián thu. Ở Việt Nam hiện nay, đa số các nguồn thu đều
xuất phát từ thuế gián thu. Thuế GTGT là một loại thuế gián thu. Vì vậy, đối với các tổ
chức thu thuế, việc thu loại thuế này khá dễ dàng, không vấp phải sự phản đối của nộp,
cũng như người chịu thuế.
+ Thứ hai, nhu cầu thu của Nhà nước về thuế. Một nhà nước cần một nguồn thu lớn để
vận hành bộ mày nhà nước và thực hiện những công việc của đất nước thì các loại thuế sẽ
được đặt ra càng nhiều. Mặt khác, nếu nhu cầu thu cao thì nhà nước cần phải thiết lập
một bộ máy thực thi việc thu thuế có hiệu quả, từ đó cũng phần nào tránh được việc trốn
thuế, gian lận thuế. Tuy nhiên, cũng không thể tránh khỏi trường hợp, nếu nhà nước quy
định quá nhiều mức thuế cao trong luật thuế GTGT thì người dân sẽ khó mà có thể thực
thi đúng đắn được.
d) Phụ thuộc tính khả thi và mức đồng bộ và hoàn thiện hệ thống pháp luật

6


Không một loại thuế nào có thể đứng độc lập một cách tuyệt đối trong hệ thống
các văn bản quy phạm pháp luật. Thuế GTGT cũng vậy. Thuế GTGT cần có sự tương
thích, phù hợp với các văn bản pháp luật khác có liên quan như các văn bản pháp luật về
quản lý đất đai, về thanh toán không dùng tiền mặt, v.v.. Có như vậy, sự thực thi mới thực
sự đạt hiệu quả. Không hiếm trường hợp, văn bản pháp luật thuế GTGT quy định một
kiểu, văn bản pháp luật của các ngành khác lại quy định một kiểu. Rất nhiều trường hợp

thuế GTGT có quy định nhưng các văn bản khác lại không quy định, không làm rõ,
không có mối liên hệ với pháp luật thuế GTGT dẫn tới hiện tượng thực hiện rất khó khăn,
thậm chí là không thể thực hiện được luật thuế GTGT.
Ví dụ, về thuế GTGT trên thị trường bất động sản. Theo Thông tư 129/2008/TTBTC ngày 26/12/2008 có hiệu lực từ ngày 1/1/2009 về thuế GTGT, các giao dịch chuyển
nhượng quyền sử dụng đất không phải chịu thuế GTGT. Thông tư này cũng quy định chi
tiết rằng thu nhập chịu thuế GTGT là giá trị chuyển nhượng bất động sản trừ đi giá trị
quyền sử dụng đất tại thời điểm chuyển nhượng. Tuy nhiên, trong thực tế, có nhiều vấn
đề phát sinh trong quá trình thực hiện mà các đối tượng chịu thuế gặp phải. Đó làm thế
nào để có thể xác định và thống nhất giá trị quyền sử dụng đất tại thời điểm chuyển
nhượng cho mục đích giảm trừ tính thuế GTGT? Thông tư 129/2008/TT-BTC lại có
những quy định khác với một số công văn khác của Bộ tài chính quy định về vấn đề này.
Vấn đề khác nữa là đối với giao dịch bán căn hộ chung cư, đặc biệt là chung cư cao tầng,
làm thế nào để tính phân bổ giá trị quyền sử dụng đất chung cho từng căn hộ chung cư
cho mục đích khấu trừ thuế GTGT? Thông tư hiện hành về thuế không đề cập hướng dẫn
cụ thể về vấn đề này. Việc tham khảo Luật Đất đai, Luật Nhà ở, Luật Kinh doanh bất
động sản và các quy định thực hiện liên quan khác là cần thiết trong trường hợp này và
đây là vấn đề rất phức tạp về mặt pháp lý.
2. Các yếu tố chủ quan.
Đây là các yếu tố có ảnh hưởng rõ rệt hơn so với các nhân tố khách quan. Vì thế,
các yếu tố chủ quan này thường mang tính quyết định đối với việc thực thi pháp luật thuế
GTGT ở nước ta hiện nay.
a) Cơ cấu, trình độ, năng lực quản lý thuế của các cơ quan quản lý thuế.
+Về cơ cấu, hiện nay hệ thống quản lý thuế của nước ta được tổ chức:
Ở Trung ương có Tổng cục thuế thuộc Bộ tài chính. Bộ máy giúp việc cơ quan
Tổng cục gồm các phòng chức năng và các phòng nghiệp vụ.
Ở các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương có các Cục thuế. Các Cục thuế chịu
sự chỉ đạo song trùng của Tổng cục thuế và Uy ban nhân dân cùng cấp.
7



Ở cấp quận, huyện và cấp tương đương có Chi cục thuế thuộc Cục thuế. Chi cục
thuế chịu sự chỉ đạo song trùng của Cục thuế và Uy ban nhân dân cùng cấp.
Như vậy, cơ cấu trên là hợp lí và tương đối chặt chẽ. Cơ cấu đó có tác động lớn tới
việc thực thi thuế GTGT. Cụ thể, việc thống nhất hệ thống tổ chức bộ máy quản lý về
thuế không những cho phép Nhà nước quản lý thống nhất chế độ thuế trong cả nước, mà
còn tạo cơ sở về mặt tổ chức bảo đảm thực hiện thành công đường lối đổi mới và hội
nhập quốc tế trong lĩnh vực thuế.
+ Về trình độ, năng lực quản lý thuế của các cơ quan
Rõ ràng, nếu trình độ, năng lực quản lý thuế cũng như đạo đức của cán bộ quản lý
thuế tốt thì việc thực thi luật thuế GTGT sẽ đạt hiệu quả cao và ngược lại. Hiện nay, trình
độ của các cán bộ quản lý thuế là tương đối tốt. Các hiện tượng gian lận thuế, trốn thuế
GTGT hầu như không xuất phát từ nguyên nhân trình độ của cán bộ quản lý thuế, bởi lẽ
thực thi thu thuế, khấu trừ, hoàn thuế và các nghiệp vụ khác của thuế GTGT đều căn cứ
vào các giấy tờ và có sự hỗ trợ của thiết bị máy tính hiện đại. Tuy nhiên, việc thực thi luật
thuế GTGT hiện nay vẫn gặp rất nhiều khó khăn. Một phần là do chính đạo đức, tinh thần
trách nhiệm của của những cán bộ này. Có những cơ quan thuế thiếu trách nhiệm, gây
thất thu thuế cho nhà nước.
Ví dụ, Cục Thuế Hà Nội thiếu trách nhiệm trong quản lý thuế làm thất thu thuế
GTGT và thuế TNDN qua giá bán trong kinh doanh xe máy, ô tô từ năm 2005-2007 hơn
459 tỉ đồng. Trầm trọng hơn, còn xuất hiện hiện tượng cán bộ thuế thông đồng, giảm số
thuế đi để cùng có lợi. Như vậy, việc thực thi luật thuế GTGT đã không hiệu quả.
+ Về cơ chế quản lý thuế
Hiện nay, Nhà nước đang có công cuộc cải cách về cơ chế quản lý thuế. Cải cách
này thể hiện ở cơ chế tự khai, tự nộp. Cơ chế tự khai, tự nộp là cơ chế quản lý thuế hiện
đại, hiệu quả, được hầu hết các nước trên thế giới áp dụng, nó cho phép các cơ quan thuế
phân bổ nguồn lực theo hướng chuyên môn hóa, chuyên sâu trong quản lý cải tiến các
quy trình quản lý rõ ràng làm tăng sự minh bạch trong quản lý thuế, đồng thời giảm bớt
chi phí quản lý, thúc đẩy cải cách hành chính thuế.
Bên cạnh đó, các cơ quan quản lý thuế đã có nhiều cải cách khác. Nhờ cải cách
trong công tác quản lý đó nên cũng đã tạo ra một môi trường quản lý nề nếp, văn minh,

buộc cán bộ thuế, cơ quan thuế thay đổi phong cách tiếp xúc với người nộp thuế thông
qua cách thức đón tiếp chu đáo, lịch sự, công khai, minh bạch, với mục tiêu tạo điều kiện
thuận lợi nhất cho người nộp thuế.
+ Về công tác thu nợ và cưỡng chế thuế.
8


Hiện nay, tình trạng nợ đọng thuế khá phổ biến, số nợ thuế gần như không giảm
qua các năm. Cơ quan Thuế lại chưa có bộ phận chuyên trách thực hiện chức năng thu nợ
tại các cục thuế, các cán bộ quản lý thu thực hiện nhiệm vụ theo dõi, đôn đốc thu nợ cùng
với các nhiệm vụ khác như hướng dẫn, hỗ trợ đối tượng nộp thuế, thanh tra, kiểm tra
doanh nghiệp. Công tác thu nợ chưa được thực hiện khoa học, chưa ứng dụng được tin
học vào thu nợ và phân tích nợ.
Việc xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực thuế thực hiện chưa nghiêm do một
số mức hình phạt chưa hợp lý, biện pháp xử lý chưa cương quyết, thiếu sự phối hợp giữa
các ngành trong việc thực hiện xử lý, thủ tục còn phức tạp. Việc thực hiện các biện pháp
cưỡng chế chưa khả thì do thiếu sự phối kết hợp giữa các cơ quan bảo vệ pháp luật với cơ
quan Thuế. Các trìnhtự, thủ tục về cưỡng chế chưa được quy định rõ ràng, cụ thể và chưa
có quy định pháp lý về trách nhiệm của các bên có liên quan trong việcphối hợp với cơ
quan Thuế trong việc thu nợ. Cán bộ thuế không đủ thẩm quyền, kiến thức và nghiệp vụ
để tiến hành các biện pháp cưỡng chế.
+ Về các hoạt động tuyên truyền thực hiện các văn bản thuế nói chung và luật
thuế GTGT nói riêng.
Sáu tháng đầu năm 2009 ngành thế đã tổ chức 1.335 hội nghị, đối thoại với 14.453
DN, Doanh nhân, các cơ sở kinh doanh về thủ tục hành chínhthuế và tinh thần, thái độ
phục vụ của cán bộ thuế. Đã trả lời ngay tại Hội nghị 3.169/3.203 câu hỏi. Số còn lại
nhưng vướng mắc về cơ chế chính sách đã được Tổng cục thuế nghiên cứu, giải quyết
giứt điểm. Những vướng mắc đã được giải đáp kịp thời, do đó được dư luận xã hội và
cộng đồng doanh nghiệp hoan nghênh. Tổng cục Thuế cũng đã mở trang website điện tử,
xuất bản các loại ấn phẩm về thuế để tuyên truyền hướng dẫn về các nội dung chính sách

thuế; thủ tục về thuế.
Như vậy, các hoạt động này đã có ảnh hưởng tốt đối với việc thực thi các văn bản
thuế nói chung và luật thuế GTGT nói riêng. Bởi lẽ, thông qua những hoạt động này, các
vướng mắc của người nộp thuế được giải quyết, cơ quan quản lý thuế qua đó, cũng sẽ
thấy được sự khả thi của luật thuế GTGT đang được triển khai trong đời sống, kịp thời
khắc phục những hạn chế của thuế GTGT.
+ Về các phương tiện kỹ thuật hỗ trợ việc quản lý thuế.
Không gian của hoạt động kinh doanh thường rộng lớn. Một doanh nghiệp ở Cà Mau có
thể mua bán với các doanh nghiệp ở Lạng Sơn, Gia Lai hoặc Bình Phước, và cũng có thể
xuất khẩu thông qua nhiều cửa khẩu. Vì vậy, thông tin về lô hàng của từng đợt xuất nhập
khẩu phải được phối kiểm trên phạm vi cả nước chứ không chỉ gói gọn tại một địa
phương. Trong khi đó, thời gian xét hoàn thuế lại ngắn, nên cơ quan thuế không đủ sức
9


thẩm tra toàn bộ chứng từ cũng như lai lịch của các bên có liên quan. Điều này dễ gây ra
những sai sót không chủ ý và xảy ra những sai lệch khi hoàn thuế. Ngay công tác kiểm
tra sau thông quan cũng khó mang lại kết quả tốt vì thiếu hệ thống điện toán toàn diện,
thiếu máy kiểm tra chuyên dùng, camera, cân điện tử,...
b) Ý thức chấp hành pháp luật thuế của người dân.
Ý thức chấp hành pháp luật thuế của người dân là yếu tố có ảnh hưởng quyết định
tới việc thực thi luật thuế GTGT. Ý thức chấp hành này thể hiện rõ rệt qua hành vi tự khai
nộp thuế của các đối tượng kinh doanh.
Các Doanh nghiệp ít khi vi phạm về thời gian quy định nộp tờ khai thuế GTGT mà
chủ yếu vi phạm về cơ chế tự khai, tự nộp thuế. Nguyên nhân là do ý thức tự giác chấp
hành pháp luật thuế của người dân Việt Nam còn kém. Nhiều người có tư tưởng, nộp đủ
thuế là “khác người”, vậy nên, họ tìm mọi cách để gian lận, mà gian lận dễ dàng nhất là
dùng hóa đơn chứng từ khống để nộp thuế và hoàn thuế GTGT. Chất lượng kê khai được
thông qua việc thực hiện đúng theo biểu mẫu quy định, các chỉ tiêu kê khai phù hợp với
thực tế phát sinh trong quan hệ mua, bán hàng hoá dịch vụ tại cơ sở kinh doanh. Hiện

nay, hầu hết các cơ sở kinh doanh có quy mô vừa và lớn đang kê khai nộp thuế theo
phương pháp khấu trừ, nếu chất lượng kê khai thấp sẽ gây thất thu thuế cho NSNN là
không nhỏ và dẫn đến không công bằng trong thực hiện nghĩa vụ thuế. Ở đây, nếu doanh
nghiệp muốn gian lận thuế GTGT, doanh nghiệp chỉ cần tìm cách ghi trên các hoá đơn
mua hàng vào số tiền thật lớn, tương ứng số thuế thật nhiều và tìm cách làm cho giá trị
hàng bán ra thật thấp để có số thuế tương ứng, hoặc lập hồ sơ hàng bán ra là xuất khẩu để
có số thuế GTGT = 0. Khi đó doanh nghiệp sẽ được Nhà nước hoàn toàn bộ số thuế
GTGT đầu vào. Thực tế vừa qua cho thấy, nhiều người lập doanh nghiệp để lập hồ sơ
mua hàng khống, rồi lập hồ sơ xuất khẩu khống, để lập thủ tục hoàn thuế, lấy tiền của
ngân sách quốc gia.
Hiện nay, qua số liệu kê khai nộp thuế cho thấy, tỷ lệ giữa số thuế GTGT phát sinh
âm trên số thuế GTGT phát sinh dương của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh luôn lớn
hơn so với doanh nghiệp nước ngoài; có nhiều doanh nghiệp liên tục không phát sinh số
thuế GTGT phải nộp. Đối với doanh nghiệp nước ngoài và doanh nghiệp có vốn đầu tư
nước ngoài thường có số thuế GTGT phát sinh dương lớn hơn thuế GTGT phát sinh âm
(thuế GTGT đầu ra lớn hơn thuế GTGT đầu vào); từ đó có số thuế GTGT nộp vào
NSNN. Còn đối với lĩnh vực ngoài quốc doanh thì ngược lại; nhiều doanh nghiệp có quy
mô kinh doanh khá lớn nhưng thuế GTGT đầu ra lại nhỏ hơn thuế GTGT đầu vào nên
luôn tồn tại số thuế còn được khấu trừ.

10


Với thực trạng nêu trên đã nói lên phần nào chất lượng của công tác kê khai nộp
thuế đối với DN thuộc lĩnh vực ngoài quốc doanh còn hạn chế
Nguyên nhân dẫn đến tình trạng trên có thể nói trước hết là từ công tác tổ chức bộ
máy kế toán tại doanh nghiệp. Đối với doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp có vốn
đầu tư nước ngoài đã có tổ chức bộ máy kế toán khá chặt chẽ, hạch toán và ghi sổ kế toán
tương đối đúng quy định. Từ đó, kết quả kê khai, báo cáo tài chính trong khu vực kinh tế
này cơ bản phản ánh đúng kết quả kinh doanh của doanh nghiệp. Doanh nghiệp ngoài

quốc doanh mặc dù đã thực hiện chế độ kế toán theo quy định nhưng tổ chức bộ máy kế
toán phần lớn không rõ ràng; một kế toán có thể làm việc cho nhiều doanh nghiệp nên
theo dõi hạch toán không đầy đủ và còn nhiều sai sót; thậm chí có doanh nghiệp hàng
năm không có báo cáo tài chính. Một nguyên nhân khách quan là các doanh nghiệp nhà
nước chủ yếu cung cấp hàng hoá dịch vụ cho người kinh doanh nên đòi hỏi việc sử dụng
hoá đơn chứng từ là chặt chẽ, đúng với thực tế giá cả. Doanh nghiệp ngoài quốc doanh
thực hiện chức năng còn lại là cung cấp hàng hoá, dịch vụ cho người tiêu dùng; trong khi
người tiêu dùng lại không có thói quen yêu cầu người bán hàng cung cấp hoá đơn. Chính
vì vậy, nhiều trường hợp doanh nghiệp cung cấp hàng hoá, dịch vụ không xuất hoá đơn
hoặc có xuất hoá đơn nhưng phản ánh không đúng thực tế nên làm giảm đáng kể số thuế
phải nộp. Như vậy, chất lượng công tác kê khai nộp thuế đối với khu vực kinh tế ngoài
quốc doanh sẽ phụ thuộc rất nhiều vào tính trung thực, tự giác của doanh nghiệp.
Trong việc hoàn thuế, những năm gần đây, số lượng các vụ kê khai khống hóa đơn
GTGT để được hoàn thuế vẫn chưa chấm dứt. Ví dụ, chiều ngày 11.8/2009, Phòng Cảnh
sát điều tra tội phạm về quản lý kinh tế và chức vụ (PC15), Công an TP Đà Nẵng cho biết
vừa tiến hành lệnh bắt tạm giam nguyên Giám đốc chi nhánh Tổng công ty Lâm nghiệp
Việt Nam tại Đà Nẵng (Vinafor Đà Nẵng, trụ sở tại KCN Hòa Khánh), ông Nguyễn Tấn
(52 tuổi, trú 41 Thủ Khoa Huân, P.An Hải Đông, Q.Sơn Trà, TP Đà Nẵng) vì hành vi lừa
đảo chiếm đoạt tiền thuế GTGT với số tiền lên đến hàng tỉ đồng.
II. Chiều hướng thay đổi các yếu tố trên để việc thực thi pháp luật Thuế GTGT đạt
hiệu quả cao.

3. Phương hướng chung.
Muốn luật thuế GTGT thực thi đạt hiệu quả cao thì cần tận dụng các yếu tố khách quan
và chủ quan trên một cách tích cực nhất. Sau đây là một số hướng khắc phục chung.
a) Về các yếu tố khách quan
- Đảm bảo sự phát triển bền vững của nền kinh tế.

11



- Đảm bảo tạo môi trường pháp lý bình đẳng, công bằng, áp dụng thuế thống nhất cho
mọi đối tượng nộp thuế.
- Pháp luật thuế phải có tính hệ thống, đồng bộ, ổn định và đơn giản.
- Tương thích luật quốc tế, chủ trương của Đảng và Nhà nước.
- Hệ thống luật thuế phải thực sự minh bạch, người dân có thể dễ dàng tiếp cận và tìm
hiểu chính sách thuế. Để áp dụng cơ chế quản ký thuế tiên tiến đòi hỏi đối tượng nộpthuế
phải nắm chắc các quy định của luật thuế để tự mình kê khai, tính toán đúng số thuế phải
nộp cho Nhà nước. Muốn vậy, các luật thuế phải đơn giản , dễ hiểu, minh bạch, từng quy
định trong các luật thuế phải được rõ ràng, không mơ hồ, không làm cho người dân
muốn hiểu thế nào cũng được.
b) Về các yếu tố chủ quan
Thứ nhất, khắc phục những tồn tại của Luật thuế GTGT hiện hành về mặt nội
dung, làm cho Luật thuế GTGT phù hợp với tình hình kinh tế – xã hội và định hướng của
Nhà nước về phát triển kinh tế trong thời kỳ tới; đảm bảo mức động viên từ thuế và phí
vào ngân sách nhà nước; góp phần làm cho hệ thống chính sách thuế của nước ta tương
đồng với hệ thống thuế của các nước, phù hợp với thông lệ quốc tế.
Thứ hai, khắc phục Luật thuế GTGT về mặt kỹ thuật. Thuế GTGT phải thể hiện
đơn giản, rõ ràng, trung lập, ổn định và công bằng, nâng cao hiệu quả công tác thu thuế
theo xu hướng tiếp tục cải cách thủ tục hành chính về thuế, tạo điều kiện thuận lợi đẩy
mạnh đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài để phát triển sản xuất kinh doanh.
Thứ ba, các thủ tục về thuế phải đơn giản để giúp các tổ chức, cá nhân dễ dàng
hoàn thành nghĩa vụ của mình đối với Nhà nước.Đồng thời cơ quan thuế phải luôn luôn
thanh tra, kiểm tra việc thực hiện nghĩa vụ thuế của các đối tượng nộp thuế vì gian lận,
trốn lậu thuế là một căn bệnh kinh niên tồn tại song song cùng với việc thu thuế của Nhà
nước.
Thứ tư, tạo điều kiện về cơ sở, vật chất, cũng như nguồn nhân lực có chất lượng
cao cho các cơ quan quản lý thuế. Tính thuế GTGT là công việc khổng lồ, đòi hỏi chuyên
môn cao. Vì vậy, nâng cao trình độ cán bộ quản lý, thu thuế là điều tất yếu. Công tác này
có mạnh có nghiêm thì mới tăngcường kỉ cương, phép tắc giúp hạn chế tốiđa những cán

bộ thoái hoá, biếnchất. Còn những ngườiđã tốt, trong sạch thì cóđược môi trường “trong
lành” để phát huy.

12


Thứ năm, tăng cường sự kiểm tra, giám sát của cơ quan chức năng trong việc kê
khai, nộp thuế của các đối tượng nộp thuế để phát hiện kịp thời xử lý nghiêm minh những
hành vi gian lận, trốn lận thuế.
Thứ sáu, khi áp dụng mô hình quản lý thuế theo cơ chế tự khai, tự nộp thì các chế
tài pháp luật nghiêm minh là rất cần thiết, rất quan trọng trong bối cánh khả năng lợi
dụng sự cho phép tự giác của Nhà nước để trốn lậu thuế là khá cao, nhất là đối với nước
ta- một nước có trình độ phát triển chưa cao về mọi mặt.
Thứ bảy, tích cực tuyên truyền, vận động để nâng cao ý thức tự nguyện, tự giá
chấp hành các luật thuế GTGT của đối tượng nộp thuế. Vì đối tượng nộp thuế là người
trực tiếp tính toán số thuế mà mình phải nộp cho ngân sách nhà nước, do đó đòi hỏi họ
phải có một kiến thức cơ bản để hiểu được các quy định của luật thuế. Mặt khác, cơ chế
tự khai, tự nôp đòi hỏi sự tự giác cao của đối tượng nộp thuế do vậy mà người dân cần
phải có ý thức tuân thủ pháp luật tốt. để đạt được điều kiện này thì cơ quan quản lý thuế
phải đổi mới và nâng cao hiệu quả của công tác giáo dục, tuyên truyền, phổ biến các
chính sách thuế.
Thứ tám, gáo dục người dân – đối tượng chịu thuế - nhận thức được tầm quan
trọng của hoá đơn khi đi mua sắm: người tiêu dùng cần phải lấy hoá đơn khi mua sắm bất
kỳ hàng hoá nào nhằm tránh những hành động gian lận về thuế, giúp nhà nước thu đủ số
thuế.

4. Một số phương hướng cụ thể.
Thứ nhất, chống hiện tượng gian lận thuế bằng cách kê khai có tính chất khó xác minh
sự thật và ý thức nộp thuế của người dân cần có công tác tuyên truyền của Nhà nước.
Nâng cao ý thức chấp hành pháp luật và ý thức nộp thuế của người dân là công việc lâu

dài còn các giải pháp còn lại dưới đây là những giải pháp có thể làm ngay nên tập trung
làm tốt, nhằm giảm bớt thất thu cho ngân sách và hoàn thiện hơn nữa luật thuế TNCN.
Ngoài ra, để tránh hiện tượng gian lận thuế thì Các hoạt động sản xuất, kinh doanh, mua,
bán hàng hóa phải thực hiện đầy đủ chế độ chứng từ, hóa đơn.
Thứ hai, Bộ Tài chính cần thành lập cơ quan chuyên quản lý thuế đối với doanh
nghiệp lớn. Theo đó, các doanh nghiệp được xếp vào loại lớn sẽ chịu sự quản lý của cơ
quan này thay vì được quản lý rải rác tại 63 cục thuế địa phương như hiện nay. Tiêu chí
xếp loại các doanh nghiệp này là các tiêu chí dự kiến căn cứ vào doanh thu hoạt động sản
xuất - kinh doanh; số nộp ngân sách hàng năm; quy mô vốn, tài sản và số lao động sử
dụng thường xuyên; cuối cùng là ngành, lĩnh vực mang tính chất đặc thù và có hoạt động
tại nhiều địa phương hoặc có hoạt động kinh tế quốc tế (căn cứ vào doanh thu xuất-nhập
khẩu).
13


Việc tập trung đầu mối quản lý thuế đối với DN lớn sẽ giúp Bộ Tài chính có được
những phân tích đánh giá cụ thể năm nay có thể tăng thu ở khu vực DN nào, giảm thu ở
khu vực DN nào, vì sao có sự tăng/giảm số thu để kịp thời đưa ra các chính sách để điều
chỉnh. Hơn nữa, việc tập trung đầu mối quản lý thuế như thế này còn nhằm mục đích phối
hợp trong việc thanh tra, kiểm tra, xử lý khiếu nại tố cáo về thuế. Với quyền hạn trách
nhiệm của Vụ quản lý thuế DN lớn, việc kiểm tra đối vơi DN lớn sẽ được thực hiện trên
diện rộng do không bị giới hạn bởi địa bàn hoạt động. Điều này sẽ tăng cường năng lực
quản lý thuế của cơ quan quản lý nhà nước. Hơn thế, các DN lớn khi nảy sinh vướng mắc
trong thực hiện chính sách thuế cũng sẽ chỉ cần gõ đúng một cửa…
Thứ ba, tiếp tục điều chỉnh đối tượng chịu thuế đồng nghĩa với việc giảm bớt số
nhóm hàng hóa, dịch vụ không chịu thuế nhằm tạo điều kiện cho việc tính thuế được đơn
giản, khấu trừ thuế được liên hoàn giữa các khâu trong quá trình sản xuất kinh doanh, từ
đó giảm chi phí kinh doanh cho doanh nghiệp, khuyến khích xuất khẩu hàng hóa dịch vụ.
Ví dụ, cần cho các đối tượng sau vào đối tượng chịu thuế GTGT:
- Đối với các loại thiết bị, máy móc chuyên dùng thuộc dây chuyền công nghệ, vật tư xây

dựng thuộc diện trong nước chưa sản xuất được, cần nhập khẩu. Vì qua thời gian thực
hiện thuế cho thấy việc không đánh thuế GTGT chỉ giải quyết giúp đỡ được nhà đầu tư ở
chỗ không phải ứng vốn để trả trước tiền thuế.
- Hàng hóa, dịch vụ khác hiện nay vẫn chưa có tên trong danh sách chịu thuế GTGT như:
dịch vụ y tế công cộng; hoạt động dạy học, dạy nghề; hoạt động văn hóa, xuất bản báo
chí, phát thanh, truyền hình; các dịch vụ công ích; dịch vụ tưới tiêu thủy lợi; dịch vụ quốc
phòng an ninh; chuyển quyền sử dụng đất, nhà của nhà nước bán cho người tiêu dùng…
là chưa thật sự công bằng đối với tất cả các hàng hóa.
Thứ tư, tiến tới áp dụng một mức thuế suất ngoài thuế suất 0% áp dụng đối với
hàng hóa, dịch vụ xuất khẩu để đảm bảo công bằng về nghĩa vụ thuế và đơn giản trong
việc áp dụng thuế.
Thứ năm, nghiên cứu hoàn thiện phương pháp tính thuế, nâng cao hiệu quả công
tác quản lý hành thu của cơ quan thuế và giảm chi phí cho người nộp thuế.

C. KẾT THÚC VẤN ĐỀ
Tuy còn nhiều bất cập trong việc thực thi pháp luật thuế GTGT ở Việt Nam hiện nay
nhưng không một ai có thể phủ nhận tính tích cực của thuế GTGT đối với toàn bộ nền
kinh tế nói chung và từng doanh nghiệp nói riêng. Muốn thực thi tốt pháp luật thuế
14


GTGT cần có sự nhận thức về các yếu tố ảnh hưởng đến việc thực thi pháp luật thuế
GTGT, để từ đó có hướng điều chỉnh phù hợp.

D. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.Luật thuế giá trị gia tăng 2008
2. Đại học Luật Hà Nội. Giáo trình luật thuế Việt Nam. Nxb Tư pháp. H-2004.
3 .Chiến lước phát triển kinh tế - xã hội 2001 – 2010. Báo cáo của Ban Chấp hành Trung
ương Đảng khoá VIII tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng.
4. />5. />6. />7. />8. />

15



×