Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

Tìm hiểu về nguyên tắc cân đối trong hoạt động ngân sách nhà nước theo luật ngân sách và thực tế áp dụng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (129.2 KB, 21 trang )

MỤC LỤC
Trang

LỜI MỞ ĐẦU

1

NỘI DUNG

1

I. NHỮNG VẤN ĐỀ LÍ LUẬN VỀ NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC VÀ CÂN ĐỐI
TRONG HOẠT ĐỘNG NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC........................................1
1. Khái niệm Ngân sách nhà nước:.....................................................................1
2. Khái niệm cân đối trong hoạt động ngân sách nhà nước:...............................2
3. Đặc điểm cân đối ngân sách nhà nước:...........................................................3
4. Vai trò của cân đối ngân sách nhà nước..........................................................4
II. NGUYÊN TẮC CÂN ĐỐI TRONG HOẠT ĐỘNG NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC
THEO LUẬT NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC (NGUYÊN TẮC NGÂN SÁCH THĂNG
BẰNG)......................................................................................5
1. Nội dung của nguyên tắc cân đối trong hoạt động ngân sách nhà nước theo Luật
Ngân sách Nhà nước....................................................................................5
2. Đặc điểm của nguyên tắc cân đối trong hoạt động ngân sách nhà nước theo Luật
Ngân sách Nhà nước....................................................................................7
3. Mối quan hệ giữa nguyên tắc cân đối đối với hoạt động NSNN.....................7
4. Tác động của nguyên tắc cân đối đối với hoạt động ngân sách nhà nước.......8
III. THỰC TẾ ÁP DỤNG NGUYÊN TẮC CÂN ĐỐI TRONG HOẠT ĐỘNG NGÂN
SÁCH NHÀ NƯỚC THEO LUẬT NGÂN SÁCH.................................9
1. Thực tiễn việc thực hiện nguyên tắc cân đối trong hoạt động ngân sách nhà nước ở
Việt Nam..................................................................................................9
2. Những thành tựu đạt được và hạn chế còn tồn tại trong việc áp dụng nguyên tắc


cân đối trong hoạt động ngân sách nhà nước ở Việt Nam............................10
III. MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM PHÁT HUY VAI TRÒ CỦA NGUYÊN TẮC CÂN
ĐỐI

TRONG

HOẠT

ĐỘNG

NGÂN

SÁCH

NHÀ

NƯỚC



NAM..................................................................................................................13

KẾT LUẬN

14

0

VIỆT



LỜI MỞ ĐẦU
Trong xu thế hội nhập kinh tế như hiện nay, vấn đề cân đối ngân sách nhà nước
(NSNN) là rất quan trọng và cần được quan tâm đúng mức. Bỡi lẽ, ngân sách nhà
nước là công cụ tài chính cốt yếu để Nhà nước điều phối toàn xã hội, giải quyết
những vấn đề khó khăn của đất nước, đem lại sự công bằng cho người dân… Nhưng
để đảm bảo tốt những vai trò trên thì NSNN phải được cân đối. Thực tế ở Việt Nam
trong thời gian vừa qua, NSNN không ổn định và mất cân đối đã kéo theo những hậu
quả làm ảnh hưởng đến sự phát triển của nền kinh tế và nhiều vấn đề xã hội nãy sinh
như: thu vào NSNN không đủ chi dẫn đến nợ nước ngoài nhiều, lạm phát tăng nhanh,
không có nguồn tài chính để đầu tư đúng mức vào hoạt động kinh tế… Để khắc phục
những vấn đề trên, Chính phủ đã có nhiều cố gắng trong việc cải cách quản lý hành
chính, đổi mới chính sách thu, chi ngân sách để hướng tới một NSNN được cân đối
nhằm góp phần thúc đẩy kinh tế phát triển, ổn định xã hội và kiểm soát tình trạng lạm
phát đang diển ra ở nước ta và đưa Việt Nam tiến vào thời kỳ hội nhập của nền kinh
tế thế giới. Cân đối NSNN là một vấn đề phức tạp nhưng nó có một vai trò quan
trọng đối với kinh tế đất nước trong thời kỳ chuyển đổi, hội nhập và cùng với những
lý do nêu trên, em đã lựa chọn đề tài: “Tìm hiểu về nguyên tắc cân đối trong hoạt
động ngân sách nhà nước theo Luật ngân sách và thực tế áp dụng” để nghiên cứu
cho bài tập học kỳ của mình

NỘI DUNG
I. NHỮNG VẤN ĐỀ LÍ LUẬN VỀ NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC VÀ CÂN ĐỐI
TRONG HOẠT ĐỘNG NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC:
1. Khái niệm Ngân sách nhà nước
Ngân sách nhà nước là một phạm trù rất rộng và bao quát, vừa liên quan đến
lĩnh vực kinh tế vừa liên quan đến góc độ quản lý Nhà nước. Vì vậy hiện nay có
nhiều ý kiến khác nhau định nghĩa về ngân sách Nhà nước, nhưng thể hiện rõ nhất và
đầy đủ nhất về bản chất của ngân sách nhà nước là hai định nghĩa trên hai phương
diện kinh tế và pháp lý.

1.1. Về phương diện kinh tế: NSNN là một khái niệm thuộc phạm trù kinh tế
học hay hẹp hơn là tài chính học. Theo đó, NSNN được hiểu là bản dự toán về các
1


khoản thu và các khoản chi tiền tệ của một quốc gia, được cơ quan nhà nước có thẩm
quyền quyết định thực hiện trong một khoảng thời hạn nhất định, thường là một năm.
Khái niệm NSNN định nghĩa theo phương diện này có hai yếu tố:
Một là, NSNN là bản dự toán các khoản thu và chi tiền tệ của quốc gia. Do đó
phải được Quốc hội với tư cách là người đại diện cho toàn thể nhân dân trong quốc
gia đó quyết định trước khi chính phủ đem ra thi hành trên thực tế để đảm bảo cho
việc thu, chi ngân sách có hiệu quả và phù hợp với người dân. Ngoài ra, Quốc hội còn
là người giám sát chính phủ trong quá trình thi hành ngân sách và có quyền phê
chuẩn bảng quyết toán ngân sách hàng năm do chính phủ đệ trình khi năm ngân sách
kết thúc.
Hai là, NSNN có hiệu lực trong vòng một năm, tức là việc dự toán thu, chi đã
được đề ra phải hoàn thành trong năm ngân sách đó tính từ ngày 01/01 đến ngày
31/12 hàng năm. Khoảng thời gian này được pháp luật quy định nhằm giới hạn rõ
thời gian thực hiện bản dự toán NSNN và được gọi là “năm ngân sách” hay “tài
khóa”, thực chất là niên độ ngân sách. Khoảng thời gian này có thể trùng hoặc không
trùng với năm dương lịch tùy theo tập quán của mỗi nước. Việc quy định rõ thời gian
này nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động của NSNN, tránh sự tùy tiện, độc
đoán của nhà nước trong việc thu nộp và chi tiêu ngân sách.
1.2.Về phương diện pháp lý:
Theo quy định tại Điều 1 Luật Ngân sách Nhà nước thì: “Ngân sách nhà nước
là toàn bộ các khoản thu, chi của Nhà nước đã được cơ quan nhà nước có thẩm
quyền quyết định và được thực hiện trong một năm để bảo đảm thực hiện các chức
năng, nhiệm vụ của Nhà nước”. Với quy định này, chúng ta thấy rằng ngân sách nhà
nước chính là một đạo luật tài chính do Quốc hội ban hành, dự toán về các khoản thu,
chi thực hiện trong một năm của một quốc gia, bên cạnh đó đây còn là công cụ tài

chính quan trọng để Nhà nước thực hiện và điều tiết các hoạt động kinh tế- xã hội của
đất nước.
Do yêu cầu của bài luận, chúng ta chỉ xem xét chủ yếu NSNN theo quy định
của pháp luật (phương diện pháp lý), bởi lẽ đây là công cụ được nhà nước thừa nhận
trong pháp luật và được ứng dụng trong thực tiễn.
2. Khái niệm cân đối trong hoạt động ngân sách nhà nước
2


NSNN là một bảng kế hoạch tài chính của một quốc gia trong đó dự trù các
khoản thu và chi được thực hiện trong một năm. Trên thực tế, quá trình thu, chi
NSNN luôn trong trạng thái biến đổi không ngừng, nó bị ảnh hưởng bởi sự vận động
của nền kinh tế quốc gia, có khi những khoản thu dự kiến không đủ đáp ứng nhu cầu
chi tiêu trong năm đó hoặc có khi mức thu lại vượt xa những khoản chi. Do vậy, các
khoản chi tiêu và thu NSNN phải được tính toán chính xác và phù hợp với thực tế để
đảm bảo cho NSNN trong trạng thái cân bằng, ổn định. Thu và chi ngân sách là hai
vấn đề quan trọng để đảm bảo cho NSNN được cân đối, hai vấn đề này lại nằm trong
mối tương quan giữa tài chính và kinh tế, vì kinh tế có phát triển thì Nhà nước mới
huy động được nguồn thu vào NSNN còn kinh tế không ổn định, kém phát triển thì
nguồn thu vào NSNN giảm và còn phải chi nhiều để hổ trợ. Điều đó dễ dẫn đến
NSNN bị mất cân đối. Cân đối trong hoạt động ngân sách nhà nước được xem xét
trên những khía cạnh sau:
Xét về bản chất, cân đối trong hoạt động NSN là cân đối giữa các nguồn thu
mà Nhà nước huy động được tập trung vào NSNN trong một năm và sự phân phối, sử
dụng nguồn thu đó thỏa mãn nhu cầu chi tiêu của Nhà nước trong năm đó;
Xét về góc độ tổng thể, cân đối trong hoạt động NSNN phản ánh mối tương
quan giữa hoạt động thu và hoạt động chi trong một tài khóa. Nó không chỉ là sự
tương quan giữa tổng thu và tổng chi mà còn thể hiện sự phân bổ hợp lý giữa cơ cấu
các khoản thu và cơ cấu các khoản chi của NSNN do các cơ quan có thẩm quyền thực
hiện;

Xét trên phương diện phân cấp quản lý nhà nước, cân đối trong hoạt động
NSNN là cân đối về phân bổ và chuyển giao nguồn thu giữa các cấp ngân sách, giữa
trung ương và địa phương và giữa các địa phương với nhau để thực hiện chức năng
và nhiệm vụ được giao.
Tóm lại, có thể hiểu: Cân đối trong hoạt động NSNN là một bộ phận quan
trọng của chính sách tài khóa, phản ánh sự điều chỉnh mối quan hệ tương tác giữa
hoạt động thu và hoạt động chi NSNN nhằm thực hiện các mục tiêu kinh tế- xã hội
mà Nhà nước đã đề ra trong từng lĩnh vực và địa bàn cụ thể.
3. Đặc điểm cân đối ngân sách nhà nước:

3


Từ khái niệm về cân đối ngân sách nhà nước ta có thể rút ra một số đặc điểm
cơ bản sau đây:
Thứ nhất: Cân đối ngân sách nhà nước phản ánh mối quan hệ tương tác giữa
thu và chi ngân sách nhà nước trong năm ngân sách nhằm đạt được các mục tiêu đã
đề ra. Nó vừa là công cụ thực hiện các chính sách xã hội của Nhà nước, vừa bị ảnh
hưởng bởi các chỉ tiêu kinh tế- xã hội. Cân đối ngân sách nhà nước không phải là để
thu chi cân đối hoặc chỉ là cân đối đơn thuần về mặt lượng, mà cân đối ngân sách nhà
nước nhằm thực hiện các mục tiêu chiến lược kinh tế- xã hội của Nhà nước đồng thời
các chỉ tiêu kinh tế- xã hội này cũng quyết định sự hình thành về thu, chi ngân sách
nhà nước. Tuy nhiên việc tính toán thu, chi không phản ánh một cách thụ động các
chỉ tiêu kinh tế- xã hội, mà cân đối ngân sách nhà nước có tác động làm thay đổi hoặc
điều chỉnh một cách hợp lý các chỉ tiêu kinh tế- xã hội, bằng khả năng quản lý hoặc
phân bổ nguồn lực có hiệu quả.
Thứ hai: Cân đối ngân sách nhà nước là cân đối giữa tổng thu và tổng chi,
giữa các khoản thu và các khoản chi, cân đối về phân bổ và chuyển giao nguồn lực
giữa các cấp trong hệ thống ngân sách nhà nước, đồng thời kiểm soát được tình trạng
ngân sách nhà nước đặc biệt là tình trạng bội chi ngân sách nhà nước. Cân bằng thuchi ngân sách nhà nước chỉ là tương đối chứ không thể đạt mức tuyệt đối được vì

hoạt động kinh tế luôn ở trạng thái biến động Nhà phải điều chỉnh hoạt động thu, chi
cho phù hợp. Bên cạnh đó, cần phân bổ nguồn thu cho hợp lý để đảm bảo sự ổn định
về kinh tế- xã hội giữa các địa phương. Mặt khác, nếu ngân sách không cân bằng mà
rơi vào tình trạng bội chi thì cần đưa ra những giải quyết kịp thời để ổn định lại ngân
sách nhà nước.
Thứ ba: Cân đối ngân sách nhà nước mang tính định lượng và tính tiên liệu.
Trong quá trình cân đối ngân sách nhà nước, người quản lý phải xác định các con số
thu, chi ngân sách nhà nước so với tình hình thu nhập trong nước, chi tiết hóa từng
khoản thu, chi nhằm đưa ra cơ chế sử dụng và quản lý nguồn thu phù hợp với hoạt
động chi, từ đó để làm cơ sở phân bổ và chuyển giao nguồn lực giữa các cấp ngân
sách. Cân đối ngân sách nhà nước phải dự đoán được các khoản thu, chi ngân sách
một cách tổng thể để đảm bảo thực hiện các mục tiêu kinh tế - xã hội.
4. Vai trò của cân đối ngân sách nhà nước
4


Cân đối ngân sách nhà nước là một công cụ quan trọng để Nhà nước can thiệp
vào hoạt động kinh tế- xã hội của đất nước, với vai trò quyết định đó thì cân đối ngân
sách nhà nước trong nền kinh tế thị trường có các vai trò sau:
Thứ nhất, cân đối ngân sách nhà nước góp phần ổn định kinh tế vĩ mô. Nhà
nước thực hiện cân đối ngân sách nhà nước thông qua chính sách thuế, chính sách chi
tiêu hàng năm và quyết định mức bội chi cụ thể nên có nhiều tác động đến hoạt động
kinh tế cũng như cán cân thương mại quốc tế. Từ đó góp phần ổn định việc thực các
mục tiêu của chính sách kinh tế vĩ mô như: Tăng trưởng mức thu nhập bình quân
trong nền kinh tế, giảm tỷ lệ thất nghiệp, lạm phát được duy trì ở mức ổn định và có
thể dự toán được,…
Thứ hai, cân đối ngân sách nhà nước góp phần phân bổ, sử dụng nguồn lực tài
chính có hiệu quả, để đảm bảo được vai trò này ngay từ khi lập dự toán Nhà nước đã
lựa chọn trình tự ưu tiên hợp lý trong phân bổ ngân sách nhà nước và sự gắn kết chặt
chẽ giữa chiến lược phát triển kinh tế- xã hội với công tác lập kế hoạch ngân sách.

Trong phân cấp quản lý ngân sách, nếu cân đối ngân sách nhà nước phân định nguồn
thu một cách hợp lý giữa trung ương với địa phương và giữa các địa phương với nhau
thì sẽ đảm bảo thực hiện được các mục tiêu kinh tế- xã hội đã đề ra.
Thứ ba, cân đối ngân sách nhà nước góp phần đảm bảo công bằng xã hội, giảm
thiểu sự bất bình đẳng giữa các địa phương. Nước ta với mỗi một vùng lại có một
điều kiện kinh tế - xã hội khác nhau, có những vùng điều kiện kinh tế- xã hội rất khó
khăn làm ảnh hưởng đến thu nhập và chất lượng cuộc sống của người dân, có những
vùng điều kiện kinh tế- xã hội thuận lợi, phát triển làm cho thu nhập và cuộc sống của
người dân được nâng lên. Vì vậy cân đối ngân sách nhà nước sẽ đảm được sự công
bằng, giảm thiểu sự bất bình đẳng giữa người dân và các vùng miền. Nhà nước có thể
huy động nguồn lực từ những người có thu nhập cao, những vùng có kinh tế phát
triển để hổ trợ, giúp đỡ những người nghèo có thu nhập thấp và những vùng kinh tế
kém phát triển. Bên cạnh đó, cân đối ngân sách nhà nước góp phần phát huy lợi thế
của từng địa phương, tạo nên thế mạnh kinh tế cho địa phương đó dựa trên tiềm năng
có sẳn của địa phương.
Tóm lại, , Ngân sách nhà nước vừa là công cụ tài chính quan trọng, vừa là đạo
luật của một quốc gia. Nó được thiết lập và vận hành cùng với sự tồn tại và phát triển
5


của quốc gia đó. Đặc biệt trong thời kỳ chuyển đổi và hội nhập như hiện nay, ngân
sách nhà nước và vấn đề cân đối ngân sách càng đóng vai trò quan trọng hơn vào sự
phát triển đất nước, bình ổn xã hội. Hiểu và vận dụng tốt các học thuyết về cân đối
ngân sách nhà nước sẽ giúp nước ta có thể giải quyết những vấn đề còn tồn đọng về
ngân sách nhà nước trong thời gian vừa qua. Ngân sách nhà nước được cân đối, ổn
định sẽ giúp Nhà nước thực hiện tốt chức năng và nhiệm vụ của mình đối với toàn
dân, toàn xã hội.
II. NGUYÊN TẮC CÂN ĐỐI TRONG HOẠT ĐỘNG NGÂN SÁCH NHÀ
NƯỚC THEO LUẬT NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC (NGUYÊN TẮC NGÂN
SÁCH THĂNG BẰNG)

1. Nội dung của nguyên tắc cân đối trong hoạt động ngân sách nhà nước theo
Luật Ngân sách Nhà nước
Luật Ngân sách Nhà nước năm 2002 đã ghi nhận nguyên tắc cân đối trong
hoạt động ngân sách nhà nước tại Điều 8 như sau:
“1. Ngân sách nhà nước được cân đối theo nguyên tắc tổng số thu từ thuế,
phí, lệ phí phải lớn hơn tổng số chi thường xuyên và góp phần tích luỹ ngày càng cao
vào chi đầu tư phát triển; trường hợp còn bội chi, thì số bội chi phải nhỏ hơn số chi
đầu tư phát triển, tiến tới cân bằng thu, chi ngân sách;
2. Bội chi ngân sách nhà nước được bù đắp bằng nguồn vay trong nước và
ngoài nước. Vay bù đắp bội chi ngân sách nhà nước phải bảo đảm nguyên tắc không
sử dụng cho tiêu dùng, chỉ được sử dụng cho mục đích phát triển và bảo đảm bố trí
ngân sách để chủ động trả hết nợ khi đến hạn;
3. Về nguyên tắc, ngân sách địa phương được cân đối với tổng số chi không
vượt quá tổng số thu; trường hợp tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương có nhu cầu
đầu tư xây dựng công trình kết cấu hạ tầng thuộc phạm vi ngân sách cấp tỉnh bảo
đảm, thuộc danh mục đầu tư trong kế hoạch 5 năm đã được Hội đồng nhân dân cấp
tỉnh quyết định, nhưng vượt quá khả năng cân đối của ngân sách cấp tỉnh năm dự
toán, thì được phép huy động vốn trong nước và phải cân đối ngân sách cấp tỉnh
hàng năm để chủ động trả hết nợ khi đến hạn. Mức dư nợ từ nguồn vốn huy động
không vượt quá 30% vốn đầu tư xây dựng cơ bản trong nước hàng năm của ngân
sách cấp tỉnh”.
6


Như vậy, với quy định này thì nguyên tắc cân đối trong hoạt động NSNN bao
gồm những nội dung sau đây:
Thứ nhất: Tổng số thu từ thuế, phí, lệ phí phải lớn hơn tổng số chi thường
xuyên và góp phần tích lũy ngày càng cao vào chi đầu tư phát triển, trường hợp còn
bội chi thì số bội chi phải nhỏ hơn chi đầu tư phát triển, tiến tới cân bằng thu, chi
ngân sách. Nội dung này của nguyên tắc cân đối đã phân định ranh giới giữa chi đầu

tư phát triển và chi thường xuyên, thể hiện sự thận trọng trong chính sách tài khóa
của Việt Nam. Theo đó, các khoản thu thường xuyên được sử dụng để trang trải chi
thường xuyên và một phần thu thường xuyên cùng với thu bù đắp được sử dụng để
chi đầu tư phát triển, trong đó chi đầu tư phát triển được chú trọng hơn vì nó có thể
làm tăng khả năng thu hồi vốn cho ngân sách nhà nước nhưng phải đảm bảo được sự
cân đối giữa chi đầu tư phát triển và chi thường xuyên, bởi lẽ giữa chúng có mối quan
hệ mật thiết với nhau trong chi tiêu công của Nhà nước. Chi đầu tư phát triển là hoạt
động cần thiết đối với sự phát triển kinh tế, xã hội của một quốc gia, nó tạo ra những
điều kiện cở sở vật chất kỹ thuật cần thiết cho nền kinh tế, cũng từ đó kéo theo sự
phát triển của nhiều lĩnh vực khác và đảm bảo các vấn đề xã hội của đất nước, giúp
nhà nước thực hiện tốt chức năng và nhiệm vụ của mình. Vì vậy, chi đầu tư phát triển
là vấn đề được Nhà nước ưu tiên trong xây dựng nguyên tắc cân đối trong hoạt động
NSNN.
Hai là: Bội chi NSNN được bù đắp bằng nguồn vay trong nước và nước ngoài.
Vay bù đắp bội chi NSNN phải đảm bảo nguyên tắc không sử dụng cho tiêu dùng, chỉ
được sử dụng cho mục đích phát triển và bảo đảm bố trí ngân sách để chủ động trả
hết nợ khi đến hạn. Trong điều kiện kinh tế thị trường như hiện nay thì vấn đề bội chi
ngân sách là không thể tránh khỏi đối với một quốc gia nhưng chưa hẳn bội chi
NSNN là biểu hiện của sự yếu kém của nền kinh tế mà nó còn là một trong các cách
thức tạo ra sự cân đối của hoạt động NSNN trong dài hạn, đảm bảo cho nền kinh tếxã hội phát triển và ổn định. Nguyên tắc vay bù đắp bội chi nên dành cho mục đích
phát triển và đảm bảo bố trí ngân sách để chủ động trả hết nợ khi đến hạn là rất cần
thiết để đảm bảo NSNN được cân đối, tận dụng được nguồn vốn vay một cách có
hiệu quả. Chi cho tiêu dùng là hoạt động chi không mang tính chất thu hồi vốn và
không tạo ra thặng dư, do đó nguồn vay bù đắp bội chi chỉ được để dành cho mục
7


đích phát triển. Về nguyên tắc, ngân sách địa phương được cân đối với tổng số chi
không vượt quá tổng số thu; trường hợp tỉnh thành phố trực thuộc trung ương có nhu
cầu đầu tư xây dựng công trình kết cấu hạ tầng thuộc phạm vi ngân sách cấp tỉnh bảo

đảm, thuộc danh mục đầu tư trong kế hoạch 5 năm đã được hội đồng nhân dân cấp
tỉnh quyết định nhưng vượt quá khả năng cân đối của ngân sách cấp tỉnh năm dự toán
thì được phép huy động vốn không vượt quá 30% vốn đầu tư xây dựng cơ bản trong
nước hàng năm của ngân sách cấp tỉnh.
Ba là: Nguyên tắc cân đối này đã tạo cho chính quyền địa phương có được
nhiều ưu thế hơn trong việc quyết định ngân sách cấp mình. Vấn đề cho phép cấp tỉnh
vay nợ là cần thiết, giúp cho chính quyền địa phương có thể chủ động hơn trong việc
tạo ra những điều kiện về cơ sở vật chất hạ tầng để phát triển kinh tế và đảm bảo các
vấn đề xã hội của địa phương mình. Tuy nhiên, khoản vay nợ này lại được tính vào
thu trong cân đối ngân sách địa phương, do vậy nhìn một cách tổng thể thì ngân sách
địa phương tôn trọng nguyên tắc phải cân bằng thu, chi theo quy định của Luật Ngân
sách Nhà nước năm 2002 song thực chất ngân sách địa phương có bội chi và khoản
bội chi này lại không tính vào trong bội chi ngân sách nhà nước. Điều này dẫn đến sự
thiếu minh bạch trong cân đối ngân sách nhà nước ở Việt Nam. Ngoài ra, việc quy
định tỷ lệ tối đa chung cho mọi địa phương là 30%( trừ Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh)
là chưa hợp lý vì mỗi địa phương có điều kiện kinh tế, xã hội khác nhau nên nhu cầu
vay nợ, khả năng quản lý nợ và hoàn trả nợ là khác nhau.
Bốn là: nguyên tắc cân đối trong hoạt động NSNN được thể hiện ở chỗ: phải
dựa trên hệ thống các nguyên tắc lập ngân sách và quản lý chi tiêu công. Điều này thể
hiện trên những nội dung sau:
Về tính tổng thể và tính kỷ luật tài chính: để kiểm soát được các nguồn tài
chính có hiệu quả, yêu cầu trong cân đối của hoạt động NSNN phải đánh giá đúng
nguồn lực tài chính đó và lựa chọn những công cụ thích hợp nhất để phân bổ nguồn
lực nhằm đạt được mục tiêu ngân sách đã đề ra. Điều này có nghĩa là, khi cân đối
trong hoạt động NSNN thì những quyết định về chi đầu tư phát triển và chi thường
xuyên cần phải được gắn kết với nhau, trong chi tiêu NSNN cần tập trung chi vào
những khoản cần thiết, chi tiêu tiết kiệm, tránh lãng phí để thực hiện tốt các chiến
lược mà Chính phủ đề ra.
8



Về tính linh hoạt và tính tiên liệu: trong cân đối của hoạt động NSNN, tính linh
hoạt và tính tiên liệu là cần thiết vì nó giúp nhà quản lý đưa ra cách xử lý và điều
phối nguồn lực tài chính một cách hợp lý, tạo điều kiện thuận lợi để nhà nước thực
hiện các mục tiêu kinh tế- xã hội đã đề ra. Tính linh hoạt yêu cầu phải trao quyền cho
người quản lý trong việc ra quyết định phân bổ nguồn lực tài chính đã thu được từ
các nguồn thu khác nhau mà đất nước có. Tính tiên liệu đóng vai trò quan trọng trong
việc thực hiện chính sách và chương trình có hiệu quả. Nội dung này đòi hỏi nguyên
tắc cân đối trong hoạt động NSNN phải chú ý đến sự cân đối trong ngắn hạn và dài
hạn và phải vận dụng cách tiếp cận trung hạn đối với việc điều chỉnh mất cân đối
ngân sách nhà nước.
Về tính trung thực: khi sử dụng nguyên tắc cân đối trong hoạt động NSNN nên
dựa vào những dự toán đã được lập từ thực tế tình hình kinh tế- xã hội của đất nước
mà không có sự thiên vị về vấn đề thu hoặc chi ngân sách nhà nước. Những dự toán
quá lạc quan sẽ dễ đưa đến sự vi phạm tính kỷ luật tài chính và dẫn đến việc không
thực hiện được những chiến lược, chính sách mà Nhà nước đã đề ra do ngân sách nhà
nước không bảo đảm cân đối trong quá trình hoạt động khi chưa đưa ra những kế
hoạch cụ thể.
Về thông tin, minh bạch và trách nhiệm: đây là vấn đề rất cần thiết trong cân
đối trong hoạt động NSNN. Thông tin tốt sẽ làm tăng thêm tính trung thực và giúp
người quản lý sẽ đưa ra những quyết định hợp lý. Thông tin chính xác và kịp thời về
chi phí, đầu ra và kết quả đạt được sẽ giúp cho quá trình thực hiện cân đối trong hoạt
động NSNN đạt hiệu quả nhất định.
2. Đặc điểm của nguyên tắc cân đối trong hoạt động ngân sách nhà nước theo
Luật Ngân sách Nhà nước
Ngoài những đặc điểm của nguyên tắc cân đối NSNN đã phân tích ở trên,
nguyên tắc cân đối trong hoạt động NSNN theo Luật Ngân sách nhà nước năm 2002
còn có những đặc điểm riêng sau:
Thứ nhất, nguyên tắc cân đối trong hoạt động NSNN là sự bình ổn nguồn
ngân sách, làm cho số bội chi NSNN được cân bằng so với các nguồn thu để hoàn

thiện các nhiệm vụ chi đó. Điều này có nghĩa là, đặc điểm nổi bật của nguyên tắc cân
đối trong hoạt động NSNN (nguyên tắc ngân sách thăng bằng) chính là sự định
9


hướng được cho NSNN nếu có bội chi thì sẽ có cách giải quyết, bình ổn tối ưu, được
thể hiện rõ trong khoản 2 Điều 8 Luật Ngân sách Nhà nước: “Bội chi ngân sách nhà
nước được bù đắp bằng nguồn vay trong nước và ngoài nước. Vay bù đắp bội chi
ngân sách nhà nước phải bảo đảm nguyên tắc không sử dụng cho tiêu dùng, chỉ được
sử dụng cho mục đích phát triển và bảo đảm bố trí ngân sách để chủ động trả hết nợ
khi đến hạn”.
Thứ hai, nguyên tắc cân đối trong hoạt động ngân sách nhà nước còn đòi hỏi
nguồn vay ngân sách từ trong và ngoài nước sẽ không được sử dụng cho các nhiệm
vụ chi nào khác ngoài nhiệm vụ chi cho đầu tư phát triển vì đây là nhiệm vụ quan
trọng hàng đầu đỏi hỏi phải có nguồn ngân sách thật sự ổn định để thực hiện nhiệm
vụ và khi nhiệm vụ hoàn thành sẽ nhanh chóng có nguồn tài chính để trả nợ. Do vậy,
bắt buộc phải tuân theo đặc điểm này để tránh sự xáo trộn trong hoạt động NSNN.
3. Mối quan hệ giữa nguyên tắc cân đối đối với hoạt động NSNN
Thứ nhất, nguyên tắc cân đối trong hoạt động NSNN có vai trò thúc đẩy hoặc
có khi lại kiềm chế sự linh hoạt, hiệu quả của hoạt động ngân sách nhà nước của Việt
Nam. Điều này thể hiện, nếu nguyên tắc cân đối này được các cơ quan nhà nước có
thẩm quyền vận dụng một cách linh hoạt, sáng tạo thì nó có tác dụng làm cho hoạt
động ngân sách nhà nước của Việt Nam luôn vận động phát triển theo chiều hướng
tích cực, có nghĩa là hoạt động thu ngân sách và nhiệm vụ chi ngân sách cho những
mục tiêu phát triển của đất nước do có tác động tích cực từ nguyên tắc này sẽ luôn ổn
định và phát triển, không bị xáo trộn bởi sự tác động của các yếu tố nào. Ngược lại,
nếu cơ quan có thẩm quyền mà áp dụng sai quy luật, bản chất của nguyên tắc cân đối
trong hoạt động ngân sách nhà nước thì nó thúc đẩy sự xáo trộn, mất cân đối, ổn định
của các nguồn thu và nhiệm vụ chi cụ thể của Việt Nam.
Thứ hai, ở trên là sự tác động của nguyên tắc cân đối tới hoạt động ngân sách

nhà nước, do có mối quan hệ mật thiết với nhau cho nên không chỉ có sự tác động
một chiều từ nguyên tắc cân đối mà còn là sự tác động trở lại của hoạt động ngân
sách nhà nước tới nguyên tắc cân đối. Điều này thể hiện, nếu hoạt động ngân sách
nhà nước của Việt Nam được vận động hợp quy luật, tuân theo quy định của pháp
luật và đạt được những thành tựu nhất định thì tức là hoạt động đó đã chứng minh sự
đúng đắn của nguyên tắc cân đối và nhờ những thành tựu đó nên quá trình này tiếp
10


tục dung nạp, sử dụng nguyên tắc cân đối trong hoạt động ngân sách nhà nước làm cơ
sở cho việc thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế- xã hội của Việt Nam. Ngược lại,
nếu như hoạt động ngân sách nhà nước có sử dụng nguyên tắc này trong thực hiện
các nhiệm vụ tài chính của đất nước mà không thu được những thành tựu nào mà còn
làm ảnh hưởng tiêu cực đến sự phát triển của đất nước thì nguyên tắc này đã bộc lộ
sự hạn chế, không còn phù hợp với những biến động không ngừng của hoạt động
ngân sách thì sẽ nhanh chóng bị thay đổi bản chất, quy luật bởi chính hoạt động thu
và chi ngân sách này, thay vào đó là một nguyên tắc cân đối với bản chất và quy luật
phù hợp hơn với hoạt động ngân sách nhà nước. Điều này đòi hỏi cơ quan nhà nước
có thẩm quyền phải tiến hành sửa đổi bổ sung nguyên tắc cân đối trong hoạt động
ngân sách của nhà nước đảm bảo cho nguyên tắc này được giữ vững, không bị xáo
trộn để tiếp tục làm cơ sở định hướng cho việc thực hiện nhiệm vụ thu, chi ngân sách
của Việt Nam.
4. Tác động của nguyên tắc cân đối đối với hoạt động ngân sách nhà nước
Sự tác động của nguyên tắc cân đối trong hoạt động NSNN tới hoạt động ngân
sách (thu, chi ngân sách nhà nước) được biểu hiện cụ thể qua những nội dung sau:
Trước hết, nguyên tắc cân đối trong hoạt động NSNN có tác động làm cho
hoạt động thu, chi ngân sách nhà nước của các cơ quan nhà nước được ổn định. Sự
tác động này thể hiện: để thực hiện nhiệm vụ thu và chi ngân sách thì các cơ quan có
thẩm quyền buộc phải áp dụng sự cân đối được pháp luật quy định nhằm đảm bảo
cho kế hoạch của cơ quan nhà nước cấp trên được thực hiện triệt để, do có những ưu

điểm nhất định và được thực tiễn kiểm định thông qua quá trình sử dụng lâu dài
nguyên tắc cân đối khi các cơ quan khác nhau trong những giai đoạn khác nhau đã sử
dụng nó cho hoạt động cụ thể của mình và dành những thắng lợi nhất định. Do vậy,
nguyên tắc này vẫn có tác dụng làm ổn định hoạt động thu, chi ngân sách đến giai
đoạn hiện nay nên vẫn được sử dụng.
Hai là, nguyên tắc cân đối cũng có tác động làm cho hoạt động thu, chi NSNN
không những ổn định mà còn phát triển bền vững. Điều này có nghĩa là, khi các cơ
quan nhà nước có thẩm quyền tiến hành hoạt động thu và chi NSNN mà áp dụng
đúng nguyên tắc này cho hoạt động của mình thì khả năng thu và nhiêm vụ chi ngân
sách được tiến hành suôn sẻ không những đã đáp ứng yêu cầu đặt ra mà còn có khả
11


năng vượt yêu cầu đặt ra, có nghĩa là khả năng thu và nhiệm vụ chi được tiến hành
suôn sẻ không những chỉ trong một năm ngân sách nhất định mà còn có khả năng
được tiến hành suôn sẻ ở những năm ngân sách tiếp theo đó nhờ áp dụng đúng
nguyên tắc cân đối này.
Ba là, nguyên tắc cân đối không chỉ có tác động tích cực tới hoạt động NSNN
mà nó còn có tác động tiêu cực đến hoạt động này, đó là nó có khả năng kiềm chế,
làm chậm đi quá trình thu, chi NSNN của Việt Nam khi các cơ quan có thẩm quyền
tiến hành hoạt động thu, chi ngân sách mà không có sự áp dụng hoặc áp dụng sai bản
chất của nguyên tắc này thì khi đó hoạt động NSNN sẽ không những bị chậm đi mà
còn có khả năng mất ổn định, ảnh hưởng đến việc thực hiện các kế hoạch phát triển
kinh tế- xã hội đã có định hướng cụ thể của cơ quan nhà nước có thẩm quyền phân bổ
ngân sách nhà nước từ các nguồn thu đó. Hậu quả cuối cùng tất yếu xảy ra khi áp
dụng sai nguyên tắc cân đối sẽ là sự mất định hướng cho việc phân bổ NSNN, các cơ
quan có thẩm quyền sẽ không định ra được kế hoạch sẽ sử dụng nguồn thu này cho
những nhiệm vụ chi cụ thể nào. Đây là sự tác động bất lợi cho sự giàu mạnh của một
quốc gia khi nguyên tắc cân đối trong hoạt động NSNN không được quan tâm chú
trọng.

III. THỰC TẾ ÁP DỤNG NGUYÊN TẮC CÂN ĐỐI TRONG HOẠT ĐỘNG
NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC THEO LUẬT NGÂN SÁCH:
1. Thực tiễn việc thực hiện nguyên tắc cân đối trong hoạt động ngân sách nhà
nước ở Việt Nam
Kể từ khi Luật Ngân sách Nhà nước năm 2002 có hiệu lực thi hành thì hoạt
động ngân sách nhà nước (hoạt động thu, chi ngân sách) đã có những chuyển biến
theo cả hai hướng tích cực và tiêu cực, đặc biệt là việc áp dụng nguyên tắc cân đối
trong hoạt động NSNN theo quy định của luật vào hoạt động thu, chi ngân sách bên
cạnh việc đạt được những thành tựu cụ thể cũng không ít những vấn đề tiêu cực nảy
sinh. Cụ thể:
Thứ nhất, các cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong lĩnh vực thu, chi ngân
sách nhà nước trong hoạt động của mình đã triệt để áp dụng nguyên tắc cân đối theo
quy định của Luật Ngân sách Nhà nước để tạo ra sự cân bằng, ổn định cho NSNN
nhằm phục vụ tốt nhất cho những nhiệm vụ quan trọng của đất nước.
12


Thứ hai, để cho việc thu, chi ngân sách được cân đối cũng như bắt buộc các cơ
quan có thẩm quyền trực tiếp thực hiện nhiệm vụ thu, chi ngân sách để tập trung
nguồn thu về NSNN tuân thủ triệt để nguyên tắc cân đối trong hoạt động NSNN thì
từ khâu dự toán- khâu đầu tiên trước khi bắt tay trực tiếp vào hoạt động thu, chi cụ
thể thì các cơ quan có thẩm quyền trong việc dự toán NSNN cũng đã tuân thủ nghiêm
ngặt nguyên tắc này để đảm bảo cho nguồn ngân sách thực sự cân đối, ổn định tạo cơ
sở cho việc thực hiện tốt những nhiệm vụ cụ thể về các lĩnh vực khác nhau của đất
nước phải sử dụng đến ngân sách nhà nước.
Thứ ba, mặc dù việc áp dụng nguyên tắc cân đối trong hoạt động NSNN đã
được tuân thủ triệt để trong hoạt động của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong
lĩnh vực thu, chi và phân bổ ngân sách nhưng việc áp dụng nguyên tắc này thật sự
không đơn giản mà vẫn có những vướng mắc trong quá trình áp dụng nguyên tắc đó
vào thực tiễn hoạt động. Theo GS-TSKH Tào Hữu Phùng, Phó Chủ nhiệm Uỷ ban

kinh tế và ngân sách của Quốc hội: “việc thực hiện nguyên tắc cân đối trong Luật
Ngân sách Nhà nước đã xuất hiện một số vướng mắc, tồn tại, trong đó vấn đề về
phạm vi cân đối và cách tính bội chi NSNN còn có một số điểm chưa rõ ràng, chưa
đúng với quy định của Luật Ngân sách Nhà nước, chưa phù hợp với thông lệ quốc tế.
Số thu về phí, lệ phí hiện nay chưa được quy định rõ ràng, khoản nào trong cân đối,
khoản nào ngoài cân đối NSNN, khoản nào hạch toán trong NSNN”. Nếu như vậy thì
vấn đề cân đối trong ngân sách hoàn toàn chưa đạt được, do vậy nguyên tắc cân đối
trong trường hợp nêu trên hoàn toàn chưa được tuân thủ, áp dụng triệt để, điều này
một phần do trách nhiệm của các cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam, phần nữa do
đặc thù của hoạt động thu, chi ngân sách ở Việt Nam (thu từ nhiều nguồn và chi cho
quá nhiều nhu cầu khác nhau) tạo nên, chúng ta khó có thể cân đối trong mọi năm
ngân sách.
Thứ tư, một điểm vướng mắc nữa về thực tế áp dụng nguyên tắc cân đối trong
hoạt động NSNN của Việt Nam là khi thực hiện việc cân đối NSNN (cân đối các
nguồn thu với nhiệm vụ chi cụ thể của đất nước) thì chúng ta phải quán triệt nguyên
tắc tổng số thu từ thuế, phí, lệ phí phải lớn hơn tổng số chi thường xuyên; nếu bội chi
phải nhỏ hơn chi đầu tư phát triển. Nhưng qua kết quả kiểm toán cho thấy một số
khoản thu nêu trên không được tính toán cân đối NSNN mà để lại đơn vị chi tiêu, khi
13


quyết toán sẽ thực hiện ghi thu, ghi chi vào NSNN. Kết quả kiểm toán cho thấy
khoản phí, lệ phí là con số không nhỏ (ước tính hàng ngàn tỷ đồng) và đây là nguồn
thu ngân sách nhà nước cần phải được đưa vào cân đối, bố trí trong dự toán hàng
năm. Nếu thực tế đó không nhanh chóng được khắc phục thì sẽ ảnh hưởng nghiêm
trọng đến quá trình lên kế hoạch cho việc phân bổ nguồn NSNN của những năm tiếp
theo và như vậy việc cân đối trong ngân sách trong các năm sau đó là không thể đạt
được mà tình trạng đó nếu tiếp tục diễn ra sẽ làm cho nguồn thu và nhiệm vụ chi của
nước ta bị xáo trộn.
Trên đây là thực tiễn việc thực hiện nguyên tắc cân đối trong hoạt động NSNN,

từ thực tiễn đã chũng ta đã thu được một số thành tựu đáng kể nhưng bên cạnh đó,
cũng phát sinh những mặt hạn chế không tránh khỏi.
2. Những thành tựu đạt được và hạn chế còn tồn tại trong việc áp dụng nguyên
tắc cân đối trong hoạt động ngân sách nhà nước ở Việt Nam
2.1. Những thành tựu đạt được:
Trước hết, việc nguyên tắc cân đối trong hoạt động ngân sách nhà nước theo
Luật Ngân sách Nhà nước 2002 đã làm cho nguồn ngân sách nước ta đạt được ổn
định và không ngừng tăng lượng dự trữ qua các năm bởi do có sự cân đối trong ngân
sách nhà nước cho nên những nhiệm vụ chi cụ thể đã được thực hiện đến cùng bởi sự
bảo đảm từ nguồn vật chất đầu tư trong ngân sách. Từ đó, những nguồn thu khác do
nhiệm vụ chi chưa phát sinh hoặc chưa cần thiết nên đã được đưa vào dự trữ trong
ngân sách nhà nước để đáp ứng cho những nhiệm vụ chi mới phát sinh.
Hai là, áp dụng nguyên tắc cân đối trong hoạt động ngân sách nhà nước ở Việt
Nam đã làm cho GDP của Việt Nam đạt tăng trưởng từ năm 2002 là 7%; năm 2003:
7,3%, năm 2004: 7,7%, năm 2005: 7,5%, năm 2006: 8,2% và năm 2007 là 8,5%. So
với các nước trong khu vực, Việt Nam đứng vào hàng các quốc gia có tốc độ tăng
trưởng rất cao (theo Những con số này luôn tăng
theo các năm là do chúng ta biết cân đối giữa nguồn thu và những nhiệm vụ chi cụ
thể, nói cách khác chúng ta biết sử dụng nguồn thu ngân sách nhà nước để tập trung
đầu tư chi cho những công việc có lợi cho nguồn thu ngân sách (có khả năng thu hồi
nguồn ngân sách cao và nhanh nhất). Điều này hoàn toàn phù hợp với bản chất của

14


nguyên tắc cân đối và quy định của pháp luật là chi đầu tư phát triển chiếm tỷ lệ cao
nhất trong nhiệm vụ chi ngân sách.
Ba là, việc áp dụng nguyên tắc cân đối trong hoạt động ngân sách nhà nước
thời gian qua vào các khâu dự toán ngân sách, thu ngân sách, chi ngân sách nhà nước
và quyết toán ngân sách của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền ở Việt Nam đã góp

phần làm tăng thu nhập bình quân đầu người ở mức 122,5 USD/người, tăng lên 400
USD/người năm 2000 và 637,3 USD/người năm 2005. Con số này đã đạt được 820
USD/người năm 2007. Bên cạnh đó, số hộ giàu tăng lên và số hộ nghèo giảm xuống.
Tỷ lệ nghèo đói giảm mạnh từ 58% năm 1993 giảm còn 37% năm 1998 tiếp tục giảm
còn 28% năm 2004 và còn lại mức thấp 18,1% năm 2006. Đời sống của người dân
được cải thiện, các vấn đề an sinh xã hội được đảm bảo hơn (theo số liệu thống kê tại
website tapchicongsan.org.vn). Điều này do chúng ta đảm bảo được nguồn thu cân
đối, các nhiệm vụ chi khác nhau ở các lĩnh vực khác nhau được giải quyết tốt cho nên
nguồn tài chính được sử dụng để chi cho các lĩnh vực xã hội có bước lũy tiến, có
nghĩa là trong hoạt động thu, chi ngân sách nhà nước, chúng ta đã có sự cân bằng
giữa nhiệm vụ chi cho các công việc ở các lĩnh vực khác với nhiệm vụ chi cho các
lĩnh vực xã hội (chi thường xuyên) và nguồn chi cho các lĩnh vực xã hội này không
ngừng được tăng lên do chúng ta bảo đảm được nguồn thu cân đối nên việc chi cho
các nhiệm vụ khác đã được dự toán cụ thể cho nên nguồn tài chính còn lại sau khi đã
dự toán cho các nhiệm vụ chi khác nhau được dư ra với một lượng tương đối lớn mà
chưa dự toán cho nhiệm vụ chi thường xuyên trong đó có việc giải quyết các vấn đề
xã hội, với nguồn tài chính còn lại này đủ lớn để chúng ta có thể tập trung cung cấp
cho nhiệm vụ chi thường xuyên này được dồi dào hơn.
Bốn là, trong những năm qua, nước ta đã kiểm được mức bội chi NSNN ở giới
hạn cho phép (không quá 5% GDP/năm) và nguồn vay chủ yếu chi cho đầu tư phát
triển, đây là một thành công đáng ghi nhận trong vấn đề kiểm soát bội chi NSNN ở
nước ta. Theo thống kê của Cục thống kê (Bộ Tài chính), trong giai đoạn từ năm
2001- 2007, bội chi NSNN được duy trì ở mức 5% GDP và thực hiện ở mức 4,9%5% GDP (bao gồm cả tiền trả nợ gốc và không bao gồm các khoản chi ngoài dự toán.
Mặc dù chịu sự tác động nghiêm trọng từ những cuộc khủng hoảng kinh tế tài chính
từ nền kinh tế thế giới nhưng do có sự triệt để áp dụng nguyên tắc cân đối trong hoạt
15


động thu, chi ngân sách nhà nước cho nên tình hình thu, chi NSNN của Việt Nam vẫn
chuyển biến theo chiều hướng tích cực, thu không những đủ chi cho thường xuyên

mà còn dành được một phần cho đầu tư phát triển. Vì vậy, mức thâm hụt NSNN được
khống chế ở mức thấp, đây chính là kết quả của những nỗ lực to lớn của các cơ quan
nhà nước có thẩm quyền trong hoạt động thu, chi ngân sách nhà nước ở Việt Nam.
2.2. Một số hạn chế khi áp dụng nguyên tắc này:
Bên cạnh những thành tựu đạt được, việc áp dụng nguyên tắc cân đối trong
hoạt động NNSN không tránh khỏi những hạn chế sau:
Thứ nhất, tính minh bạch trong cân đối NSNN chưa được vân dụng triệt để
khi xác định tỷ lệ bội chi NSNN. Bên cạnh đó, vấn đề bội chi NSNN trong thời gian
qua cũng tồn đọng một số vấn đề mà chính phủ ta cần phải xem xét, cân nhắc để có
những giải pháp tốt hơn khi xử lý bội chi NSNN trong những năm sắp tới như: số tiền
vay, đặc biệt là vay nước ngoài cho đầu tư phát triển chưa được quản lý chặt chẽ,
chưa chú trọng đến mối quan hệ giữa chi đầu tư phát triển và chi thường xuyên nên
tạo ra áp lực bội chi ngân sách nhà nước (nhất là ngân sách địa phương), ngân sách
địa phương vẫn có bội chi nhưng mức bội chi này lại không được tính vào bội chi
NSNN. Do tính minh bạch trong cân đối ngân sách không được vận dụng triệt để nên
mặc dù nguyên tắc cân đối này có được áp dụng trong quá trình thu, chi NSNN
nhưng vẫn không thể phát huy được tác dụng làm cân bằng cho ngân sách để thực
hiện những công việc phát sinh trước đất nước, do vậy, không thể định hướng, lên kế
hoạch cho quá trình thu, chi ngân sách nhà nước cho những năm ngân sách sau đó.
Thứ hai, thu NSNN của Việt Nam phụ thuộc nhiều vào nguồn thu từ hoạt động
xuất nhập khẩu, thu từ các cơ sở kinh doanh. Bên cạnh đó, do là nước xuất khẩu dầu
thô nên thu từ dầu thô cũng chiếm tỷ trọng lớn trong tổng thu NSNN. Thu từ tài sản,
từ thuế thu nhập cá nhân, các khoản phí còn tương đối hạn chế. Theo bài viết Thánh
thức trong cân đối ngân sách nhà Nước – báo Nhân Dân: “Năm 2008, tỷ trọng thu
dầu thô và thu từ hoạt động xuất nhập khẩu vẫn chiếm tới 48% tổng thu NSNN, điều
này cho thấy thu NSNN phụ thuộc đáng kể vào thị trường thế giới. Bên cạnh đó, thu
từ các cơ sở kinh tế trong năm 2008 chiếm 39% tổng thu NSNN, trong khi đó thu
thuế thu nhập cá nhân chỉ chiếm 3%, các khoản phí, lệ phí và thu từ nhà đất chiếm
khoảng 10%, do vậy nguồn thu trong nước cũng rất nhạy cảm với các biến động kinh
16



tế. Về chi NSNN, cũng do nền kinh tế nước ta đang trong giai đoạn đầu phát triển nên
cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội còn nhiều bất cập, thể chế tài chính chưa hoàn thiện và
do tốc độ tăng giá tương đối cao... nên áp lực tăng chi NSNN là rất lớn. Ðặc biệt năm
2009, chi NSNN đã được điều chỉnh tăng do Chính phủ thực hiện các chính sách kích
cầu đầu tư, tiêu dùng nhằm ngăn chặn suy giảm kinh tế, bảo đảm an sinh xã hội.
Trong khi đó, nguồn thu NSNN bị giảm, nhất là thu từ dầu thô và thu xuất nhập khẩu
giảm do tác động của khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu”. Chính vì
thế, áp lực cân đối NSNN là rất lớn. Thêm vào đó, với quy trình ngân sách nhà nước
truyền thống, theo năm và giới hạn bội chi NSNN là 5% GDP nên mức bội chi thực tế
luôn tiệm cận ở giới hạn cho phép. Như vậy, khả năng điều chỉnh ngân sách theo các
biến động kinh tế - xã hội trong và ngoài nước rất hạn chế. Từ những tồn tại nêu trên
cho thấy sự cân đối trong hoạt động NSNN vẫn chưa được đảm bảo triệt để, xuất phát
từ những biến động của nguồn thu và nhiệm vụ chi cụ thể cho nên nguyên tắc cân đối
trong hoạt động NSNN mặc dù được áp dụng nhưng nguyên tắc này vẫn không có
khả năng đảm bảo tuyệt đối cho sự cân đối ngân sách vì những biến động luôn xảy ra
mà không thể kiểm soát được mà nguyên tắc này lại có sự ổn định tương đối nên
không thể chi phối trong mọi trường hợp cụ thể mặc dù hoạt động thu, chi NSNN đã
có áp dụng nguyên tắc này.
III. MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM PHÁT HUY VAI TRÒ CỦA NGUYÊN TẮC
CÂN ĐỐI TRONG HOẠT ĐỘNG NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC Ở VIỆT NAM
Một là: Hoàn thiện hệ thống pháp luật về nguyen tắc cân đối trong hoạt động
ngân sách nhà nước. Để có thể phát huy nguyên tắc cân đối trong hoạt động NSNN ở
Việt Nam thì điều quan trọng nhất là các cơ quan có thẩm quyền phải tiến hành
hướng dẫn cụ thể nguyên tắc này thông qua việc ban hành những văn bản pháp luật
thuộc thẩm quyền của mình để cho các cơ quan trực tiếp thực hiện thu, chi NSNN ở
trung ương và địa phương hiểu đúng bản chất từ đó áp dụng đúng và hợp lý nguyên
tắc này trong hoạt động của mình thì mới thu được sự cân đối trong NSNN. Bên cạnh
đó, cơ quan nhà nước có thẩm quyền phải tiếp tục nghiên cứu về nguyên tắc này để

có những sửa đổi, bổ sung nguyên tắc này trong luật phù hợp với những biến động
của hoạt động ngân sách ở Việt Nam nhằm giúp nguyên tắc này không lạc hậu so với
17


những biến động của hoạt động NSNN mà luôn kiểm soát tốt hoạt động thu, chi
NSNN thông qua việc áp dụng nguyên tắc cân đối của các cơ quan có thẩm quyền
trong lĩnh vực thu, chi ngân sách nhà nước...
Hai là: Nâng cao năng lực của cán bộ, công chức có thẩm quyền thực hiện thu
– chi ngân sách nhà nước. Để nguyên tắc cân đối trong hoạt động ngân sách nhà nước
được thực hiện có hiệu quả thì việc nâng cao trình độ cũng như phẩm chất của cán
bộ, công chức đóng vai trò then chốt. Bởi vì, chính họ là những người thực hiện
nguyên tắc này và đảm bảo hoạt động thu – chi ngân sách nhà nước được cân bằng.
Do vậy, để nguyên tắc này thật sự phát huy được vai trò của nó thì cần phải tiếp tục
nâng cao năng lực của cán bộ, công chức thông qua những lớp tổ chức nghiên cứu về
nguyên tắc cân đối để cho cán bộ, công chức thật sự hiểu bản chất của nó và tiến
hành áp dụng trong thực tế nguyên tắc này thật sự phù hợp với bản chất của nguyên
tắc nhằm thu được kết quả cân đối tốt nhất
Ba là: Tăng cường rà soát, cắt giảm những khoản chi tiêu NSNN chưa thật cần
thiết và kém hiệu quả. Việc này nhằm giúp Nhà nước phát hiện và xử lý kịp thời
những trường hợp vi phạm nguyên tắc và dự toán NSNN đã đề ra, cũng như nhanh
chóng có sự chuyển đổi linh hoạt trong chi tiêu NSNN để không làm mất cân đối
NSNN, không lãng phí nguồn thu NSNN vào những hoạt động chi không cần thiết,
không hiệu quả. Nhà nước phải kiểm soát chặt chẽ ngay từ khâu vay vốn để bù đắp
bội chi và sử dụng cho đầu tư phát triển, duy trì mức bội chi cho phép hàng năm do
Quốc hội quyết định. Bên cạnh đó, Nhà nước cần tạo điều kiện cho người dân tham
gia giám sát, theo dõi quá trình thực hiện nhiệm vụ ngân sách của các cấp, các ngành
bằng cách Nhà nước phải cung cấp những thông chính xác, đầy đủ và kịp thời cho
người dân biết qua các phương tiện truyền thông. Có sự phối hợp giám sát chặt chẽ
này sẽ góp phần thúc đẩy tính minh bạch và trách nhiệm của người sử dụng và quản

lý NSNN.

18


KẾT LUẬN
Cân đối ngân sách nhà nước là một trong các nội dung cơ bản nhất của nền tài
chính quốc gia và là điều kiện tiên quyết để đảm bảo sự ổn định lành mạnh cho nền
tài chính quốc gia. Để tiếp tục phát huy được vai trò là công cụ kinh tế sắc bén là
ngân sách nhà nước thì nhà nước phải không ngừng hoàn thiện và đổi mới nguyên tắc
cân đối trong hoạt động ngân sách với ý nghĩa giúp cho nhà nước kiểm soát tốt nền
kinh tế tài chính của đất nước.
Bài viết của em đã nêu và phân tích một số vấn đề về nguyên tắc cân đối trong
hoạt động ngân sách nhà nước theo Luật ngân sách và thực tế áp dụng nguyên tắc này
ở Việt Nam. Do phạm vi nhận thức còn hạn chế nên bài viết không thể tránh khỏi
những thiếu sót, em mong nhận được lời nhận xét từ thầy cô để bài viết được hoàn
thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn!

19


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Trường Đại học Luật Hà Nội – Giáo trình Luật Ngân sách Nhà nước. Nxb.
CAND 2010;
2. Cân đối ngân sách nhà nước – Thực trạng và hướng hoàn thiện -Người
thực hiện: Quách Hồng Thơ. Giáo viên hướng dẫn: Lê Huỳnh Phương Chinh www.tailieu.vn;
3. Cân đối ngân sách nhà nước - Đảm bảo ổn định nền tài chính quốc gia –
báo Nhân Dân;
4. Luật Ngân sách Nhà nước năm 2002;

5. Nghị định số 60/2003/NĐ - CP ngày 6/6/2003 quy định chi tiết và hướng dẫn
thi hành Luật Ngân sách Nhà nước năm 2002;
6. />
20



×