Tải bản đầy đủ (.doc) (17 trang)

bài học kỳ thương mại 1 8đ phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã theo pháp luật hiện hành

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (167.46 KB, 17 trang )

MỤC LỤC:
Trang
Mở đầu
Nội dung
I. Những vấn đề lý luận chung về phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã
theo pháp luật hiện hành
1. Cơ sở pháp lý

1

2. Mục tiêu và vai trò của pháp luật về phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã

1

3. Thủ tục giải quyết phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã

2

II. Thực hiện pháp luật về phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã dưới góc
độ thực tiễn.
1. Thành quả đạt được

4

2. Hạn chế còn tồn tại trong việc thực hiện pháp luật về phá sản doanh
nghiệp, hợp tác xã

7

3. Những bất cập của pháp luật về phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã


9

4. Hoàn thiện các quy định của pháp luật về phá sản doanh nghiệp, hợp
tác xã.

13

Kết luận


Bài Học Kỳ Thương Mại:

MỞ ĐẦU:
Như chúng ta đã biết, phá sản là một hiện tượng có từ lâu đời trên thế giới. Phá
sản đã trở thành một hiện tượng, một xu thế tất yếu của quá trình cạnh tranh, quá trình
đào tạo và chọn lọc tự nhiện. Nó loại bỏ các doanh nghiệp làm ăn kém hiệu quả. Như
vậy phá sản là một hiện tượng khách quan nó góp phần làm lành mạnh hoá thị trường,
thúc đẩy các doanh nghiệp kinh doanh có hiệu quả, từ đó góp phần vào đẩy nhanh và
sự tăng trưởng kinh tế của đất nước. Và ở Việt nam cũng như vậy. Nhằm góp phần hạn
chế đến mức tối đa hậu quả của phá sản, nhà nước đã có những biện pháp tích cực mà
điển hình là sự ra đời của bộ luật phá sản doanh nghiệp 1993, rồi sau đó là bộ luật phá
sản 2004 ( bổ sung và sửa đổi từ bộ luật phá sản doanh nghiệp 1993 ). Tuy vậy, thực
tiễn thực hiện pháp luật về phá sản, mà cụ thể là đối với doanh nghiệp và hợp tác xã
vẫn còn gặp nhiều khó khăn, đòi hỏi các nhà lập pháp cần tiếp tục hoàn thiện hơn nữa
luật doanh nghiệp 2005 ,nhằm phù hợp với thực tế xã hội đang vận động và phát triển
không ngừng.

NỘI DUNG:
I. Những vấn đề lý luận chung về phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã theo pháp
luật hiện hành

1. Cơ sở pháp lý
Pháp luật hiện hành điều chỉnh các vấn đề liên quan đến phá sản doanh nghiệp,
hợp tác xã dựa trên các cơ sở pháp lý sau:
* Luật phá sản năm 2004;

Sinh Viên: Phạm Văn Lượng; Mssv:361119

Lớp: N11_TL03

2


Bài Học Kỳ Thương Mại:
* Nghị định của Chính phủ số 67/2006/NĐ-CP ngày 11/7/2006 hướng dẫn áp dụng
Luật phá sản với doanh nghiệp đặc biệt và tổ chức hoạt động của tổ quản lý, thanh lí
tài sản;
* Nghị định của Chính phủ số 114/2008/NĐ-CP ngày 3/11/2008 hướng dẫn chi tiết thi
hành Luật phá sản đối với các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực bảo hiểm, chứng
khoán và tài chính khác;
* Nghị quyết của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao số 03/2005/NQ-HĐTP
ngày 28/4/2005 hướng dẫn thi hành một số quy định của Luật phá sản.
2. Mục tiêu và vai trò của pháp luật về phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã
Phá sản là một hiện tượng vẫn còn rất mới đối với nền kinh tế thị trường ở nước
ta, song tính chất của phá sản lại vô cùng phức tạp và thông thường để lại những hậu
quả rất nghiêm trọng cho xã hội. Chính vì vậy, các cơ quan có thẩm quyền cần hết sức
khéo léo cũng như linh động trong cách giải quyết. Và Luật phá sản là một công cụ rất
cần thiết cho quá trình giải quyết các vụ việc có liên qua đến phá sản. Tuy nhiên, do
Luật phá sản doanh nghiệp 1993 còn có nhiều điểm chưa hợp lí nên hiệu suất giải
quyết các vụ việc chưa cao. Do đó, cần có một bộ luật hoàn chỉnh hơn, và Luật phá sản
2004 đã ra đời.

Về cơ bản, Luật phá sản 2004 đã khắc phục nhiều hạn chế của Luật phá sản
doanh nghiệp 1993. Cụ thể Luật Phá sản 2004 đã có hướng đi rất đúng đắn, đó là
nghiêng về mục tiêu “hướng vào con nợ” trong đó quy định rõ hai thủ tục: thủ tục
thanh toán và thủ tục phục hồi với khả năng chuyển đổi từ phục hồi sang thanh toán.
Có thể nói Luật Phá sản 2004 có cấu trúc và mục tiêu tốt, theo khuôn mẫu của Luật
Phá sản hiện đại.
3. Thủ tục giải quyết phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã
Thông qua việc quy định trình tự, thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản
doanh nghiệp, Luật phá sản là công củ để bảo vệ quyền lợi cho chủ nợ, con nợ, người
lao động trong doanh nghiệp đồng thời góp phần đảm bảo trật tự, kỳ cương xã hội và

Sinh Viên: Phạm Văn Lượng; Mssv:361119

Lớp: N11_TL03

3


Bài Học Kỳ Thương Mại:
cơ cấu lại nền kinh tế. Theo đó, Điều 5 Luật Phá sản 2004 quy định thủ tục giải quyết
phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã bao gồm: “a) Nộp đơn yêu cầu và mở thủ tục phá
sản; b) Phục hồi hoạt động kinh doanh; c) Thanh lý tài sản, các khoản nợ; d) Tuyên bố
doanh nghiệp, hợp tác xã bị phá sản.”
* Nộp đơn yêu cầu và mở thủ tục phá sản
Nộp đơn yêu cầu
Khi một doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản thì người có nguy cơ bị ảnh
hưởng nhiều nhất là các chủ nợ. Bên cạnh đó người lao động cũng phải chịu nhiều rủi
ro ( không nhận được lương, mất việc làm…). Chính vì vậy, Luật phá sản đã quy định
cả hai chủ thể: chủ nợ và người lao động đều có quyền nộp đơn. Chủ thể có nghĩa vụ
nộp đơn là bản thân doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản trong thời hạn

ba tháng kể từ khi nhận thấy mình lâm vào tình trạng phá sản
Thụ lý đơn yêu cầu tuyên bố phá sản
Việc thụ lý đơn yêu cầu quy định tại hai điều 23 và điều 24 được coi là một hình
thức nhằm chính thức hóa trách nhiệm của Tòa án trong quá trình tiến hành giải quyết
vụ việc phá sản và buộc các chủ nợ vào một khuôn khổ chung trong quá trình đòi nợ;
bảo vệ và giúp doanh nghiệp tránh được các phương thức đòi nợ mang tính “côn đồ”,
“luật rừng” có thể có từ phía các chủ nợ. Từ đó, bảo đảm việc giải quyết phá sản được
tiến hành theo một quy trình thống nhất.
Điều kiện để Tòa án thụ lý đơn là nội dung đơn đã đầy đủ theo quy định; người
nộp đơn đã nộp đủ các tài liệu kèm theo, đã nộp tạm ứng lệ phí phá sản; và không
thuộc các trường hợp trả lại đơn. Thẩm quyền giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản
doanh nghiệp thuộc về Tòa án nhân dân cấp huyện và Tòa án nhân dân cấp tỉnh.
Hội nghị chủ nợ
Hội nghị chủ nợ là cơ quan quyền lực cao nhất của các chủ nợ do Tòa án triệu
tập và chủ trì. Hội nghị này được lập ra nhằm giúp cho các chủ nợ và doanh nghiệp có
cơ hội đàm phán với nhau để đi đến vấn đề thanh toán ổn thỏa bao gồm 2 trường hợp:

Sinh Viên: Phạm Văn Lượng; Mssv:361119

Lớp: N11_TL03

4


Bài Học Kỳ Thương Mại:
phục hồi nếu hội nghị chủ nợ lần thứ nhất thông qua nghị quyết đồng ý với giải pháp
tổ chức lại hoạt động kinh doanh hoặc thanh lý tài sản của doanh nghiệp nếu nghị
quyết của hội nghị chủ nợ không đồng ý cho doanh nghiệp cơ hội phục hội hoặc hội
nghị chủ nợ không thành thì Tòa sẽ quyết định mở thủ tục thanh lý tài sản.
* Phục hồi hoạt động kinh doanh

Mục tiêu hàng đầu của bất kỳ luật phá sản nào trên thế giới cũng là tạo điều kiện
để cứu giúp doanh nghiệp thoát khỏi tình trạng mất khả năng thanh toán nợ và chỉ đặt
vấn đề thanh lý (chấm dứt tồn tại) nếu thực sự không còn khả năng phục hồi. Chính vì
vậy, phá sản không chỉ bao gồm trình tự thu hồi tài sản và thanh toàn (phát mại tài sản)
mà thủ tục phá sản còn một khía cạnh khác đáng lưu ý: tạo cơ hội cho con nợ và chủ
nợ thỏa thuận tái tổ chức kinh doanh và lập một kế hoạch trả nợ phù hợp, được giám
sát thực hiện bởi Tòa án và tạo cơ hội cho các chủ nợ thu hồi được một phần hợp lý
các khoản nợ của mình đối với các doanh nghiệp thua lỗ.
* Thanh lý tài sản, các khoản nợ
Việc thanh lý tài sản hay phân chia giá trị tài sản của DN được tiến hành sau khi
đã giao phối, làm rõ giá trị tài sản phá sản của doanh nghiệp. Về nguyên tắc, phương
án phân chia tài sản do Hội nghi chủ nợ đề nghị, được Tòa án phê chuẩn và do chấp
hành viên phụ trách việc thi hành quyết định tuyên bố phá sản cùng với Tổ quản lý,
thanh lý tài sản thực hiện. Thủ tục này, ngoài ra cũng mang ý nghĩa nhất định đối với
nền kinh tế xã hội, bằng việc thanh lý tài sản, nền kinh tế được cơ cấu lại khi loại bỏ
những doanh nghiệp đã yếu kém, tạo điều kiện cho những doanh nghiệp mới phát triển
mạnh hơn.
* Tuyên bố doanh nghiệp, hợp tác xã bị phá sản
Điều 84 của Luật phá sản quy định thẩm phán ra quyết định tuyên bố doanh
nghiệp bị phá sản. Tòa án có trách nhiệm thông báo công khai quyết định tuyên bố phá
sản như đối với quyết định mở thủ tục phá sản và phải gửi quyết định tuyên bố phá sản

Sinh Viên: Phạm Văn Lượng; Mssv:361119

Lớp: N11_TL03

5


Bài Học Kỳ Thương Mại:

cho cơ quan đăng kí kinh doanh để xóa tên doanh nghiệp trong sổ đăng kí kinh doanh.
Đây được coi là bước cuối cùng, kết thúc thủ tục giải quyết phá sản doanh nghiệp.
Ngoài ra, thời điểm ra quyết định tuyên bố doanh nghiệp phá sản có ý nghĩa là căn cứ
để tính thời điểm bắt đầu cho thời hạn cấm đảm nhiệm chức vụ đối với chủ doanh
nghiệp tư nhân, thành viên hợp danh của công ty hợp danh, Giám đốc (Tổng giám
đốc), Chủ tịch và các thành viên Hội đồng quản trị, Hội đồng thành viên của doanh
nghiệp (Khoản 3 Điều 94 Luật phá sản 2004 ).
II. Thực hiện pháp luật về phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã dưới góc độ thực
tiễn.
1. Thành quả đạt được
Luật phá sản doanh nghiệp năm 1993 được xem như một công cụ trợ giúp cho
nền kinh tế đất nước đang trong giai đoạn làm quen với nền kinh tế thị trường đầy biến
động. Tuy nhiên, do còn tồn đọng nhiều hạn chế cũng như không hoàn toàn sát với
điều kiện thực tế hiện tại nên kể từ khi Luật này có hiệu lực từ 1/7/1994 có rất ít đơn
xin yêu cầu phá sản doanh nghiệp. Trong thời gian 9 năm thi hành Luật này, toàn
ngành Tòa án chỉ thụ lý có 151 đơn yêu cầu, trong đó Tòa án chỉ tuyên bố được 46
doanh nghiệp phá sản. Một yêu cầu cấp thiết được đặt ra là phải nhanh chóng sửa đổi
và bổ sung những thiếu sót của luật phá sản doanh nghiệp 1993. Và luật phá sản 2004
đã ra đời. việc Quốc hội khóa XI, kỳ họp thứ 5 thông qua Luật Phá sản năm 2004
mang một ý nghĩa hết sức to lớn. Kể từ khi có hiệu lực (ngày 15/10/2004) Luật Phá
sản 2004 có thể nói đã đạt được những thành quả nhất định. Thể hiện rõ nhất ở việc số
lượng các vụ việc giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp đều tăng hằng
năm. Năm 2005 các Tòa án tỉnh thụ lý 11 vụ, năm 2006 thụ lý 40 vụ…Để làm được
điều này, so với Luật PSDN 1993, Luật Phá sản 2004 đã có nhiều bổ sung và thay đổi
phù hợp. Cụ thể:
Đầu tiên, phải kể đến Luật phá sản 2004 đã có cái nhìn đúng đắn về khái niệm
phá sản hay khái niệm doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản. Đây là khái niệm cực

Sinh Viên: Phạm Văn Lượng; Mssv:361119


Lớp: N11_TL03

6


Bài Học Kỳ Thương Mại:
kỳ quan trọng của pháp luật phá sản.. Tùy thuộc vào định nghĩa này trong pháp luật
phá sản của mỗi quốc gia mà sự can thiệp của Nhà nước vào hiện tượng phá sản sớm
hay muộn, lập trường của Nhà nước nghiêng về bảo vệ lợi ích của ai nhiều hơn: chủ nợ
hay con nợ. Từ đó đã thể hiện các nhà lập pháp đang đi theo đúng xu hướng chung của
toàn cầu. Bên cạnh đó, Luật phá sản 2004 còn ghi nhận nhiều quy định, thông qua đó
đã giúp các bên có liên quan sớm đưa doanh nghiệp mắc nợ ra Tòa, khắc phục tình
trạng đã tồn tại nhiều năm trước đây là có nhiều DN, về mặt thực tế thì đã “chết”
nhưng về mặt pháp lý thì vẫn “sống”. Theo đó, Điều 3 của Luật này quy định doanh
nghiệp bị coi là đã lâm vào tình trạng phá sản khi “không có khả năng thanh toán được
khoản nợ đến hạn khi chủ nợ có yêu cầu” đây được coi là tiêu chí đã đi được vào bản
chất của hiện tượng, đơn giản và hợp lý hơn vì đã không căn cứ vào thời gian thua lỗ,
nguyên nhân của tình trạng thua lỗ… Ngoài ra, quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá
sản được mở rộng thêm cho một số đối tượng. So với Luật PSDN 1993 thì ngoài chủ
nợ không có bảo đảm, con nợ và người lao động; Luật phá sản 2004 đã mở rộng quyền
nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản cho một số đối tượng khác là chủ sở hữu doanh
nghiệp nhà nước, cổ động của công ty cổ phần, thành viên hợp danh của công ty hợp
danh.
Tiếp theo, Luật phá sản 2004 khẳng định thủ tục phá sản là một thủ tục tư pháp
đặc biệt. Qua đó phân biệt rõ phá sản với các thủ tục pháp lí bình thường khác. Đồng
thời khẳng định tầm quan trọng của thủ tục phá sản, bởi nhiều khi các cơ quan có thẩm
quyền giải quyết không khéo dễ dẫn đến việc nảy sinh thêm những rắc rối. Và đây là
bước phát triển về lý luận của pháp luật phá sản nước ta. Không chỉ dừng lại ở đó,
Luật Phá sản 2004 cũng đã đa dạng hóa cá thủ tục của tố tụng phá sản, qua đó giúp
Tòa án có thể chấm dứt sớm sự tồn tại của doanh nghiệp mắc nợ nếu việc phục hồi nó

là điều không thể thực hiện được. Ngoài việc Điều 5 Luật này đã quy định nhiều loại
thủ tục khác nhau; đối với những DN không có khả năng phục hồi, Tòa án sẽ áp dụng
ngay thủ tục thanh lý tài sản (Điều 78), thậm chí, nếu xác định tài sản còn lại của

Sinh Viên: Phạm Văn Lượng; Mssv:361119

Lớp: N11_TL03

7


Bài Học Kỳ Thương Mại:
doanh nghiệp không đủ để thanh toán chi phí phá sản thì Tòa án có thể tuyên bố phá
sản ngay (Điều 87)…
Một điểm tiến bộ quan trọng nữa, đó là Luật phá sản 2004 bảo vệ lợi ích của
các chủ nợ triệt để hơn. Qua đó giúp họ dễ dàng hơn trong việc thu hồi vốn nhằm tái
thiết cho các hoạt động đầu tư khác. Không chỉ vậy, Luật phá sản năm 2004 còn tạo
điều kiện thuận lợi hơn để các doanh nghiệp phục hồi năng lực tài chính, trở lại hoạt
động sản xuất, kinh doanh bình thường. Cụ thể, luật mở rộng khả năng tham gia vào
phục hồi DN cho các đối tượng khác ngoài DN mắc nợ. Theo khoản 2 Điều 68, chủ nợ
hoặc bất kỳ người nào nhận nghĩa vụ phục hồi hoạt động kinh doanh của DN đều có
quyền xây dựng phương án phục hồi hoạt động kinh doanh… Ngoài ra, khác với Luật
PSDN cũ, Luật Phá sản 2004 đồng thời cũng quy định rõ các biện pháp cần phải thực
hiện để phục hồi hoạt động kinh doanh của DN như: thay đổi mặt hàng sản xuất, kinh
doanh; huy động nguồn vốn mới; đổi mới công nghệ; tổ chức lại bộ máy quản lý; sáp
nhập hoặc chia, tách bộ phận sản xuất nhằm nâng cao năng suất; bán lại cổ phần cho
chủ nợ;… (khoản 2 Điều 69)
2. Hạn chế còn tồn tại trong việc thực hiện pháp luật về phá sản doanh nghiệp, hợp
tác xã.
Theo báo cáo xếp hạng môi trường kinh doanh năm 2011 do Tập đoàn Tài chính

Quốc tế IFC và Ngân hàng Thế giới WB công bố, VN được xếp ở vị trí 78/183 nước
về mức độ thuận lợi kinh doanh. Trong đó, ở tiêu chí thứ 10, giải thể DN, báo cáo cho
rằng việc giải quyết các trường hợp phá sản DN ở VN còn kém hiệu quả, xếp hạng
124/183. Thủ tục phá sản phải mất ít nhất 5 năm, tốn kém đến 15% giá trị tài sản của
DN. Đối với những DN vỡ nợ thì các bên liên quan chỉ thu hồi được 18% giá trị tài
sản. Vì thế, rất ít DN tuân theo các quy định và thủ tục chính thức khi muốn đóng cửa
hoạt động.
Thông qua những số liệu đó, có thể thấy rằng, thực tiễn thực hiện pháp luật về
phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã ở nước ta hiện nay vẫn còn gặp nhiều khó khăn,

Sinh Viên: Phạm Văn Lượng; Mssv:361119

Lớp: N11_TL03

8


Bài Học Kỳ Thương Mại:
vướng mắc, từ đó dẫn tới chưa đạt được hiệu quả cao. Để có thể lí giải cho điều này,
trước hết phải xuất phát từ phía các doanh nghiệp, hợp tác xã với tư cách là con nợ và
từ bản thân các chủ nợ, sau đó cũng cần phải đề cập đến việc bản thân pháp luật về phá
sản ở nước ta vẫn còn tồn tại nhiều hạn chế gây khó khăn cho quá trình áp dụng.
Ngày nay, trong nền kinh tế thị trường đầy biến động và luôn thay đổi theo tình
hình thế giới, để có thể tồn tại được thì các doanh nghiệp cần có những chiến lược cụ
thể nhằm sẵn sàng đối phó với mọi tình huống có thể xảy ra. Tuy nhiên, phần lớn các
doanh nghiệp nước ta lại không có những sự chuẩn bị chu đáo như vậy. Với lối làm
ăn , kinh doanh theo kiểu “chụp giựt”, thiếu tầm nhìn cùng những cách thức kinh
doanh thiếu lành mạnh, bất hợp pháp thường dẫn đến một kết cục chung. Đó là các
doanh nghiệp này không thể trụ vững lâu, và đi đến phá sản. Chính vì lẽ đó, khi các
doanh nghiệp này phá sản, Tòa án gặp rất nhiều khó khăn trong việc giải quyết các

khoản nợ có bảo đảm cho ngân hàng bởi các khoản nợ này chỉ được bảo đảm bằng tài
sản ảo.
Bên cạnh đó, không thể không nhắc đến khả năng tài chính của các doanh
nghiệp Việt Nam. Phần lớn các doanh nghiệp đều có nền tài chính hạn chế , ngay đối
với các doanh nghiệp làm ăn đứng đăn nhất, có nghĩa là cá khoản vay huy động vốn đã
được bảo đảm bằng tài sản có thật của doanh nghiệp thì cũng chỉ mới bảo đảm được
khoản nợ “cứng”. Còn đối với các khoản nợ khác như tiền công, tiền lương, các khoản
trợ cấp chế độ cho người lao động, các khoản nợ thuế… thì hầu như bị bỏ quên. Vì lẽ
đó, khi kiểm kê lại có thể thấy tổng giá trị nợ của doanh nghiệp thường rất lớn, và
không thể giải quyết ngay được. Thực tế cũng đã chứng minh rằng, hầu hết các vụ việc
khi giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản, tổng số nợ khi khóa sổ danh sách chủ nợ thì
giá trị nợ thường gấp nhiều lần giá trị tài sản còn lại của doanh nghiệp. Chẳng hạn vụ
phá sản của Công ty vật tư dịch vụ kỹ thuật nông nghiệp Trà Vinh, tổng số nợ của
doanh nghiệp trên 5,5 tỷ đồng nhưng toàn bộ tiền mặt chỉ còn 113 triệu đồng và số tài

Sinh Viên: Phạm Văn Lượng; Mssv:361119

Lớp: N11_TL03

9


Bài Học Kỳ Thương Mại:
sản ước tính 1,5 tỷ đồng. Hậu quả tất yếu là chủ nợ hoặc sẽ mất trắng hoặc chỉ được
thanh toán một phần rất nhỏ khoản nợ của mình.
Từ phía các chủ nợ, một trong những lý do khác khiến cho số doanh nghiệp tiến
hành thủ tục phá sản còn quá ít so với thực tế là bản thân các chủ nợ không muốn khai
tử con nợ của mình. Để hạn chế tình trạng này, cần phải làm cho cộng đồng doanh
nghiệp cũng như xã hội coi việc phá sản là hiện tượng bình thường. Chỉ vậy, các bên
liên quan tới việc phá sản doanh nghiệp mới tìm được đồng thuận để giải quyết êm

thấm các vướng mắc về quyền lợi, nghĩa vụ, để bắt đầu một hoạt động mới.
3. Những bất cập của pháp luật về phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã
Đã đi vào thực hiện được hơn 7 năm, tuy nhiên cho đến nay việc “sinh dễ, tử
khó” của doanh nghiệp vẫn đang diễn ra. Vẫn biết luật phá sản 2004 ra đời nhằm giải
quyết mối quan hệ nợ nần trong hoàn cảnh đặc biệt: khi doanh nghiệp lâm vào tình
trạng khánh kiệt tài chính không thể phục hồi. Nhưng khi đi vào thực tiễn muôn màu
muôn vẻ và luôn biến đổi thì việc luật phá sản 2004 phát sinh nhiều điểm chưa hợp lí
là điều dễ hiểu. Chính vì vậy nên luật này được xếp vào loại ít được sử dụng nhất, với
khoảng 10 vụ việc được áp dụng mỗi năm mà theo đánh giá của Bộ Kế hoạch và Đầu
tư, ảnh hưởng nghiêm trọng đến môi trường kinh doanh. Cụ thể điều này được thể hiện
ở những khía cạnh sau:
* Về phạm vi, đối tượng áp dụng
Luật phá sản năm 2004 áp dụng đối với doanh nghiệp, hợp tác xã, liên hiệp hợp
tác xã được thành lập và hoạt động theo quy định của pháp luật; đối với các doanh
nghiệp đặc biệt trực tiếp phục vụ quốc phòng, an ninh; doanh nghiệp, hợp tác xã hoạt
động trong lĩnh vực tài chính, ngân hàng, bảo hiểm và trong các lĩnh vực thường
xuyên, trực tiếp cung ứng sản phẩm, dịch vụ công ích thiết yếu do Chính phủ sẽ quy
định cụ thể danh mục và áp dụng.(1) Như vậy, theo quy định này, chỉ có những cơ sở,
sản xuất kinh doanh nào được pháp luật quy định là doanh nghiệp hoặc hợp tác xã mới

Sinh Viên: Phạm Văn Lượng; Mssv:361119

Lớp: N11_TL03 10


Bài Học Kỳ Thương Mại:
thuộc đối tượng áp dụng trong Luật phá sản năm 2004. Quy định này có những điểm
chưa phù hợp và thiếu tính khoa học.
Bởi lẽ dù tồn tại dưới hình thức pháp lí là doanh nghiệp hay không phải là doanh
nghiệp nhưng nếu đã là nhà kinh doanh thì đều phải tham gia hoạt động với mong

muốn tìm kiếm được lợi nhuận trong khuôn khổ mà pháp luật không cấm. Vì vậy, dù
phương diện nào thì họ cũng muốn được Nhà nước phải có những thể chế hỗ trợ, bảo
hộ nhằm duy trì và phát triển. Do đó, đều là người kinh doanh nhưng khi lâm vào tình
trạng phá sản thì đối tượng không được gọi là doanh nghiệp sẽ không được áp dụng
các thủ tục pháp lí được quy định trong Luật phá sản. Điều này không những ảnh
hưởng tới lợi ích của bản thân các doanh nghiệp này mà lợi ích chính đáng của các chủ
nợ và nhà đầu tư sẽ không được đảm bảo, bởi điều dễ nhận thấy là trong trường hợp cá
nhân bị phá sản thì bản thân chủ nợ cũng không biết dựa vào thủ tục hay quy chế nào
thực hiện quyền đòi nợ của mình với con nợ và đồng nghĩa nó có thể kéo theo nhiều hệ
luỵ khôn lường cho xã hội.
Ngoài ra, theo một quan chức Vụ Tài chính đối ngoại, Bộ Tài chính, phá sản
không phải là vấn đề của riêng doanh nghiệp trong nước. Có gì đảm bảo rằng trong số
các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài ở Việt Nam hiện nay, không có doanh
nghiệp nào chuẩn bị rơi vào tình trạng phá sản. Do vậy, nếu không có hướng dẫn về
phá sản với đối tượng này thì khi giải quyết các trường hợp cụ thể sẽ khó khăn, tạo dư
luận không tốt từ phía các nhà đầu tư.
* Về tiêu chí xác định tình trạng phá sản
Điều 3 Luật Phá sản 2004 quy định khi con nợ “không có khả năng thanh toàn
được các khoản nợ đến hạn” là lâm vào tình trạng phá sản. Quy định này có tiến bộ
hơn so với Luật phá sản doanh nghiệp năm 1993. Tuy nhiên, một vấn đề cần phải xem
xét đó là tiêu chí “vỡ nợ” có là như nhau trong trường hợp con nợ nộp đơn và chủ nợ
nộp đơn hay không? Luật Phá sản 2004 hiện quy định tiêu chí này là như nhau trong
cả trường hợp con nợ nộp đơn và chủ nợ nộp đơn. Nhưng trong trường hợp con nợ nộp

Sinh Viên: Phạm Văn Lượng; Mssv:361119

Lớp: N11_TL03 11


Bài Học Kỳ Thương Mại:

đơn, khi đã “không có khả năng thanh toán” thì có nghĩa con nợ đã rơi và tình trạng tồi
tệ nhất, đã kiệt quệ và sẽ là quá muộn cho việc bắt đầu một thủ tục phục hồi.
Ngoài ra, Điều 3 Luật phá sản cũng không quy định rõ số nợ và thời gian quá
hạn không thực hiện nghĩa vụ thanh toán của con nợ. Vì vậy về hình thức, con nợ chỉ
cần mắc nợ số tiền là 1.000 đồng và quá hạn thanh toán 1 ngày sau khi chủ nợ có đơn
yêu cầu đòi nợ cũng có thể bị xem là lâm vào tình trạng phá sản. Điều này có thể dẫn
đến sự lạm dụng quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản từ phía các chủ nợ.
* Về các loại chủ nợ và quyền của chủ nợ có bảo đảm
Thứ nhất, về loại chủ nợ, ngoài chủ nợ có bảo đảm, chủ nợ không có bảo đảm,
chủ nợ có bảo đảm một phần, còn một loại chủ nợ nữa mà Luật Phá sản 2004 không đề
cập đến mặc dù sự hiện diện của loại chủ nợ này trong thủ tục phá sản là hoàn toàn
hiện thực và chủ nợ này có quyền đặc trưng của mình. Đó là chủ nợ mới – chủ nợ xuất
hiện trên cơ sở các hoạt động kinh doanh của DN sau khi có quyết định mở thủ tục phá
sản. Luật đề cập đến các khoản nợ mới (Điều 31) nhưng Luật lại không nói về chủ nợ
mới. Luật thừa nhận sau khi có quyết định mở thủ tục phá sản mọi hoạt động kinh
doanh của DN vẫn tiến hành bình thường nhưng phải chịu giám sát, kiểm tra của Thẩm
phán, Tổ quản lý tài sản (Điều 30). Điều này có nghĩa là DN có thể giao kết hợp đồng
mới – xuất hiện những chủ nợ mới, các khoản nợ mới. Đây cũng là điểm không chặt
chẽ của Luật 2004.
Thứ hai, đối với chủ nợ có bảo đảm, Luật PSDN 1993 và Luật Phá sản 2004
đều không quy định họ có quyền nộp đơn khởi kiện. Chúng ta có thể thấy việc quy
định chủ nợ có bảo đảm không được quyền khởi kiện là một quy định truyền thống của
các hệ thống Luật Phá sản. Lý lẽ của vấn đề này là ở chỗ các chủ nợ có bảo đảm đã
được bảo đảm quyền lợi bằng các tài sản bảo đảm. Vì vậy, chủ nợ có bảo đảm thường
chỉ được xác định về quyền tham gia vào thủ tục phá sản. Tuy nhiên, điều đáng nói ở
đây đó là theo Luật Phá sản 2004, dường như các chủ nợ có bảo đảm đã bị loại khỏi
thủ tục tố tụng phá sản, mặc dù Điều 49 của Luật này quy định tài sản bảo đảm cũng

Sinh Viên: Phạm Văn Lượng; Mssv:361119


Lớp: N11_TL03 12


Bài Học Kỳ Thương Mại:
thuộc khối tài sản phá sản. Trong toàn bộ các quy định của luật không có quy định nào
bảo đảm quyền lợi của họ và đặc biệt trong thủ tục phục hồi không có quy định nào về
vai trò của họ.
Mặc dù Điều 35 Luật Phá sản 2004 có quy định về trường hợp giá trị tài sản thế
chấp hoặc cầm cố không đủ thanh toán số nợ thì phần nợ còn lại sẽ được thanh toán
trong quá trình thanh lý tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã. Tuy nhiên, Điều 37 luật
này quy định về thứ tự phân chia tài sản lại không hề đề cập đến chủ nợ có bảo đảm
trong trường hợp giá trị tài sản thế chấp, cầm cố không đủ thanh toán số nợ.
Thêm vào đó, ngay từ khi có quyết định thụ lý đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản
thì quyền được thanh toán nợ đến hạn của chủ nợ có đảm bảo đã bị hạn chế, bị tạm
đình chỉ cho đến khi có quyết định thanh lý tài sản (điều 27, điều 35), trừ khi trường
hợp được tòa án cho phép. Trong khi đó các chủ nợ không có đảm bảo vẫn có thể được
thanh toán các khoản nợ đến hạn của mình sau khi có quyết định thụ lý đơn yêu cầu
mở thủ tục phá sản. Việc thanh toán các khoản nợ không có đảm bảo chỉ bị cấm sau
khi có quyết định mở thủ tục phá sản (điều 31).
Đây có thể nói là một thiếu xót của Luật Phá sản 2004 bởi lẽ nếu quyền lợi của
chủ nợ có bảo đảm không được quan tâm thỏa đáng trong thủ tục phá sản thì sẽ rất
nguy hại đến hệ thống tín dụng bảo đảm. Một khi quyền lợi của chủ nợ có bản đảm
được đặt sau phí phá sản và chi phí cho các chủ nợ đặc quyền (như lương người lao
động, trợ cấp thôi việc, trợ cấp tàn tật cho lao động, bảo hiểu xã hội), sẽ dẫn đến chủ
nợ có bảo đảm sẽ không thể tính trước được quyền lợi của mình sẽ có giá trị bao nhiêu
trong trường hợp con nợ phá sản. Do đó, ưu thế của tín dụng có bảo đảm, đó là sự an
toàn sẽ bị mất đi.
* Về tài sản phá sản
Điều 49 Luật phá sản năm 2004 quy định tài sản phá sản của doanh nghiệp, hợp
tác xã lâm vào tình trạng phá sản bao gồm: “a) Tài sản và quyền về tài sản mà doanh

nghiệp, hợp tác xã có tại thời điểm toà thụ lí đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản; b) Các

Sinh Viên: Phạm Văn Lượng; Mssv:361119

Lớp: N11_TL03 13


Bài Học Kỳ Thương Mại:
khoản lợi nhuận, các tài sản và các quyền về tài sản mà doanh nghiệp, hợp tác xã sẽ
có do việc thực hiện các gia dịch được xác lập trước khi toà án thụ lí đơn yêu cầu mở
thủ tục phá sản; c) Tài sản là vật bảo đảm thực hiện nghĩa vụ của doanh nghiệp, hợp
tác xã. Trường hợp thanh toán tài sản là vật bảo đảm được trả cho các chủ nợ có bảo
đảm, nếu giá trị của vật bảo đảm vượt quá khoản nợ có bảo đảm phải thanh toán thì
phần vượt quá đó là tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã; d) Giá trị quyền sử dụng
đất của doanh nghiệp, hợp tác xã được xác định theo quy định củ pháp luật về đất
đai”.
Tài sản phá sản được quy định tại Điều 49 chưa phản ánh hết các loại tài sản của
doanh nghiệp, hợp tác xã phá sản, vì tài sản phá sản còn bao gồm cả những tài sản
thông qua việc thực hiện các giao dịch trong khoảng thời gian ba tháng trước ngày toà
án thụ lí đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản bị coi là vô hiệu như tặng cho động sản và bất
động sản cho người khác; thanh toán các khoản nợ chưa đến hạn, các giao dịch nhằm
mục đích tẩu tán tài sản. Như vậy, những tài sản thu hồi được từ các giao dịch vô hiệu
phải nhập vào khối tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã hoặc tài sản và quyền tài sản
do được thừa kế, hoặc tài sản và quyền tài sản thu được từ các giao dịch không công
bằng của doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản để xác định chính xác
khối tài sản phá sản của con nợ.
Nếu xác định tài sản phá sản chỉ có tại thời điểm thụ lí đơn yêu cầu mở thủ tục
phá sản là không hợp lí, bởi vì như đã phân tích ở phần trên thì trong trường hợp, thẩm
phán ra quyết định công nhận nghị quyết của hội nghị chủ nợ về áp dụng phương án
phục hồi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp sẽ đồng nghĩa với việc doanh nghiệp

được thực hiện các giao dịch với các chủ thể khác nhằm thực hiện hiệu quả phương án
kinh doanh dưới sự giám sát của tổ quản lí, thanh lí tài sản. Theo đó, thông qua việc
thực hiện các hợp đồng hiệu quả thì khối tài sản của doanh nghiệp sẽ được bổ sung.
Như vậy, khối tài sản của doanh nghiệp không chỉ đơn thuần được xác định tại thời
điểm toà án thụ lí đơn.

Sinh Viên: Phạm Văn Lượng; Mssv:361119

Lớp: N11_TL03 14


Bài Học Kỳ Thương Mại:
4. Hoàn thiện các quy định của pháp luật về phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã.
* Về phạm vi, đối tượng áp dụng
Nhìn chung các đạo luật của các quốc gia trên thế giới thường không phân biệt
đối tượng thương nhân là pháp nhân hay thương nhân là cá nhân, thậm chí luật phá sản
của những quốc gia này cũng áp dụng cho trường hợp mà con nợ không phải là thương
nhân. Điều đó cũng có nghĩa trong xu hướng phát triển, các đạo luật về phá sản sẽ mở
rộng phạm vi áp dụng cho người kinh doanh và những người tiêu dùng.
Ở nước ta hiện nay, lý do không đưa những đối tượng kinh doanh khác không
phải là doanh nghiệp là đối tượng của Luật Phá sản là do: “nếu mở rộng các đối tượng
thuộc phạm vi áp dụng của luật này thì với trách nhiệm của ngành Tòa án và với số
lượng, năng lực đội ngũ cán bộ hiện nay thì khó tránh khỏi sự quá tải”. Tuy nhiên, có thể
thấy đây chỉ là một lý do tạm thời. Trong tương lai, cần mở rộng đối tượng của Luật Phá
sản theo những nguyên tắc của Luật phá sản hiện đại trên thế giới, đáp ứng nhu cầu thực
tiễn của hoạt động kinh doanh ở nước ta. Ngoài ra, trước yêu cầu hội nhập kinh tế quốc
tế, các đạo luật của Việt Nam, trong đó có Luật phá sản đều phải đáp ứng nguyên tắc
quan trọng được áp dụng cho pháp luật là minh bạch hoá pháp luật. Do đó, không nên
và không thể phải xây dựng thêm một đạo luật, hoặc chí ít một văn bản dưới luật để áp
dụng phá sản cho hộ kinh doanh bên cạnh Luật phá sản năm 2004.

* Về tiêu chí xác định tình trạng phá sản
Với cấu trúc của luật là kết hợp cả thủ tục phục hồi và thủ tục thành toán; đặc
biệt là với việc xác định mục tiêu của Luật Phá sản là tạo ra những giải pháp tốt để tổ
chức lại hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, chúng ta nên quy định tiêu chí khởi
kiện trong trường hợp con nợ nhận thấy “trong tương lai sẽ không có khả năng thanh
toán nợ”.
Kinh nghiệm một số nước khi xây dựng khái niệm phá sản theo trường phái
định lượng thì thường có quy định về số nợ cụ thể, về thời hạn trễ thanh toán nợ từ
phía con nợ sau khi chủ nợ có yêu cầu đòi nợ. Ví dụ theo Luật công ty của Úc chủ nợ

Sinh Viên: Phạm Văn Lượng; Mssv:361119

Lớp: N11_TL03 15


Bài Học Kỳ Thương Mại:
có thể yêu cầu tòa án ra quyết định bắt đầu thủ tục thanh toán tài sản của một công ty
vì lý do vỡ nợ nếu công ty đó có một khoản nợ đến hạn ít nhất là 2.000 đô la Úc và
công ty không chứng minh được khả năng trả khoản nợ đến hạn đó.
* Về các loại chủ nợ và quyền lợi của chủ nợ có bảo đảm
Về lý thuyết, chủ nợ mới – khác với các chủ nợ cũ (những chủ nợ xuất hiện trên
cơ sở các hợp đồng giao kết trước khi có quyết định mở thủ tục phá sản) luôn có quyền
được ưu tiên thanh toán trong mọi trường hợp. Chỉ có như vậy các quy định của Luật
về thủ tục phục hồi hoạt động kinh doanh của DN mới có tính khả thi. Bởi lẽ nếu
không có sự bảo đảm của Luật về quyền ưu tiên thanh toán thì không một chủ nợ nào
lại giao kết hợp đồng với một con nợ đã có quyết định mở thủ tục phá sản và mọi cố
gắng phục hồi hoạt động kinh doanh của DN lâm vào tình trạng khánh kiệt tài chính
chỉ là mong muốn không có tính khả thi. Do đó, quyền ưu tiên thanh toán của chủ nợ
mới cần được thừa nhận trong cả thủ tục thanh lý tài sản. Luật cần quy định khả năng
bổ sung danh sách chủ nợ trong trường hợp cần thiết.

Về chủ nợ có bảo đảm, cần khẳng định, các chủ nợ có bản đảm cần được tham
gia vào thủ tục tố tụng phá sản sau khi thủ tục phá sản đã được bắt đầu. Vì vậy, Luật
phá sản nên được sửa đổi theo hướng:
Thứ nhất, các chủ nợ có bảo đảm là các chủ nợ trong tố tụng phá sản;
Thứ hai, tài sản bảo đảm (bao gồm vật cầm cố) là một bộ phận trong khối tài sản phá
sản;
Thứ ba, Các chủ nợ có bảo đảm được quyền bỏ phiếu như một trong các loại chủ nợ
đối với kế hoạch phục hồi con nợ và quyền của họ có thể bị ảnh hưởng bởi kế hoạch
đó. Bên cạnh đó trong thủ tục thanh lý, quyền lợi của chủ nợ có bảo đảm (trong trường
hợp giá trị tài sản bảo đảm không đủ thanh toán khoản nợ) phải được quy định trong
thứ tự phân chia tài sản.

Sinh Viên: Phạm Văn Lượng; Mssv:361119

Lớp: N11_TL03 16


Bài Học Kỳ Thương Mại:

KẾT LUẬN:
Tóm lại, để Luật phá sản thực sự có tính khả thi thì và phát huy hết hiệu quả cần
phải đơn giản hóa, rút ngắn thời gian xử lý một vụ phá sản và nâng cao giá trị thu hồi
thực tế. Bên cạnh đó cần tiếp tục có những bổ sung, sửa đổi kịp thời nhằm phù hợp với
thực tế. Để làm được việc này cần phải tiếp tục cải cách hành chính, bổ sung các
hướng dẫn cần thiết, cũng như cần có cái nhìn sát hơn với thực tiễn như vậy. Có như
vậy mới tăng cường tính thực thi của Luật phá sản, từ đó giải quyết triệt để các vụ việc
phá sản, tạo sự công bằng cho các bên, tiến tới một môi trường kinh doanh bình đẳng,
góp phần phát triển đất nước, tiến tới xã hội công bằng, dân chủ văn minh.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


1. Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình luật thương mại (tập1), Nxb. CAND,
Hà Nội, 2006.
2.Luật phá sản năm 2004.
3.. Luật doanh nghiệp năm 2005.
4.Nguyễn Phụng Dương; Người hướng dẫn: TS. Nguyễn Thị Dung, “Thủ tục phá
sản doanh nghiệp theo quy định của pháp luật Việt Nam” Khoá luận tốt nghiệp, Hà
Nội, 2010
5.Nông Thị Nguyệt; Người hướng dẫn: ThS. Lê Thị Lợi, “Những quy định của
pháp luật hiện hành về thủ tục phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã” Khoá luận tốt
nghiệp Hà Nội, 2010
Sinh Viên: Phạm Văn Lượng; Mssv:361119

Lớp: N11_TL03 17


Bài Học Kỳ Thương Mại:

Sinh Viên: Phạm Văn Lượng; Mssv:361119

Lớp: N11_TL03 18



×