Tải bản đầy đủ (.doc) (8 trang)

phân tích những đặc trưng trong văn hóa giao tiếp của người việt nam liên hệ những hạn chế trong văn hoá giao tiếp cuả sinh viên đại học luật hà nộ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (77.9 KB, 8 trang )

MỞ BÀI
Việt Nam có một nền văn hóa phong phú và đa dạng trên tất cả các
khía cạnh,người Việt cùng cộng đồng 54 dân tộc có những phong tục đúng
đắn, tốt đẹp từ lâu đời, có những lễ hội nhiều ý nghĩa sinh hoạt cộng đồng,
những niềm tin bền vững trong tín ngưỡng, sự khoan dung trong tư tưởng
giáo lý khác nhau của tôn giáo, tính cặn kẽ và ẩn dụ trong giao tiếp truyền
đạt của ngôn ngữ, từ truyền thống đến hiện đại của văn học, nghệ thuật.
Trong văn hóa Việt Nam, văn hoá giao tiếp đóng một vai trò rất quan trọng.
Văn hóa giao tiếp là một trong những bản sắc văn hóa nhân loại nói chung
và của người Việt Nam nói riêng. Nó được duy trì qua lịch sử, làm thành cái
quý báu của nền văn hóa dân tộc.Quan trọng hơn, nó sẽ tồn tại song hành
cùng với sự tồn tại của nhân loại, là phương tiện để con người tự hoàn thiện
bản thân mình, dể cùng nhau tiến bước vào nền văn minh mới. Văn hóa giao
tiếp của người Việt Nam có những đặc trưng cơ bản , để làm rõ hơn về vấn
đề này em xin chọn chủ đề “ phân tích những đặc trưng trong văn hóa
giao tiếp của người Việt Nam . Liên hệ những hạn chế trong văn hoá giao
tiếp cuả sinh viên đại học Luật Hà Nội”để làm chủ đề bài tập học kì của
mình. Do kiến thức còn hạn chế bài làm của em chắc hẳn sẽ không tránh
khỏi những thiếu sót, kính mong thầy cô bổ sung và cho ý kiến để bài làm
được tốt hơn.


NỘI DUNG
I.ĐẶC TRƯNG TRONG VĂN HÓA GIAO TIẾP CỦA NGƯỜI VIỆT
NAM.
1. KHÁI NIỆM VĂN HÓA, VĂN HÓA GIAO TIẾP
a.Khái niệm văn hóa
Văn hóa hiểu theo nghĩa rộng bao gồm cả trình độ phát triển vật chất và
tinh thần; hiểu theo nội dung bao gồm cả khoa học, kĩ thuật, giáo dục và văn
hóa nghệ thuật; được đặt trong phạm vi nếp sống, lối sống, đạo đức xã hội.
Văn hóa là sự hiểu biết nhằm định hướng cho sự phát triển theo cái đúng, cái


tốt, cái đẹp. Văn hóa là một trong những bộ phận quan trọng cho sự phát
triển lâu bền nhiều mặt của dân tộc
Tóm lại, văn hóa là hệ thống hữu cơ các giá trị vật chất và tinh thần do
con người sáng tạo và tích lũy qua quá trình hoạt động thực tiễn ,trong sự
tương tác giữa con người với môi trường tự nhiên và xã hội.
b.Khái niệm văn hóa giao tiếp
Nguồn gốc văn hóa gắn liền với nguồn gốc loài người, trong đó nổi bật
là những hoạt động có ý thức của con người, gồm cả hoạt động giao tiếp và
văn hóa giao tiếp. Giao tiếp là một hiện tượng xã hội thể hiện các mối quan
hệ người với người, với thiên nhiên qua các hiện tượng giao lưu, ứng xử
thông qua tiếp xúc trực tiếp, nhằm đáp ứng nhu cầu vật chất và tinh thần của
con người. Lí luận văn hóa Mác – Lênin cho rằng trong quá trình phát triển
xã hội, giao tiếp văn hóa có vị trí đặc biệt, bởi nó chính là một thành tố thuộc
bản chất năng động của con người, cái làm cho văn hóa phát triển liên tục
như những giá trị liên tục. Đến lượt mình, văn hóa góp phần làm cho con
người hoàn thiện và trở thành động lực cho sự phát triển kinh tế - xã hội nói
chung.
Như vậy, văn hóa giao tiếp là cách thức thể hiện nhân cách, thái độ của
mỗi người đối với người khác trong quá trình sống. Trong giao tiếp, văn hóa
nổi bật lên nét tính cách đặc trưng, nét đẹp của mỗi người.
2.ĐẶC TRƯNG TRONG VĂN HÓA GIAO TIẾP CỦA NGƯỜI VIỆT
NAM


L. Pheurbach đã từng nói: “Con người cá thể không chứa bản chất con
người ở trong mình…Bản chất con người chỉ bộc lộ ra trong giao tiếp, trong
thể thống nhất giữa con người với con người. Con người để cho mình chỉ là
con người theo nghĩa thông thường còn con người trong giao tiếp với đồng
loại, trong sự thống nhất giữa Tôi với Anh mới chính là Thượng đế ”. Thực
tế cuộc sống đã thêm một lần nữa chứng minh cho chúng ta thấy rõ về điều

đó.Bản chất của con người chỉ bộc lộ trong giao tiếp. Trước hết, xét về thái
độ giao tiếp , có thể thấy đặc điểm của người Việt Nam là vừa thích giao tiếp
lại vừa rụt rè
Với người Việt Nam văn hoá giao tiếp có sáu đặc trưng cơ bản:
a/Tính cộng đồng
Trước hết, xét về thái độ của người Việt Nam đối với việc giao tiếp. Có
thể nhận thấy họ vừa thích giao tiếp lại vừa rất rụt rè. Chính cuộc sống phụ
thuộc lẫn nhau đã cho thấy người Việt Nam rất coi trọng việc giữ gìn các
mối quan hệ với mọi thành viên trong cộng đồng, và đó cũng là nguyên nhân
khiến người Việt Nam đặc biệt coi trọng việc giao tiếp. Sự giao tiếp tạo ra
quan hệ: Dao năng liếc thì sắc, người năng chào thì quen. Sự giao tiếp củng
cố tình thân : áo năng may năng mới, người năng tới năng thân. Năng lực
giao tiếp được người Việt Nam xem là tiêu chuẩn hàng đầu để đánh giá con
người : Một thương tóc bỏ đuôi gà, hai thương ăn nói măn mà có duyên.
Người Việt Nam có thích thăm viếng. Khi đã thân nhau thì dù gặp nhau
hàng ngày nhưng lúc rãnh rỗi vẫn tới thăm nhau nhằm thắt chặt thêm quan
hệ, tình cảm.Người Việt Nam có tính hiếu khách: Khi có khách đến nhà dù
là thân hay sơ, người Việt dù nghèo khó vẫn cố gắng đón tiếp chu đáo,
thường dành cho khách những ưu đãi đặc biệt:“ Khách đến nhà không gà thì
gỏi”. Tính hiếu khách này được thể hiện càng rõ nét ở các làng quê.
Ví dụ: Tính hiếu khách của người dân Nam Bộ. Trong gia đình, khi có
khách đến nhà lúc nhà đang ăn cơm, chủ nhà mời mà khách từ chối thì hay
bị hiểu lầm là khinh rẻ chủ nhà, đã ăn no rồi thì cũng nên ngồi vào mâm
cùng ăn, gọi đùa là “ăn ba hột” lấy lệ cho vừa lòng chủ. Bao giờ cũng vậy,
người dân Nam bộ luôn muốn dành những gì quý nhất, đẹp nhất trong đối
nhân xử thế với hàng xóm, bạn bè và người thân của mình.
Hay như người Thái ở vùng Tây Bắc. Chẳng cần biết lạ hay quen,thân hay
sơ, khách đến nhà là được ngủ ở vị trí trang trọng với chăn mới, đệm mới do
chính bàn tay khéo léo của các cô gái Thái làm nên.
Bên cạnh sự thích giao tiếp người Việt Nam lại rất rụt rè. Sự tồn tại đồng

thời hai tính cách này bắt nguồn từ hai đặc tính cơ bản của làng xã Việt Nam
là tính cộng đồng và tính tự trị.Ở nơi tính cộng đồng ngự trị,người Việt Nam
tỏ ra xởi lởi thích giao tiếp còn ở nơi có tính tự trị ngự trị - ở nơi lạ thì người


Việt Nam tỏ ra rụt rè. Hai tính cách trái ngược nhưng không mâu thuẫn vì ở
trong những môi trường khác thì tính cách sẽ thể hiện khác nhau. Từ đó mới
thấy được tính linh hoạt của người Việt. Ở phương Tây thì khác do hoàn
cảnh và điều kiện sống khác – họ xuất phát từ nền chăn nuôi du mục nên
tính cộng đồng của họ mang tính chất cá thể. Họ gặp gỡ chỉ mang tính xã
giao công việc do tính cộng đồng làng xã của phương Tây không bền chặt.
b/ Nguyên tắc ứng xử
Trên quan hệ ngoại giao,văn hoá nông nghiệp với đặc điểm trọng tình
dẫn tới chỗ lấy tình cảm làm nguyên tắc ứng xử.
Ví dụ:
“ Yêu nhau cau sáu bổ ba
Ghét nhau cau sáu bổ ra làm mười”.
Đặc điểm của người Việt Nam là khi đã yêu thì chỉ nhìn thấy những mặt
tốt còn những mặt xấu luôn bị che lấp. Và ngược lại khi ghét ai thì không
bao giờ thừa nhận những mặt tốt của họ.Từ đây cũng thấy được cái không
tốt trong cách nhìn nhận và đánh giá của người Việt Nam. Người Việt Nam
coi trọng tình cảm hơn mọi thứ trên đời, ai giúp mình một chút đều phải nhớ
ơn. Người Việt Nam lấy sự hài hòa âm dương làm trọng nhưng thiên về âm
hơn.“ Một bồ cái lí không bằng một tí cái tình”.Người Việt Nam thường lấy
cái tình để xem xét và giải quyết vấn đề nhiều hơn là lý. Vì thế trong pháp
luật cũng thiên về tình nghĩa nhiều. Phương Tây thì khác, họ rạch ròi giữa
lý – tình. Trong công việc không có chỗ cho tình cảm xen giữa.
Ví dụ: Trong cách chọn người làm việc họ chỉ dựa vào khả năng – năng
lực chứ không bị chi phối bởi sự quen biết, các mối quan hệ tình cảm.
Đặc trưng này thể hiện được đăc trưng riêng và tốt đẹp của văn hóa Việt

Nam. Tuy nhiên khi làm việc không nên đặt tình cảm nên trên công việc thì
làm việc mới hiệu quả, chính xác.
c/ thói quen tìm hiểu, quan sát, đánh giá
Với đối tượng giao tiếp ,người Việt Nam có thói quen ưa tìm hiểu, quan
sát, đánh giá…Tuổi tác, quê quán, trình độ học vấn, địa vị xã hội, tình trạng
gia đình… là những điều người Việt Nam thường hay quan tâm. Người Việt
Nam tự thấy có trách nhiệm phải quan tâm đến người khác, mà muốn quan
tâm thì cần phải biết rõ hoàn cảnh. Hơn nữa khi giao tiếp đều có những cách
xưng hô phù hợp với đối tượng, nếu không tìm hiểu đầy đủ thông tin thì làm
sao lựa chọn từ xưng hô cho thích hợp được.
Do tính cộng đồng, người Việt Nam tự thấy có trách nhiệm phải quan tâm
đến người khác, mà muốn quan tâm thì cần biết rõ hoàn cảnh. Mặt khác, do
phân biệt chi li các quan hệ xã hội, mỗi cặp giao tiếp đều có những cách
xưng hô riêng, nên nếu không có đầy đủ thông tin thì không thể nào lựa
chọn từ xưng hô cho thích hợp được.
Tính hay quan sát khiến người Việt Nam có được một kho kinh nghiệm


xem tướng hết sức phong phú : chỉ cần nhìn vào cái mặt, cái mũi, cái miệng,
con mắt,... là đã biết được tính cách của con người. Chẳng hạn, riêng về xem
người qua con mắt đã có các kinh nghiệm : Đàn bà con mắt lá dăm- Lông
mày lá liễu đáng trăm quan tiền; Người khôn con mắt đen sì, Người dại con
mắt nửa chì nửa thau, Con lợn mắt trắng thì nuôi - Những người mắt trắng
đánh hoài đuổi đi, Những người ti hí mắt lươn - Trai thì trộm cướp, gái buôn
chồng người; Trên trời Phạm Nhan, thế gian một mắt.
Biết tính cách, biết người là để lựa chọn đối tượng giao tiếp thích hợp : Tùy
mặt gửi lời, tùy người gửi của; Chọn mặt gửi vàng. Trong trường hợp không
được lựa chọn thì người Việt Nam sử dụng chiến lược thích ứng một cách
linh hoạt : ở bầu thì tròn , ở ống thì dài ; Đi với Bụt mặc áo cà sa, đi với ma
mặc áo giấy.

Ở phương tây họ không bao giờ tìm hiểu đến hoàn cảnh của người
khác.Họ cho đó là tò mò và rất ghét quan điểm này bởi họ luôn đề cao cái tôi
tự do
d/ Chủ thể giao tiếp
Đặc biệt khi giao tiếp, người Việt Nam rất coi trọng danh dự: “Tốt danh
hơn lành áo”, hay “Trâu chết để da, người ta chết để tiếng”. Danh dự người
Việt Nam gắn với năng lực giao tiếp : Lời nói để lại dấu vết, tạo thành tiếng
tăm, nó được truyền đến tai nhiều người, tạo nên tai tiếng. Chính vì quá coi
trọng danh dự nên người Việt Nam mắc bệnh sĩ diện “Đem chuông đi đấm
nước ngoài-Không kêu cũng đấm ba hồi lấy danh”
Ở các vùng quê thói sỉ diện này được thể hiện càng rõ,như các cụ giàngười có chức vụ thì ăn mâm trên…
Lối sống trọng danh dự dẫn đến cơ chế tin đồn tạo nên dư luận như một
thứ vũ khí lợi hại bậc nhất của một cộng đồng để duy trì sự ổn định của làng
xã. Điều này tạo ra hai mặt, tích cực đó là tạo ra quy tắc để làm chuẩn mực
xã hội. Nhưng có lúc dư luận tạo nên những điều thái quá làm cho con người
cùng quẩn không lối thoát.
e/ Cách thức giao tiếp
Trong cách thức giao tiếp, người Việt Nam ưa sự tế nhị , ý tứ và trọng sự
hòa thuận. Điều đó khiến người Việt Nam có thói quen giao tiếp “vòng vo
tam quốc” không bao giờ mở đầu trực tiếp, nói thẳng vào vấn đề như người
phương Tây. Khi giao tiếp, nghệ thuật vào đề là rất quan trọng. Nó hầu như
quyết định đến 50% kết quả của những cuộc giao tiếp ấy, dù là ở phương
diện nào.
Ví dụ : Để tỏ tình, người con trai sẽ hỏi rất ý tứ : “ Bây giờ mận mới hỏi
đào Vườn hồng đã có ai vào hay chưa?” Hay câu: “ Chiếc thuyền giăng câu
đậu ngang cồn cát đậu sát mé nhà anh biết em có một mẹ già muốn vô phụng
dưỡng biết là đặng không ?” Hay để biết người đối thoại còn cha mẹ hay


không, có thể hỏi: “các cụ nhà vẫn khoẻ cả chứ ?”.

Lối giao tiếp vòng vo kết hợp với nhu cầu tìm hiểu về đối tượng giao tiếp
tạo ra thói quen chào hỏi- “chào” đi liền với “hỏi” :Bác đi đâu đấy ?, cụ đang
làm gì đấy?..., “hỏi”như một thói quen và không cần câu trả lời.
Lối giao tiếp ưa tế nhị, ý tứ là sản phẩm của lối sống trọng tình và lối tư
duy coi trọng các mối quan hệ (tư duy biện chứng). Nó tạo nên một thói
quen đắn đo cân nhắc kĩ càng khi nói năng : Ăn có nhai, nói có nghĩ; Chó ba
quanh mới nằm, người ba năm mới nói; Biết thì thưa thốt, không biết thì dựa
cột mà nghe; Khôn cũng chết, dại cũng chết, ai biết thì sống; Người khôn ăn
nói nữa chừng, Để cho kẻ dại nữa mừng nữa lo,...Chính sự đắn đo cân nhắc
này khiến cho người Việt Nam có nhược điểm thiếu tính quyết đoán
Để tránh phải quyết đoán, và đồng thời để không làm mất lòng ai, để giữ
được sự hòa thuận cần thiết, người Việt Nam rất hay cười. Nụ cười là một cử
chỉ quan trọng trong thói quen giao tiếp của người Việt. Nhiều khi chỉ ánh
mằt, nụ cười ban đầu nhưng đã bộc lộ được điều muốn nói và bao giờ cũng
để lại ấn tượng khó phai.
Tâm lý trọng hòa thuận khiến người Việt Nam luôn chủ trương nhường nhịn:
“Một sự nhịn là chín sự lành”
f/ Nghi thức lời nói
Cuối cùng, để hoạt động giao tiếp diễn ra, người Việt Nam có một
phương tiện biểu đạt đó là hệ thống nghi thức lời nói, nó rất phong phú.
Trước hết, đó là sự phong phú trong hệ thống xưng hô tiếng Việt. Trong
khi các ngôn ngữ khác (Phương tây và Trung hoa) chỉ sử dụng các đại từ
nhân xưng thì tiếng Việt, ngoài các đại từ nhân xưng (mà số lượng cũng rất
là phong phú do nhiều biến thể), còn sử dụng một số lượng lớn các danh từ
chỉ quan hệ họ hàng (anh-em; bà-cháu; chú-cháu…) để thay thế cho họ hàng
và những danh từ thân tộc này có xu hương lấn át các đại từ nhân xưng. Hệ
thống xưng hô này mang lại giá trị như: tăng thêm tính chất thân mật hóa,
trọng tình cảm, xem mọi người trong cộng đồng như bà con họ hàng trong
một gia đình. Nó còn có tính chất xã hội hóa, cộng đồng hóa cao. Trong hệ
thống từ xưng hô này không có cái “tôi” chung chung. Quan hệ xưng hô phụ

thuộc vào tuổi tác, địa vị xã hội, không gian, thời gian giao tiếp…
Ngoài ra nó còn thể hiện tính tôn ti kỹ lưỡng. Người Việt Nam xưng hô
theo nguyên tắc xưng nghiêm, hô tôn (gọi mình thì khiêm nhường còn gọi
đối tượng giao tiếp thì tôn kính). Cùng một cặp giao tiếp, nhưng có khi cả
hai đều cùng nhau xưng là em và đều gọi nhau là chị…
Trong giao tiếp, cách nói lịch sự cũng rất là phong phú. Do truyền thống
nặng về tình cảm và tính linh hoạt nên người Việt Nam không dùng những
từ cảm ơn, xin lỗi khái quát có thể dùng cho mọi trường hợp như người
phương Tây. Cũng như trong xưng hô, đối với mỗi người ta có một cách


xưng hô khác nhau thì trong việc cảm ơn, xin lỗi, mỗi trường hợp cũng có
một cách thể hiện khác nhau: Cho con xin (cảm ơn khi nhận quà); Bác chu
đáo quá, anh chu đáo quá (cảm ơn khi được quan tâm); Ai thế này (cảm ơn
khi có người lâu ngày không đến nhà chơi); Tất cả là nhờ chị ấy (cảm ơn khi
được giúp đỡ)…Hay muốn hỏi, muốn biết điều gì thì thường nói: làm phiền,
làm ơn…
Với lĩnh vực nghi thức chào hỏi, trong khi người phương Tây phân biệt
kỹ các lời chào theo thời gian như chào gặp mặt, chào chia tay…thì người
Việt Nam lại phân biệt kỹ các lời chào theo quan hệ xã hội và theo sắc thái
tình cảm.
Ngoài 6 đặc trưng cơ bản trên những phẩm chất nổi trội về văn hoá giao
tiếp trong con người Việt Nam còn có:
+ Khả năng đối phó rất linh hoạt với mọi tình thế và lối ứng xử mềm dẻo
+ Giản dị, chất phác, ưa đơn giản, ghét cầu kỳ xa hoa
+ Tấm lòng rộng mở và giàu cảm xúc lãng mạn
+ Tâm lý bình quân chủ nghĩa
3.BIỂU HIỆN ĐẶC TRƯNG TRONG VĂN HÓA GIAO TIẾP CỦA
NGƯỜI VIỆT NAM- GIAO TIẾP CỦA NGƯỜI HÀ NỘI
Nếu giao tiếp là thường xuyên ở bất cứ thời gian nào, và thường trực trong

bất cứ một không gian lịch sử và xã hội nào, thì văn hoá giao tiếp lại là sản
phẩm của từng lúc, từng nơi.
Văn hoá giao tiếp phụ thuộc, đồng thời cũng phản ánh và thậm chí tác
động trở lại với rất nhiều điều kiện và hoàn cảnh xã hội, kinh tế, tự nhiên
cũng như từng cá nhân và năm tháng nữa. Do đó mới có văn hoá vùng,
miền, địa phương, cá nhân, cũng như có văn hoá nông thôn, đô thị, có văn
hoá quý tộc và bình dân...
Nói về văn hoá giao tiếp của mình người Hà Nội chỉ gói gọn trong hai
chữ Thanh và Lịch:
Chẳng thơm cũng thể hoa nhài
Dẫu không thanh lịch cũng người Tràng An
Chỉ bằng một câu nói ví von ngắn gọn, nhã nhặn, nhún nhường vậy thôi
cũng đã cho ta thấy cái lịch lãm, tế nhị, tự tin của người Hà Nội. Những con
người sống trên mảnh đất là nơi hội tụ, tích hợp các luồng văn hoá, để rồi
thẩm thấu, chắt lọc và toả sáng. Đây cũng đồng thời là nơi tập hợp các danh
nhân văn hoá, các tao nhân mặc khách ở mọi thời đại và mọi thế hệ. Chính
những yếu tố đó làm nên văn hoá Thăng Long - Đông Đô - Hà Nội - mảnh
đất ngàn năm văn hiến, thì thử hỏi làm sao người Hà Nội không thanh lịch
cho được.
Sự thanh lịch ấy thể hiện trước hết ở lời nói:


Người thanh tiếng nói cũng thanh
Chuông kêu khẽ đánh bên thành cũng kêu
Cái thanh, cái đẹp của tiếng nói Hà Nội là ở chỗ chuẩn xác, phát âm đúng,
mẫu mực cho cả nước.
Cái thanh lịch của người Hà Nội còn thể hiện trong giao tiếp xã hội. Người
Hà Nội với vốn từ giàu có, lại biết sử dụng đúng nơi đúng chỗ, hợp cảnh,
hợp tình, tạo nên một phong cách riêng không pha trộn vừa hào hoa, nhã
nhặn, vừa lịch lãm nhún nhường.

Trong quan hệ với bạn bè, khách khứa, người Hà Nội bao giờ cũng có một
thái độ hiếu khách truyền thống, nồng nhiệt mà không thô bạo, niềm nở mà
không suồng sã. Khi khách đến nhà, người chủ dù bận việc cũng phải đứng
dậy mời chào. Nếu đang mặc quần áo ngắn, quần cộc, áo cánh thì phải “xin
lỗi” khách, mà mặc quần áo dài nghiêm chỉnh rồi mới tiếp khách. Trong
cách pha trà đãi khách của người Hà Nội cũng thể hiện trình độ và sự tinh tế
riêng. Chè để đãi khách bao giờ cũng là chè ngon, có nhà cẩn thận còn đem
ướp sen, nhài hay hoa ngâu để tăng thêm hương vị. . Khi ăn uống, người Hà
Nội bao giờ cũng giữ nền nếp “ăn trông nồi, ngồi trông hướng” và luôn luôn
thận trọng, ý tứ khi trong mâm có người già cao tuổi hay khách khứa.
Từ ngàn xưa, người Thăng Long - Hà Nội đã có nếp sống “có lịch có lề”.
Đó chính là truyền thống văn minh - văn hiến ngàn năm trong thế ứng xử
của người Hà Nội.
II. HẠN CHẾ TRONG VĂN HÓA GIAO TIẾP CỦA SINH VIÊN ĐẠI
HỌC LUẬT HÀ NỘI
1.HẠN CHẾ TRONG VĂN HÓA GIAO TIẾP CỦA SINH VIÊN ĐẠI HỌC
LUẬT HÀ NỘI
Sinh viên đại học Luật Hà Nội ngày nay còn gặp không ít hạn chế trong
văn hóa giao tiếp do những nguyên nhân khác nhau. Một bộ phận lớn sinh
viên rất xem nhẹ kĩ năng trong văn hóa giao tiếp. Nguyên nhân đầu tiên là
do chính bản thân con người họ chưa ý thức được tầm quan trọng của văn
hóa giao tiếp trong cuộc sống xung quanh họ. Rất nhiều bạn sinh viên cho
rằng bây giờ là sinh viên thì chỉ cần chú tâm vào học hành cho thật tốt,
không cần đối nội, đối ngoại thì làm sao phải tìm hiểu, học văn hóa giao tiếp



×