Tải bản đầy đủ (.doc) (15 trang)

bài tập học kỳ luật tố tụng dân sư 8d đề tài nhận xét, đánh giá về thủ tục tiến hành phiên tòa sơ thẩm

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (121.63 KB, 15 trang )

LỜI NÓI ĐẦU
Luật tố tụng dân sự (TTDS) là ngành luật quy định thủ tục giải quyết vụ án dân
sự ( VADS) gồm: thủ tục khởi kiện và thụ lý vụ án, thủ tục chuẩn bị xét xử, thủ tục hòa
giải, thủ tục phiên tòa sơ thẩm (PTST), thủ tục phúc thẩm, thủ tục tái thẩm và giám đốc
thẩm.
Cùng với sự phát triển của hệ thống pháp luật Việt Nam, luật tố tụng dân sự đã có
quá trình phát triển từ năm 1945 sau khi Nhà nước Việt Nam dân chủ Cộng hòa được
thành lập. Đặc biệt, ba pháp lệnh: Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự
(PLTTGQCVADS) 1989, Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế
(PLTGQCVAKT) 1994, Pháp lệnh thủ tục giải quyết các tranh chấp lao động
(PLTTGQCTCLĐ) 1996 là những cơ sở pháp lý để Tòa án tiến hành thủ tục giải quyết
các VADS, VAKT, các TCLĐ. Tuy nhiên các Pháp lệnh này mới chỉ dừng lại ở việc quy
định những nguyên tắc, thủ tục cơ bản mà còn thiếu nhiều những quy định cụ thể phát
sinh trong thủ tục giải quyết. Trong quá trình áp dụng, nhiều quy định trong các pháp
lệnh này không còn phù hợp hoặc thiếu đồng bộ so với những VBPL hiện hành như Bộ
luật dân sự, Bộ luật lao động.
Do đó ta khẳng định rằng BLTTDS 2004 là kết quả của sự pháp điển hóa quan
trọng các quy định của pháp luật TTDS, trong đó có những quy định về PTSTDS. Các
quy định về PTSTDS đã khắc phục được nhiều điểm bất cập , chưa khả thi của
PLTTGQCVADS; PLTTGQCVAKT, PLTTGQTCLĐ, đồng thời thể hiện việc đổi mới
trong hoạt động xét xử của Tòa án.
PTDSST là trung tâm của thủ tục TTDS nên PTSTDS luôn được sự quan tâm của
các nhà nghiên cứu pháp luật trong và ngoài nước.
Vì vậy, em đã chọn đề bài “ Nhận xét, đánh giá về thủ tục tiến hành phiên tòa sơ
thẩm” làm bài tập học kỳ của mình để qua đó giúp chúng ta tìm hiểu sâu hơn về thủ tục
tố tụng này trong quy định của pháp luật và trong thực tễn áp dụng; đồng thời đưa ra
những đề xuất nhỏ góp phần hoàn thiện pháp luật quy định về vấn đề về thủ tục tiến
hành phiên tòa sơ thẩm.
Do thời gian có hạn cũng như năng lực nghiên cứu, đánh giá còn nhiều hạn chế
cùng với thời gian có hạn nên bài tập của em chắc chắn sẽ không tránh khỏi những
thiếu sót nhất định. Em rất mong nhận được sự góp ý của thầy cô giáo để bài tập của em


có thể hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn

1


I. Những vấn đề lý luận về phiên tòa sơ thẩm vụ án dân sự:
1. Khái niệm:
Sau khi hòa giải không thành hoặc đối với những VADS pháp luật quy định
không được hòa giải hoặc không tiến hành hòa giải được, Tòa án phải tiến hành xét xử
VADS. Phiên xét xử này gọi là PTST VADS.
Do vậy, PTSTVADS là phiên xét xử VADS lần đầu của Tòa án.
2. Ý nghĩa: PTST là phiên xử lần đầu nhưng có ý nghĩa rất quan trọng đối với việc giải
quyết VADS.
Xem xét một cách tổng thể, đối với toàn bộ quá trình giải quyết vụ việc dân sự
thì PTSTDS đóng vai trò trung tâm, tác động, chi phối tới các hoạt động tố tụng trước
và sau nó. Tại PTST Tòa án sẽ quyết định giải quyết các vấn đề của vụ án, xác định
quyền và nghĩa vụ của các đương sự làm cơ sở cho việc thi hành án. Sau khi Tòa án tiến
hành PTST việc giải quyết VADS kết thúc, trừ trường hợp có kháng cáo, kháng nghị.
PTST cũng là nơi Tòa án thực hiện việc giáo dục pháp luật. Thông qua hoạt động
xét xử của Tòa án, những người tham dự phiên tòa biết rõ hơn các quy định của pháp
luật được Tòa án áp dụng giải quyết vụ án, từ đó nâng cao được ý thức pháp luật của
họ.
Hoạt động xét xử của Tòa án tại PTST là để thực hiện chức năng, nhiệm vụ của
cơ quan xét xử, thực hiện đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước. Nếu hoạt động
này được tiến hành tốt sẽ làm tăng thêm tác dụng của công tác giáo dục chính trị, giáo
dục pháp luật. Ngược lại nếu PTST tiến hành không tốt, có nhiều sai sót thì kết quả của
công tác giáo dục sẽ bị hạn chế, gây ảnh hưởng xấu, làm cho mọi người thiếu tin tưởng
vào hoạt động xét xử của Tòa án.
3. Nguyên tắc tiến hành PTST:

Để giải quyết được các VADS, việc tiến hành PTST phải thực hiện một cách chu
đáo, nghiêm túc, phải tuân thủ đầy đủ những nguyên tắc của TTDS được quy định tại
các điều, từ Điều 3 đến Điều 24 BLTTDS. Ngoài ra, vì có mặt của các bên đương sự
trong vụ án là rất cần thiết cho nên PTST phải được tiến hành đúng thời gian, địa điểm
đã được ghi trong quyết định đưa vụ án ra xét xử hoặc trong giấy báo mở lại phiên tòa
trong trường hợp phải hoãn phiên tòa ( Điều 196 BLTTDS).
Ngoài yêu cầu trên, BLTTDS còn quy định PTSTDS phải được tiến hành theo
phương thức xét xử trực tiếp, bằng lời nói và liên tục ( Điều 197).
Trong trường hợp đặc biệt do BLTTDS quy định thì việc xét xử có thể tạm ngừng
không quá 5 ngày làm việc. Hết thời hạn tạm ngừng, việc xét xự vụ án được tiếp tục
( Khoản 2 Điều 197)
II. Thủ tục tiến hành PTDSST theo quy định của pháp luật hiện hành:
Thủ tục PTST được quy định tại Chương XIV BLTTDS (từ Điều 212-Điều 239),
bao gồm các thủ tục: bắt đầu phiên tòa, hỏi, tranh luận, nghị án và tuyên án.
1. Chuẩn bị khai mạc PTST:
Theo quy định tại Điều 212 BLTTDS, việc chuẩn bị khai mạc phiên tòa do thư
ký tòa án thực hiện. Khi chuẩn bị khai mạc phiên tòa, thư ký tiến hành các công việc
như: ổn định trật tự trong phòng xử án; kiểm tra, xác định sự có mặt, vắng mặt của
những người tham gia phiên tòa theo giấy triệu tập, giấy báo của Tòa án; nếu có người
2


vắng mặt thì cần phải làm rõ lý do; phổ biến nội quy phiên tòa bao gồm các quy định;
yêu cầu mọi người trong phòng xử án đứng dậy khi Hội đồng xét xử vào phòng xử án.
Đây là thủ tục bắt buộc đảm bảo cho phiên tòa diễn ra có sự tham dự đầy đủ của
những người tham gia tố tụng, kiểm tra lại xem có những trường hợp nào phải hoãn
phiên tòa không đồng thời còn nhằm xác lập trật tự của phiên tòa trước khi khai mạc.
2. Thủ tục bắt đầu phiên tòa sơ thẩm:
2.1. Khai mạc phiên tòa:
Khai mạc phiên tòa là thủ tục tố tụng bắt buộc phải thực hiện trước khi HĐXX

tiến hành xét xử. Theo quy định tại Điều 213 BLTTDS, việc khai mạc phiên tòa được
thực hiện như sau:
“ 1. Chủ toạ phiên toà khai mạc phiên toà và đọc quyết định đưa vụ án ra xét xử.
2. Thư ký Toà án báo cáo với HĐXX về sự có mặt, vắng mặt của những người tham
gia phiên toà theo giấy triệu tập, giấy báo của Toà án và lý do vắng mặt.
3. Chủ toạ phiên toà kiểm tra lại sự có mặt của những người tham gia phiên toà theo
giấy triệu tập, giấy báo của Toà án và kiểm tra căn cước của đương sự.
4. Chủ toạ phiên toà phổ biến quyền, nghĩa vụ của các đương sự và của những người
tham gia tố tụng khác.
5. Chủ toạ phiên toà giới thiệu họ, tên những người tiến hành tố tụng, người giám
định, người phiên dịch.
6. Chủ toạ phiên toà hỏi những người có quyền yêu cầu thay đổi những NTHTT,
người giám định, người phiên dịch xem họ có yêu cầu thay đổi ai không.”
2.2. Giải quyết yêu cầu thay đổi NTHTT, người giám định, người phiên dịch:
Theo quy định tại Điều 214 BLTTDS, trong trường hợp có người yêu cầu thay
đổi NTHTT, người giám định, người phiên dịch thì HĐXX phải xem xét, nghe ý kiến
của người bị thay đổi tại phiên tòa trước khi quyết định chấp nhận hoặc không chấp
nhận. Trường hợp không chấp nhận thì HĐXX phải nêu rõ lý do.
Trong trường hợp phải thay đổi NTHTT, người giám định, người phiên dịch mà
không có người thay thế ngay thì HĐXX ra quyết định hoãn phiên tòa.
2.3. Xem xét, quyết định hoãn phiên tòa khi có người vắng mặt:
Theo quy định tại Điều 215 BLTTDS, khi có NTGTT vắng mặt tại phiên tòa mà
thuộc trường hợp tòa án buộc phải hoãn phiên tòa thì HĐXX phải xem xét quyết định
hoãn phiên tòa. Nếu có NTGTT vắng mặt tại phiên tòa mà không thuộc trường hợp tòa
án phải hoãn phiên tòa (như vắng mặt người làm chứng, người giám định, người phiên
dịch)thì chủ tọa phiên tòa hỏi xem có ai đề nghị hoãn phiên tòa hay không; nếu có
người đề nghị thì HĐXX xem xét, quyết định và có thể chấp nhận hoặc không chấp
nhận, trường hợp không chấp nhận thì phải nêu rõ lý do. Quyết định hoãn phiên tòa
phải được HĐXX thảo luận, thông qua theo đa số tại phòng nghị án và phải được lập
thành văn bản.

Như vậy, các quy định về thủ tục bắt đầu phiên tòa của BLTTDS rất chi tiết và cụ
thể. Với quy định của BLTTDS về thủ tục bắt đầu phiên tòa thì vai trò của Thẩm phánchủ tọa phiên tòa là rất lớn. Tất cả các hoạt động của Thẩm phán tại thủ tục này nhằm
3


đảm bảo cho việc quản lý vụ án của Tòa án được chặt chẽ, đảm bảo cho việc xét xử
được đúng đối tượng, đúng thủ tục tố tụng và những người tham gia tố tụng được biết
rõ quyền và nghĩa vụ của mình tại PTSTDS.
3. Thủ tục hỏi tại phiên tòa sơ thẩm:
Theo quy định tại các Điều từ Điều 217 đến Điều 231 BLTTDS thì thủ tục hỏi
được tiến hành tuần tự theo các bước: hỏi đương sự về thay đổi, bổ sung, rút yêu cầu và
thỏa thuận giải quyết vụ án; các bên đương sự trình bày về vụ án; tiến hành hỏi; công
bố các tài liệu của vụ án và xem xét vật chứng.
3.1. Hỏi đương sự về thay đổi, bổ sung, rút yêu cầu và thỏa thuận giải quyết vụ
án:
Căn cứ vào nguyên tắc tự định đoạt của đương sự, trong quá trình tố tụng, các
đương sự có quyền chấm dứt, thay đổi, bổ sung các yêu cầu của mình; có quyền thỏa
thuận giải quyết với nhau về các vấn đề có tranh chấp không trái pháp luật và đạo đức
xã hội. Vì vậy Điều 217 quy định trước khi hỏi về nội dung vụ án chủ tọa phiên tòa hỏi
đương sự về các vấn đề cần thay đổi, bổ sung, rút yêu cầu.
Sau khi chủ tọa phiên tòa đã hỏi các bên đương sự và dành cho họ quyền được
thay đổi, bổ sung hay rút yêu cầu thì HĐXX sẽ xem xét vấn đề này khi có đương sự đề
nghị. Để bảo đảm quyền lợi của đương sự trong phạm vi pháp luật cho phép, Điều 218
quy định như sau:
“ HĐXX chấp nhận việc thay đổi, bổ sung yêu cầu của đương sự, nếu việc thay
đổi, bổ sung yêu cầu của họ không vượt quá phạm vi yêu cầu khởi kiện, yêu cầu phản
tố hoặc yêu cầu độc lập ban đầu.
Trong trường hợp có đương sự rút một phần hoặc toàn bộ yêu cầu của mình và
việc rút yêu cầu của họ là tự nguyện thì HĐXX chấp nhận và đình chỉ xét xử đối với
phần yêu cầu hoặc toàn bộ yêu cầu đương sự đã rút.”

Mọi yêu cầu thay đổi, bổ sung theo hướng bất lợi cho các đương sự khác đều
không được HĐXX chấp nhận. Việc thay đổi, bổ sung yêu cầu của đương sự phải được
ghi vào biên bản phiên tòa. Trong trường hợp HĐXX chấp nhận yêu cầu thay đổi, bổ
sung của đương sự thì phải ghi vào trong bản án.
Viêc đương sự thỏa thuận, thương lượng giải quyết tranh chấp trong mọi giai
doạn TTDS được Nhà nước khuyến khích. Vì vậy, Điều 220 BLTTDS quy định trước
khi xét xử vụ án chủ tọa phiên tòa hỏi xem đến thời điểm này các đương sự có thỏa
thuận với nhau vế việc giải quyết vụ án hay không. Trong trường hợp các đương sư
thỏa thuận được với nhau về giải quyết vụ án và thỏa thuận của họ là tự nguyện, không
trái pháp luật và đạo đức xã hội thì HĐXX ra quyết định công nhận sự thỏa thuận của
các đương sự về việc giải quyết vụ án. Quyết định công nhận sự thỏa thuận của đương
sự về việc giải quyết vụ án phải được lập thành văn bản và có hiệu lực pháp luật ngay.
3.2. Nghe đương sự trình bày về vụ án:
Sau khi chủ tọa đã thực hiện các hoạt động nghiệp vụ cần thiết như quy định tại
các điều 217, 218 và 220 BLTTDS nhưng có đương sự vẫn giữ nguyên yêu cầu của họ
và các bên trong vụ án cũng không tự thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết các
tranh chấp thì HĐXX bắt đầu xét xử vụ án bằng việc nghe các bên đương sự trình bày
4


về các yêu cầu và các tài liệu, chứng cứ liên quan đến vụ tranh chấp. Điều 221 BLTTDS
quy định trình tự các bên đương sự được trình bày việc kiện tại phiên tòa như sau:
“a) Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn trình bày yêu cầu
của nguyên đơn và chứng cứ để chứng minh cho yêu cầu đó là có căn cứ và hợp pháp.
Nguyên đơn có quyền bổ sung ý kiến.
Trong trường hợp cơ quan, tổ chức khởi kiện vụ án thì đại diện cơ quan, tổ chức
trình bày về yêu cầu khởi kiện và chứng cứ để chứng minh cho yêu cầu khởi kiện là có
căn cứ và hợp pháp;
b) Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn trình bày ý kiến của bị
đơn đối với yêu cầu của nguyên đơn; yêu cầu phản tố, đề nghị của bị đơn và chứng cứ

để chứng minh cho đề nghị đó là có căn cứ và hợp pháp. Bị đơn có quyền bổ sung ý
kiến;
c) Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên
quan trình bày ý kiến của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đối với yêu cầu, đề
nghị của nguyên đơn, bị đơn; yêu cầu độc lập, đề nghị của người có quyền lợi, nghĩa
vụ liên quan và chứng cứ để chứng minh cho đề nghị đó là có căn cứ và hợp pháp.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền bổ sung ý kiến.”
Tại phiên toà, đương sự, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự
có quyền bổ sung chứng cứ để chứng minh cho yêu cầu, đề nghị của mình (Điều 221
BLTTDS). Những quy định này cho thấy chủ trương đổi mới hoạt động tư pháp của
Đảng và Nhà nước đã được thể chế hóa. Đó là kết quả của việc mở rộng quyền dân chủ
trong hoạt động tư pháp và vai trò của đương sự, của những NTGTT khác trong việc
cung cấp chứng cứ cho tòa án, thực hiện nghĩa vụ chứng minh để bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp của mình.
3.3. Tiến hành hỏi tại phiên tòa sơ thẩm:
Theo quy định tại Điều 222 BLTTDS, các chủ thể có quyền tham gia vào quá
trình hỏi tại phiên tòa gồm có: các thành viên của HĐXX, người bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp của đương sự, đương sự, những NTGTT khác và Kiểm sát viên ( nếu có).
Trình tự hỏi từng người về từng vấn đề của vụ án được tiến hành theo thứ tự chủ tọa
phiên tòa trước rồi đến Hội thẩm nhân dân, kế đến là người bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của đương sự, tiếp theo là đương sự rồi đến những NTGTT khác. Trường hợp có
Kiểm sát viên tham gia phiên tòa thì kiểm sát viên sẽ tiến hành hỏi sau đương sự.
Việc hỏi được tiến hành riêng cho từng người, xong người này mới đến người
khác ( các Điều 223, 224, 225 và 226 BLTTDS). Các câu hỏi được đặt ra phải liên quan
đến vụ án và về những vấn đề đương sự, người bảo vệ quyền đương sự trình bày chưa
rõ. Đương sự được hỏi có thể tự trả lời hoặc người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của đương sự trả lời thay, sau đó đương sự bổ sung. Mục đích của tố tụng hỏi ở phiên
tòa là để xem xét, thẩm tra các tài liệu, chứng cứ của vụ án, thông qua đó làm sáng tỏ
các tình tiết của vụ án, nhất là những vấn đề của vụ án, nhất là về những vấn đề của vụ
án mà các bên đương sự còn có những ý kiến khác nhau. Các Điều 224, 225, 226 và

230 BLTTDS quy định hỏi tại phiên tòa: nguyên đơn (Khoản 2 Điều 223), bị đơn
5


(Khoản 2 Điều 224), người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan (Khoản 2 Điều 225), người
làm chứng ( Điều 226), người giám định ( Điều 230).
Thực chất của thủ tục hỏi tại PTSTDS theo quy định của BLTTDS là thủ tục
trình bày yêu cầu, chứng cứ của đương sự, kiểm tra chứng cứ công khai của những
NTHTT và những NTGTT.
3.4. Công bố các tài liệu của vụ án dân sự:
Để giúp cho việc xem xét vụ án một cách toàn diện, đầy đủ, HĐXX khi thấy cần
thiết có thể công bố các tài liệu của vụ án theo Điều 227 BLTTDS, HĐXX công bố các
tài liệu của vụ án trong các trường hợp sau đây:
“a) NTGTT không có mặt tại phiên toà mà trong giai đoạn chuẩn bị xét xử đã có
lời khai;
b) Những lời khai của NTGTT tại phiên toà mâu thuẫn với những lời khai trước
đó;
c) Trong các trường hợp khác mà HĐXX thấy cần thiết hoặc có yêu cầu của
Kiểm sát viên, NTGTT..”
Đối với trường hợp đặc biệt cần giữ bí mật nhà nước, giữ gìn thuần phong mỹ
tục của dân tộc, giữ bí mật nghề nghiệp, bí mật kinh doanh, bí mật đời tư của cá nhân
theo yêu cầu của đương sự thì HĐXX không công bố các tài liệu này.
Sau khi đã thực hiện đầy đủ các hoạt động nghiệp vụ trong thủ tục hỏi ở phiên
tòa, HĐXX nhận thấy các tình tiết của vụ án đã được xem xét đầy đủ thì chủ tọa phiên
tòa hỏi kiểm sát viên, đương sự, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự
và những NTGTT khác xem họ có yêu cầu hỏi vấn đề gì nữa không. Trường hợp có
người yêu cầu và tòa án xét thấy yêu cầu đó là có căn cứ thì chủ tọa phiên tòa quyết
định tiếp tục cho họ đặt câu hỏi về những vấn đề mà họ chưa rõ liên quan đến vụ án.
Nếu không có ai nêu ra vấn đề gì nữa thì chủ tọa phiên tòa tuyên bố kết thúc việc hỏi và
chuyển sang phần tranh luận tại phiên tòa.

4. Tranh luận tại phiên tòa sơ thẩm:
BLTTDS đã quy định mở rộng quyền tranh luận của đương sự, đề cao vai trò chủ
động của đương sự trong việc tranh luận ở tại phiên tòa.
Trong BLTTDS đã dành hẳn một Mục với bốn điều luật, từ Điều 232 đến Điều
235 quy định về hoạt động tranh luận tại phiên tòa. Điều đó thể hiện tầm quan trọng của
hoạt động tranh luận trong việc tìm ra sự thật khách quan của vụ án và xu hướng đổi
mới hoạt động tư pháp ở nước ta. Các quy định của BLTTDS về tranh luận tại phiên tòa
phù hợp với quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về cải cách tư pháp được nêu trong
Nghị quyết số 08- NQ/ TW của Bộ chính trị.
4.1. Những người tham gia tranh tụng:
Căn cứ vào Điều 232 BLTTDS, những người tham gia tranh luận gồm có: đương
sự, người đại diện của đương sự, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự,
cơ quan, tổ chức khởi kiện.
So với pháp luật TTDS trước đây, thứ tự người phát biểu tranh luận đã có sự thay
đổi. Trước đây khi tranh luận đương sự trình bày quan điểm của mình về việc đánh giá
6


chứng cứ, hướng giải quyết vụ án trước, sau đó người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của đương sự sẽ trình bày bổ sung (nếu có). Sự thay đổi của BLTTDS nhằm nâng cao
chất lượng, hiệu quả của tranh luận và đề cao vai trò của người bảo vẹ quyền và lợi ích
hợp pháp của đương sự. người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự là người
có kiến thức pháp lý và kinh nghiệm tranh luận tại phiên tòa. Vì thế, quy định tại Điều
232 BLTTDS sẽ giúp cho quá trình xác định sự thật của vụ án được nhanh chóng và
chính xác hơn.
4.2. Nội dung tranh luận:
Để tránh phiên tòa đi chệch hướng, sa đà vào những tình tiết không cơ bản của
vụ án, pháp luật quy định các bên khi tham gia tranh luận cần tập trung vào hai nội
dung quan trọng sau đây:
+ Phân tích, đánh giá chứng cứ, tranh luận bảo vệ lý lẽ của mình, trong đó có

quyền đưa ra các chứng cứ để bác bỏ lý lẽ của phía bên kia và chỉ rõ việc áp dụng quy
phạm pháp luật nội dung nào để giải quyết vụ án.
+ Trong khi phát biểu tranh luận, đánh giá về vụ án, các bên tham gia tố tụng đề
xuất quan điểm của mình về hướng giải quyết vụ án trên cơ sở các tài liệu, chứng cứ đã
thu thập được và đã được các bên thảo luận, xem xét, xác minh, thừa nhận tại phiên tòa.
4.3. Căn cứ tranh luận:
Pháp luật TTDS quy định thủ tục tranh luận tại phiên tòa là nhằm tạo điều kiện
tối đa về thời cơ để các bên đương sự tự chứng minh cho các yêu cầu của họ bằng các
chứng cứ lý lẽ mà họ phân tích, đánh giá công khai ngay tại phiên tòa. Vì vậy, Điều 233
BLTTDS quy định về căn cứ phát biểu khi tranh luận và đối đáp là: “Khi phát biểu về
đánh giá chứng cứ, đề xuất quan điểm của mình về việc giải quyết vụ án, người tham
gia tranh luận phải căn cứ vào tài liệu, chứng cứ đã thu thập được và đã được xem xét,
kiểm tra tại phiên toà cũng như kết quả việc hỏi tại phiên toà. Người tham gia tranh
luận có quyền đáp lại ý kiến của người khác. Chủ toạ phiên toà không được hạn chế
thời gian tranh luận, tạo điều kiện cho những người tham gia tranh luận trình bày hết ý
kiến, nhưng có quyền cắt những ý kiến không có liên quan đến vụ án”. Quy định này
thể hiện mức độ can thiệp cần thiết của HĐXX đối với quá trình tranh luận nhằm đảm
bảo tính khách quan, chân thực của những tài liệu, chứng cứ, xác định giá trị chứng
minh của chứng cứ, đảm bảo tất cả các tình tiết của vụ án phải được làm sáng tỏ.
4. 4. Trình tự tranh luận:
Mục đích của tranh luận là để làm rõ thêm các tình tiết, sự kiện của vụ án. Để đề
cao vai trò của đương sự và người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ trong tranh
luận, bảo đảm quá trình tranh luận đạt kết quả, tránh cuộc tranh luận trở thành một cuộc
cãi vã giữa các bên, Điều 232 BLTTDS quy định trình tự phát biểu khi tranh luận như
sau:
“a) Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn phát biểu. Nguyên
đơn có quyền bổ sung ý kiến. Trong trường hợp cơ quan, tổ chức khởi kiện thì đại diện
cơ quan, tổ chức trình bày ý kiến. Người có quyền và lợi ích được bảo vệ có quyền bổ
sung ý kiến;
7



b) Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn phát biểu. Bị đơn có
quyền bổ sung ý kiến;
c) Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên
quan phát biểu. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền bổ sung ý kiến.”
+ Trong trường hợp nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan
không có người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình thì họ tự mình phát biểu khi
tranh luận theo thứ tự nguyên đơn phát biểu trước, sau đó đến bị đơn, rồi mới đến người
có quyền, nghĩa vụ liên quan.
Thời gian tranh luận tại phiên tòa dài hay ngắn là do tính chất phức tạp của từng
vụ án chứ BLTTDS không quy định cụ thể. Nhưng để cho đương sự và người đại diện
của họ có thể thực hiện được việc tranh luận bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
mình, Điều 223 BLTTDS quy định như sau: “Người tham gia tranh luận có quyền đáp
lại ý kiến của người khác. Chủ toạ phiên toà không được hạn chế thời gian tranh luận,
tạo điều kiện cho những người tham gia tranh luận trình bày hết ý kiến, nhưng có
quyền cắt những ý kiến không có liên quan đến vụ án.” Không hạn chế thời gian tranh
luận là điểm mới của BLTTDS, thể hiện tinh thần mở rộng tranh tụng, tạo điều kiện cho
đương sự có khả năng mở rộng tranh tụng, tạo điều kiện cho đương sự có khả năng sử
dụng mọi phương pháp chứng minh theo luật để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
mình. Trước kia, khoản 1 điều 51 PLTTGQVADS quy định người tham gia tranh luận
chỉ được phát biểu một lần đối với mỗi ý kiến mà mình không đồng ý.
4.5. Phát biểu của Kiểm sát viên:
Đối với những VADS mà theo quy định của BLTTDS quy định trình tự phát biểu
của Viện kiểm sát tại phiên tòa như sau: “Trong trường hợp Kiểm sát viên tham gia
phiên toà thì sau khi những người tham gia tố tụng phát biểu tranh luận và đối đáp
xong, chủ toạ phiên toà đề nghị Kiểm sát viên phát biểu ý kiến của Viện kiểm sát về việc
giải quyết vụ án” (Điều 234).
4.6. Trở lại việc hỏi:
Tòa án chỉ có thể quyết định được VADS khi các tình tiết, sự kiện của vụ án đã

được làm sáng tỏ. Vì vậy, Điều 235 BLTTDS quy định qua tranh luận nếu xét thấy có
tình tiết của vụ án chưa được xem xét, việc xem xét chưa được đầy đủ hoặc cần xem xét
thêm chứng cứ thì HĐXX quyết định trở lại việc hỏi; sau khi hỏi xong phải tiếp tục
tranh luận.
5. Nghị án và tuyên án:
5.1. Nghị án:
Trên cơ sở kết quả của việc hỏi và tranh luận tại phiên tòa, việc nghị án được
thực hiện theo tinh thần của việc đổi mới hoạt động tư pháp đã được đề ra trong Nghị
quyết số 08- NQ/ TW của Bộ chính trị.
Theo Điều 236 , việc nghị án được tiến hành như sau: “Sau khi kết thúc phần
tranh luận, HĐXX vào phòng nghị án để nghị án.Chỉ có các thành viên của HĐXX mới
có quyền nghị án. Khi nghị án, các thành viên của HĐXX phải giải quyết tất cả các vấn
đề của vụ án bằng cách biểu quyết theo đa số về từng vấn đề. Khi nghị án chỉ được căn
8


cứ vào tài liệu, chứng cứ đã được kiểm tra, xem xét tại phiên toà, kết quả việc hỏi tại
phiên toà và phải xem xét đầy đủ ý kiến của những người tham gia tố tụng, Kiểm sát
viên. Khi nghị án phải có biên bản ghi lại ý kiến đã thảo luận và quyết định của HĐXX.
Trong trường hợp vụ án có nhiều tình tiết phức tạp, việc nghị án đòi hỏi phải có thời
gian dài thì HĐXX có thể quyết định thời gian nghị án, nhưng không quá năm ngày làm
việc kể từ khi kết thúc tranh luận tại phiên toà. HĐXX phải thông báo cho những người
có mặt tại phiên toà và NTGTT vắng mặt tại phiên toà biết giờ, ngày và địa điểm tuyên
án; nếu HĐXX đã thực hiện việc thông báo mà có người tham gia tố tụng vắng mặt thì
HĐXX vẫn tiến hành việc tuyên án theo quy định tại Điều 239 của Bộ luật này.”
Khi nghị án nếu xét thấy có tình tiết của vụ án chưa được xem xét, việc hỏi chưa
đầy đủ hoặc cần xem xét thêm chứng cứ thì HĐXX quyết định trở lại việc hỏi và tranh
luận ( Điều 237).
5.2. Tuyên án:
Sau khi bản án đã được thông qua, HĐXX trở lại phòng xét xử để tuyên án.

Theo Điều 239 thì thủ tục tuyên án được thực hiện như sau:
“Khi tuyên án, mọi người trong phòng xử án phải đứng dậy, trừ trường hợp đặc
biệt được phép của chủ toạ phiên toà. Chủ toạ phiên toà hoặc một thành viên khác của
Hội đồng xét xử đọc bản án và sau khi đọc xong có thể giải thích thêm về việc thi hành
bản án và quyền kháng cáo.
Trong trường hợp có đương sự không biết tiếng Việt thì sau khi tuyên án, người
phiên dịch phải dịch lại cho họ nghe toàn bộ bản án sang ngôn ngữ mà họ biết.”
III. Nhận xét và đánh giá:
PTSTDS là một chế định lớn, quan trọng của pháp luật TTDS. Các quy định của
BLTTDS về PTST đã có nhiều điểm mới, tiến bộ, bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ
trong việc giải quyết các VADS, phù hợp với chính sách mở cửa, hội nhập quốc tế của
Đảng và Nhà nước ta. Quyền tự định đoạt của các đương sự được tôn trọng và phát huy,
nâng cao trách nhiệm của những NTHTT.
Thứ nhất, về thủ tục khai mạc và bắt đầu phiên tòa, trước đây các VBPLTTDS
quy định về thủ tục bắt đầu phiên tòa rất sơ sài. BLTTDS có hẳn một mục gồm 4 điều
luật quy định về thủ tục bắt đầu phiên tòa. Nội dung các điều luật không có nhiều vấn
đề mới so với các quy định của các VBPL trước nhưng chi tiết, cụ thể hơn. Điểm mới
của thủ tục này là bổ sung quy định về khai mạc phiên tòa và thư ký tòa án báo cáo với
HĐXX về sự có mặt và vắng mặt của những người tham gia phiên tòa đã được triệu tập.
Trong thực tiễn xét xử những năm qua cho thấy, mặ dù các VBPL không quy định
nhưng khi tiến hành PTST các tòa án vẫn thực hiện các thủ tục trên. Việc quy định của
BLTTDS nhằm đáp ứng yêu cầu của thực tiễn,bảo đảm tính trang nghiêm của phiên tòa
đồng thời HĐXX chủ động giải quyết khi có NTGTT vắng mặt.
Thứ hai, thủ tục hỏi tại phiên tòa: Đây là thủ tục có nhiều thay đổi nhất. Ngay
tên gọi cũng đổi từ “ thủ tục xét hỏi” thành “thủ tục hỏi tại phiên tòa”. Cách gọi đó
phản ánh đúng bản chất của thủ tục giải quyết VADS khác với thủ tục giải quyết vụ án
hình sự. Đối với VADS, mục đích của phần hỏi tại phiên tòa hỏi để làm rõ yêu cầu,
9



quan hệ pháp luật tranh chấp giữa các bên chứ không phải là việc truy xét của Nhà nước
về một hành vi vi phạm pháp luật.
Trình tự của thủ tục hỏi cũng khác trước kia rất nhiều. Trước kia, các VBPL
TTDS quy định khi khởi kiện các đương sự có nghĩa vị cing cấp chứng cứ, tòa án thu
thập thêm khi cần thiết nhưng không có văn bản nào quy định trường hợp nào là cần
thiết dẫn đến cách hiểu nghĩa vụ chứng minh trong VADS là thuộc về Tòa án. Vì vậy, ở
thủ tục xét hỏi tại phiên tòa trong các pháp lệnh là tòa án chủ động hỏi tất cả các vấn đề
của nội dung vụ án, thậm chí theo một kế hoạc đã được định trước, không có phần để
các đương sự tự trình bày…Theo BLTTDS, nghĩa vụ chứng minh thuộc về các đương
sự, quyền định đoạt của đương sự được tôn trọng triệt để hơn nên thủ tục hỏi được bắt
đầu bằng việc chủ tọa phiên tòa hỏi các đương sự về việc có thay đổi, bổ sung, rút yêu
cầu hay không (Điều 217). Để đảm bảo quyền lợi của đương sự và đảm bảo cho việc
giải quyết vụ án đúng thời hạn, tại PTST HĐXX chỉ chấp nhận việc thay đổi, bổ sung
yêu cầu của đương sự, nếu thay đổi, bổ sung yêu cầu của họ không vượt quá phạm vi
yêu cầu khởi kiện, yêu cầu phản tố hoặc yêu cầu độc lập ban đầu. Trong trường hợp có
đương sự rút một phần hoặc toàn bộ yêu cầu của mình và việc rút yêu cầu của họ là tự
nguyện thì HĐXX chấp nhận và đình chỉ xét xử đối với phần yêu cầu hoặc toàn bộ yêu
cầu đã rút. Trong trường hợp nguyên đơn rút toàn bộ yêu cầu khởi kiện nhưng bị đơn
vẫn giữ nguyên yêu cầu phản tố của mình thì bị đơn trở thành nguyên đơn và nguyên
đơn trở thành bị đơn. Trong trường hợp nguyên đơn rút toàn bộ yêu cầu khởi kiện, bị
đơn rút toàn bộ yêu cầu phản tố nhưng người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vẫn giữ
nguyên yêu cầu độc lập của mình thì người có quyền lơi, nghĩa vụ liên quan trở thành
nguyên đơn, người có nghĩa vụ đối với yêu cầu độc lập trở thành bị đơn. Việc quy định
thay đổi địa vị tố tụng của các đương sự để tránh trường hợp nếu tòa án ra quyết định
đình chỉ việc giải quyết vụ án nếu bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu
cầu giải quyết yêu cầu độc lập tòa án lại phải thụ lý vụ án trong khi đó quan hệ pháp
luật tranh chấp, chủ thể của các quan hệ đó không thay đổi. Vì vậy, quy định về thay đổi
địa vị tố tụng của các đương sự nhằm đảm bảo việc giải quyết tran chấp nhanh chóng,
tiết kiệm, hiệu quả. Đối với việc hòa giải, theo quy định của BLTTDS, tại phiên tòa, tòa
án không hòa giải mà trong phần hỏi chủ tọa phiên tòa chỉ hỏi các đương sự có thỏa

thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án hay không. Trong trường hợp các đương
sự thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án và thỏa thuận của họ là tự nguyện,
không trái pháp luật hoặc đạo đức xã hội thì HĐXX ra quyết định công nhận sự thỏa
thuận của đương sự về việc giải quyết vụ án (Điều 220). Nếu các đương sự không thỏa
thuận được với nhau thì HĐXX sẽ nghe các đương sự trình bày. Đối với việc tham gia
phiên tòa của người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự, BLTTDS quy định
họ thay mặt các đương sự trình bày yêu cầu và chứng cứ chứng minh cho yêu cầu, sau
đó đương sự bổ sung ý kiến. Khi đến phần các đương sự được hỏi tại phiên tòa người
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự có thể trình bày thay đương sự. Quy
định này bảo đảm nâng cao được chất lượng phiên tòa, phát huy tối đa khả năng và vai
trò của người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự trong việc tham gia tố
tụng.
10


Điều 222 BLTTDS quy định, chủ tọa phiên tòa là người hỏi trước, sau đó đến hội
thẩm nhân dân, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự, đương sự, những
NTGTT khác và KSV là người hỏi sau cùng. Quy định này thể hiện chủ trương đổi mới
của Đảng và Nhà nước ta trong hoạt động tư pháp theo xu hướng thực hiện dân chủ
trong phiên tòa dân sự, tránh sự can thiệp của VKS vào việc giải quyết các tranh chấp
dân sự. Về nội dung hỏi, HĐXX không hỏi về toàn bộ nội dung vụ án mà chỉ hỏi về
những vấn đề mà đương sự trình bày chưa rõ hoặc có mâu thuẫn. Ngoài ra, Điều 228
BLTTDS còn quy định khi cần thiết, HĐXX cho nghe băng ghi âm, đĩa ghi âm, xem
băng ghi hình, đĩa ghi hình. Đây là sự thể hiện việc ứng dụng công nghệ trong hoạt
động xét xử.
Thứ ba, thủ tục tranh luận tại phiên tòa:
Tranh luận tại phiên tòa là hoạt động trung tâm của phiên tòa. BLTTDS đã dành
hẳn một mục với bốn điều luật, từ Điều 232 đến Điều 235 quy định về tranh luận tại
phiên tòa. Điều đó thể hiện xu hướng đổi mới hoạt động tư pháp ở nước ta là mở rộng
quyền tranh luận của đương sự, đề cao vai trò chủ động của đương sự trong việc tranh

luận tại phiên tòa, bảo đảm cho đương sự bảo vệ tốt hơn quyền, lợi ích hợp pháp của họ
trước tòa án…Các quy định này của BLTTDS phù hợp với quan điểm của Đảng và Nhà
nước ta về cải cách tư pháp được nêu trong Nghị quyết 08- NQ/TW của Bộ chính trị là:
“Muốn nâng cao chất lượng xét xử thì phải nâng cai chất lượng tranh tụng dân chủ tại
phiên tòa”.
Để tranh việc các bên khi tham gia tranh luận chỉ dựa vào suy đoán cảm tính,
tranh luận không có căn cứ, Điều 233 BLTTDS quy định rõ khi phát biểu về đánh giá
chứng cứ, đề xuất quan điểm của mình về việc giải quyết vụ án các bên phải căn cứ vào
các tài liệu, chứng cứ đã thu thập được và đã được xem xét, kiểm tra tại phiên tòa cũng
như kết quả việc xét hỏi tại phiên tòa.
Về trình tự tranh luận, Điều 232 BLTTDS quy định khi phát biểu, tranh luận
người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự nguyên đơn phát biểu trước, sau
đó đương sự bổ sung ý kiến theo thứ tự từ bên nguyên đơn đến bị đơn, người có quyền,
nghĩa vụ liên quan. Để bảo đảm cho đương sự và những đại diện của họ được thực hiện
đầy đủ khả năng tranh luận, được tạo điều kiện tối đa cho họ sử dụng tất cả các phương
pháp chứng minh theo luật định để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình.
BLTTDS không hạn chế thời gian tranh luận nhưng chủ tọa phiên tòa có quyền cắt ý
kiến không có liên quan đến vụ án.
Thứ tư, nghị án và tuyên án: Nghị án được BLTTDS quy định tại Điều 236,237
với tinh thần đổi mới hoạt động tư pháp đã được đề ra trong Nghị quyết số 08/ NQ- TW
của Bộ chính trị là: “ Việc phán quyết của tòa án phải căn cứ chủ yếu vào kết quả tranh
tụng tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của…nguyên
đơn, bị đơn và những người có quyền, lợi ích hợp pháp để ra những bản án, quyết định
đúng pháp luật có sức thuyết phục trong thời hạn pháp luật quy định”. Theo Điều 236
BLTTDS, việc nghị án được tiến hành tại phòng riêng, chỉ có các thành viên HĐXX
mới có quyền nghị án. Quy định này nhằm bảo đảm nguyên tắc nghị án bí mật, nguyên
tắc thẩm phán và hội thẩm nhân dân độc lập và chỉ tuân theo pháp luật, tránh tình trạng
thư ký tòa án và KSV cũng có mặt trong phòng nghị án khi nghị án. Để phát huy vai trò
11



và trách nhiệm của hội thẩm nhân dân trong hoạt động xét xử, điều luật này quy định
hội thẩm nhân dân biểu quyết trước, thẩm phán biểu quyết sau cùng. Bên cạnh đó, để
đảm bảo nguyên tắc xét xử liên tục, phát huy trách nhiệm của các thành viên HĐXX
trong việc giải quyết vụ án, tránh việc tạm ngừng tuyên án kéo dài, điều luật còn quy
định về thời gian nghị án tối đa không quá 5 ngày làm việc, kể từ khi kết thúc tranh luận
tại phiên tòa. Ngoài ra, một điểm mới về nghị án được quy định tại Điều 237 BLTTDS
là qua nghị án, nếu xét thấy có tình tiết của vụ án chưa được xem xét, việc hỏi chưa đầy
đủ hoặc cần xem xét thêm chứng cứ thì HĐXX quyết đinh trở lại việc hỏi và tranh luận.
Quy định này nhằm mở rộng hơn nữa khả năng tranh tụng tại phiên tòa, thể hiện tư duy
mới, thể hiện tính dân chủ cao, tính thận trọng của việc xét xử, bảo đảm cho tòa án
được tuyên một cách khách quan, công bằng và toàn diện. Tuy nhiên, quy định này dễ
dẫn đến việc xét xử bị kéo dài, quyền và lợi ích hợp pháp của các đương sự không được
bảo vệ kịp thời, không phát huy được trách nhiệm của các thành viên HĐXX trong việc
giải quyết vụ án.
Theo Điều 239 BLTTDS thì thủ tục tuyên án có ba nội dung mới giúp cho việc
tuyên án phù hợp với hực tế hơn. Khi tuyên án, mọi người trong phòng xử án phải đứng
dậy, trừ trường hợp đặc biệt như sức khỏe yếu, bệnh tật…không thể đứng được được
phép của chủ tọa phiên tòa có thể ngồi nghe tuyên án. Theo các pháp lệnh của thủ tục
trước kia thì có chủ tọa phiên tòa mới được đọc bản án. BLTTDS quy định việc tuyên
án có thể do chủ tọa phiên tòa hoặc một thành viên khác của HĐXX đứng đọc. Quy
định này nhằm giải quyết tình huống bản án quá dài một người không thể đứng đọc
hoặc đến ngày tuyên án sức khỏe của chủ tọa không tốt…
Ngoài ra, BLTTDS còn quy định trong trường hợp có đương sự không biết Tiếng
Việt thì sau khi tuyên án, người phiên dịch phải dịch lại cho họ nghe toàn bộ bản án
sang ngôn ngữ mà họ biết.
Từ sự tìm hiểu những quy định của pháp luật tố tụng hiện hành về thủ tục tiến
hành PTST cùng với những đánh giá, nhận xét trên em xin đề xuất một số ý kiến về các
quy định của BLTTDS về PTST:
- Một là, BLTTDS quy định người đại diện hợp pháp của đương sự có quyền thay mặt

đương sự thực hiện các quyền và nghĩa vụ tố tụng của đương sự, vì vậy cần bổ sung vào
Mục 1 Chương XIV quy định về sự có mặt của người đại diện tại PTSTDS.
- Hai là, theo quy định tại PLTTGQVADS, PLTTGQVAKT, PLTTCTCLĐ được ban
hành trước đây, khi các đương sự vắng mặt lần thứ nhất dù có lý do chính đáng hay
không tòa án đều phải hoãn phiên tòa. Thực tiễn xét xử những năm qua cho thấy, quy
định này là một trong những nguyên nhân góp phần làm cho phiên tòa sơ thẩm có thể bị
hoãn nhiều lần. Khắc phục tình trạng đó, BLTTDS không quy định đói với các trường
hợp nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, người bảo vệ quyền và
lợi ích hợp pháp của đương sự vắng mặt lần thứ nhất không có lý do chính đáng là căn
cứ hoãn phiên tòa nhưng lại không đưa ra khái niệm thế nào là có lý do chính đáng và
cách giải quyết trong trường hợp này. Vì vậy, cần có sự hướng dẫn thống nhất để tránh
việc áp dụng khác nhau giữa các thẩm phán và các tòa án. Theo em, cần hướng dẫn tùy
từng trường hợp tòa án sẽ quyết định hoãn hoặc vẫn tiến hành phiên tòa. Nếu họ đã có
12


lời khai tại tòa án, các chứng cứ, tài liệu trong hồ sơ tương đối đầy đủ thì phiên tòa vẫn
có thể tiến hành.
Đối với “lý do chính đáng” quy định tại các Điều 199, 200, 201, 203 của
BLTTDS là những lý do bất khả kháng đối với đương sự như đương sự ốm nặng, đương
sự phải đi công tác xa chưa về kịp, gia đình đương sự gặp thiên tai, hỏa hoạn…
Bên cạnh đó, theo Khoản 4 Điều 230 trong trường hợp tại phiên tòa khi cần thiết
phải giám định lại, giám định bổ sung thì HĐXX quyết định hoãn phiên tòa. Nhưng
hoãn phiên tòa là việc chuyển thời điểm tiến hành phiên tòa dân sự đã định sang thời
điểm khác muộn hơn. Như vậy, HĐXX chỉ hoãn phiên tòa khi bắt đầu phiên tòa tức là
chưa xem xét giải quyết về mặt nội dung vụ án, còn khi đã xem xét giải quyết về mặt
nội dung vụ án nhưng cần phải thu thập thêm chứng cứ mới có thể giải quyết được vụ
án thì HĐXX phải quyết định tạm ngừng phiên tòa. Vì vậy, cần quy định đây là căn cứ
tạm ngừng phiên tòa.
- Ba là, về “phạm vi yêu cầu” quy định tại Điều 218 BLTTDS cũng là vấn đề còn gây

nhiều tranh cãi, phạm vi yêu cầu bao gồm các loại yêu cầu hay phạm vi giá trị của yêu
cầu. Theo em, về yêu cầu khởi kiện, yêu cầu phản tố, yêu cầu độc lập ban đầu là yêu
cầu được đưa ra tại buổi hòa giải cuối cùng. Để bảo đảm quyền bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của các đương sự thì các đương sự phải được biết trước các yêu cầu của
đương sự phía bên kia để chuẩn bị tài liệu, chứng cứ để phản đối yêu cầu đó. Vì vậy, tại
phiên tòa đương sự được quyền thay đổi, bổ sung yêu cầu nhưng không được vượt quá
yêu cầu khởi kiện, yêu cầu phản tố, yêu cầu độc lập ban đầu. Việc không được vượt quá
yêu cầu khởi kiện, yêu cầu phản tố, yêu cầu độc lập ban đầu có nghĩa là không được
đưa thêm yêu cầu mới, không được tăng giá trị yêu cầu gây bất lợi cho các đương sự
khác.
- Bốn là, khi thay đổi địa vị tố tụng của các đương sự thì tư cách đương sự trong hồ sơ,
quan hệ pháp luật tranh chấp…sẽ thay đổi. Vì vậy, cần quy định rõ kể từ thời điểm thay
đổi địa vị tố tụng các đương sự thực hiện quyền và nghĩa vụ tố tụng theo địa vị được
thay đổi đồng thời trong biểu mẫu sổ thụ lý VADS cần có thêm cột ghi chú tất cả những
thay đổi đó. Các cơ quan nhà nước có thẩm quyền cần có hướng dẫn cách giải quyết
những vấn đề phát sinh từ việc thay đổi địa vị tố tụng các đương sự theo quy định tại
Điều 219, như tên vụ án, tư cách đương sự trong hồ sơ vụ án, quan hệ pháp luật tranh
chấp…
- Năm là, theo Điều 288 BLTTDS theo yêu cầu của KSV, NTGTT hoặc khi cần thiết,
HĐXX cho nghe băng ghi âm, đĩa ghi âm, xem băng ghi hình, đĩa ghi hình. Nhưng hiện
tại không phải tòa án nào cũng có thể thực hiện được quy định này. Do đó, đòi hỏi sự
cần thiết phải tăng cường cơ sở vật chất cho các tòa án.
- Sáu là, Điều 239 BLTTDS quy định trong trường hợp có đương sự không biết tiếng
Việt thì sau khi tuyên án, người phiên dịch phải dịch lại cho họ nghe toàn bộ bản án
sang ngôn ngữ mà họ biết. Nhưng hiểu thế nào là sau khi tuyên án? Theo em, bản án
của tòa án là phán quyết nhân danh Nhà nước giải quyết tranh chấp dân sự. Việc dịch
bản án phải chính xác, do đó cần có thời gian để người phiên dịch dịch bản án sang
tiếng nước ngoài. Khoảng thời gian này vừa đủ cho người phiên dịch có thể thực hiện
13



được việc dịch nhưng đồng thời cũng phải đảm bảo đủ thời gian cho đương sự thực
hiện quyền kháng cáo. Vì vậy, Điều 239 BLTTDS cần quy định theo hướng: “ trong
trường hợp có đương sự không biết tiếng Việt thì chậm nhất sau 5 ngày kể từ ngày
tuyên án, tòa án phải triệu tập đương sự không sử dụng được tiếng Việt đến nghe người
phiên dịch dịch toàn bộ bản án sang ngôn ngữ mà họ biết”.

CÁC CHỮ CÁI VIẾT TẮT TRONG BÀI:

PTST
: Phiên tòa sơ thẩm
PTPT
: Phiên tòa phúc thẩm
BLTTDS
: Bộ luật tố tụng dân sự
PLTTGQCVADS : Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự
PLTTGQCVAKT : Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế
PLTTGQCTCLĐ : Pháp lệnh thủ tục giải quyết các tranh chấp lao động
VADS
: Vụ án dân sự
NTGTT
: Người tham gia tố tụng
NTHTT
: Người tiến hành tố tụng
HĐXX
: Hội đồng xét xử

14



MỤC LỤC:
LỜI NÓI ĐẦU:

15



×