Tải bản đầy đủ (.doc) (9 trang)

Nhận xét và đánh giá các quy định của pháp luật TTDS hiện hành về thủ tục tiến hành phiên tòa sơ thẩm dân sự và kiến nghị

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (79.8 KB, 9 trang )

I. Khái quát chung về phiên tòa sơ thẩm
Phiên tòa sơ thẩm vụ án dân sự là phiên xét xử vụ án dân sự lần đầu của tòa
án.
Tất cả các vụ án dân sự nếu đã phải đưa ra xét xử thì đều phải trải qua việc
xét xử tại phiên tòa sơ thẩm. Phiên tòa sơ thẩm dân sự được tiến hành trong một
thời điểm, thời gian nhất định. Tại phiên tòa sơ thẩm tập trung các hoạt động tố
tụng của những người tiến hành tố tụng và những người tham gia tố tụng như thẩm
phán, hội thẩm, thư ký tòa án, đương sự và người bảo vệ quyền lợi của đương sự …
Hội đồng xét xử thực hiện việc xét xử qua việc nghe các bên đương sự trình bày,
tranh luận; kiểm tra, xác minh các tài liệu, chứng cứ của vụ án một cách toàn diện
và khách quan; áp dụng đúng pháp luật quyết định giải quyết vụ án.
II. Nhận xét, đánh giá các quy định của pháp luật tố tụng dân sự về thủ tục
tiến hành phiên tòa sơ thẩm dân sự hiện hành
Thủ tục phiên tòa sơ thẩm được quy định tại Chương XIV Bộ luật tố tụng
dân sự (từ Điều 213 đến Điều 239) bao gồm các thủ tục: Bắt đầu phiên tòa, hỏi,
tranh luận, nghị án và tuyên án.
1. Bắt đầu phiên tòa
Thủ tục bắt đầu phiên tòa được quy định từ Điều 213 đến Điều 216 Bộ luật
tố tụng dân sự, bao gồm các thủ tục sau:
- Khai mạc phiên tòa: đây là thủ tục tố tụng bắt buộc phải thực hiện trước khi
hội đồng xét xử tiến hành xét xử, được quy định tại Điều 213 Bộ luật tố tụng dân
sự.
- Giải quyết yêu cầu thay đổi người tiến hành tố tụng, người giám định,
người phiên dịch: Theo quy định tại Điều 214 BLTTDS, trong trường hợp có người
yêu cầu thay đổi người tiến hành tố tụng, người giám định, người phiên dịch thì hội
đồng xét xử phải xem xét, nghe ý kiến của người bị thay đổi tại phiên tòa trước khi
quyết định. Quyết định thay đổi người tiến hành tố tụng, người giám định, người
phiên dịch phải được hội đồng xét xử thảo luận, thông qua theo đa số tại phòng
nghị án và lập thành văn bản.
- Xem xét, quyết định hoãn phiên tòa khi có người vắng mặt: Khi có người
tham gia tố tụng vắng mặt tại phiên tòa mà thuộc trường hợp tòa án buộc phải hoãn


phiên tòa theo quy định của Điều 215 BLTTDS thì hội đồng xét xử xem xét, quyết
định hoãn phiên tòa, và quyết định hoãn phiên tòa cũng phải được hội đồng xét xử
thảo luận, thông qua theo đa số tại phòng nghị án và phải được lập thành văn bản.

1


- Bảo đảm tính khách quan của người làm chứng: Người làm chứng biết các
tình tiết của vụ án dân sự. Những thông tin mà người làm chứng khai báo, cung cấp
cho tòa án rất có giá trị cho tòa án giải quyết vụ án. Vì vậy, Điều 216 BLTTDS đã
quy định để đảm bảo tính khách quan trong việc tham gia tố tụng của người làm
chứng.
Như vậy, các quy định về thủ tục bắt đầu phiên tòa của Bộ luật tố tụng dân
sửaát chi tiết và cụ thể. Với quy định của Bộ luật tố tụng dân sự về thủ tục bắt đầu
phiên tòa thì vai trò của Thẩm phán – chủ tọa phiên tòa là rất lớn. Tất cả các hoạt
động của Thẩm phán tại thủ tục này nhằm bảo đảm cho việc quản lý vụ án của Tòa
án được chặt chẽ, bảo đảm cho việc xét xử được đúng đối tượng, đúng thủ tục tố
tụng và những người tham gia tố tụng được biết rõ các quyền và nghĩa vụ của mình
tại phiên tòa sơ thẩm dân sự.
Về cơ bản, các Tòa án đã áp dụng đúng các quy định của pháp luật về thủ tục
bắt đầu phiên tòa. Tuy nhiên, trên thực tế do có nhiều vụ án phức tạp, đương sự gây
khó khăn nên có tình trạng phải hoãn phiên tòa nhiều lần, kéo theo việc bổ sung
phiên tòa ngoài kế hoạch. Việc xử vắng mặt đương sự tại phiên tòa nhiều trường
hợp không đúng quy định pháp luật; việc hoãn phiên tòa không đúng quy định vẫn
xảy ra.
2. Thủ tục hỏi tại phiên tòa sơ thẩm
Thủ tục hỏi tại phiên tòa sơ thẩm được quy định tại các điều từ Điều 217 đến
Điều 231 BLTTDS, bao gồm các thủ tục sau:
- Hỏi đương sự về thay đổi, bổ sung, rút yêu cầu và thỏa thuận giải quyết vụ
án: Căn cứ vào nguyên tắc tự định đoạt của đương sự thì đương sự có quyền tự

quyết định việc khởi kiện vụ án dân sự yêu cầu tòa án có thẩm quyền giải quyết. Vì
vậy, trong quá trình tố tụng, các đương sự có quyền chấm dứt, thay đổi, bổ sung các
yêu cầu của mình; có quyền thỏa thuận giải quyết với nhau về các vấn đề có tranh
chấp không trái pháp luật và đạo đức xã hội.
Theo đó, Điều 217 BLTTDS quy định trước khi hỏi về nội dung vụ án, chủ
tọa phiên tòa hỏi đương sự về vấn đề thay đổi, bổ sung, rút yêu cầu. Sau khi chủ tọa
đã hỏi các bên đương sự và dành cho họ quyền được thay đổi, bổ sung hay rút yêu
cầu thì hội đồng xét xử sẽ xem xét vấn đề này khi có đương sự đề nghị. Và để đảm
bảo quyền lợi của các đương sự, Điều 218 BLTTDS quy định hội đồng xét xử sẽ
xem xét có chấp nhận hoặc không chấp nhận yêu cầu. Trong trường hợp hội đồng
xét xử đã xem xét chấp nhận cho các bên đương sự quyền được thay đổi, bổ sung,
rút một phần hoặc toàn bộ yêu cầu thì sẽ dẫn đến việc thay đổi địa vị tố tụng của
các đương sự được quy định tại Điều 219 BLTTDS.

2


Quy định thay đổi địa vị tố tụng của các đương sự trong Điều 219 nhằm bảo
đảm việc giải quyết tranh chấp dân sự một cách nhanh chóng, tiết kiệm, hiệu quả.
Khi thay đổi địa vị tố tụng của các đương sự thì quan hệ pháp luật tranh chấp, tư
cách đương sự sẽ thay đổi nên kể từ thời điểm các đương sự thay đổi địa vị tố tụng,
quan hệ pháp luật tranh chấp được xác định theo yêu cầu của nguyên đơn mới, các
đương sự thực hiện quyền và nghĩa vụ tố tụng theo địa vị được thay đổi.
Ngoài ra, việc đương sự thỏa thuận giải quyết tranh chấp trong mọi giai đoạn
tố tụng dân được Nhà nước khuyến khích. Vì vậy Điều 220 BLTTDS quy định
trước khi xét xử vụ án chủ tọa phiên tòa hỏi xem đến thời điểm này các đương sự
có thỏa thuận được với nhau hay không, nếu các đương sự thỏa thuận được với
nhau và thỏa thuận này là tự nguyện, không trái pháp luật và đạo đức xã hội thì hội
đồng xét xử ra quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự về việc giải
quyết vụ án.

Tuy nhiên trong Bộ luật tố tụng dân sự có quy định trong trường hợp đương
sự có thay đổi, bổ sung yêu cầu của mình, thì nếu thay đổi, bổ sung yêu cầu thì yêu
cầu mới sẽ không được vượt quá phạm vi yêu cầu khởi kiện, yêu cầu phản tố hoặc
yêu cầu độc lập ban đầu. Như vậy, từ “phạm vi” trong điều luật này không nêu rõ là
phạm vi quan hệ pháp luật tranh chấp hay phạm vi về giá trị yêu cầu; và từ đó dẫn
đến nhiều cách hiểu không vượt quá yêu cầu ban đầu là không được đưa thêm yêu
cầu mới, không được tăng giá trị yêu cầu. Đây là một quy định không rõ ràng trong
Bộ luật tố tụng dân sự, dẫn đến việc giải quyết các vướng mắc liên quan đến điều
luật này chưa được triệt để và việc áp dụng không thống nhất giữa các Tòa án.
Nhận xét về thủ tục ra quyết định công nhận việc tự hòa giải của các đương
sự, khi ra quyết định công nhận sự thỏa thuận của đương sự tại phiên tòa sơ thẩm
dân sự, Hội đồng xét xử thảo luận và thông qua tại phòng xử án chứ không phải
phòng nghị án. Theo quan điểm cá nhân cho rằng, hướng dẫn của Nghị quyết số
02/2006/NQ-HĐTP là chưa hợp lý và tiếp tục giải thích theo hướng chưa hợp lý
của Bộ luật tố tụng dân sự. Dù các đương sự có thỏa thuận được một phần hay toàn
bộ nội dung vụ án thì Tòa án phải xem xét, đánh giá để xác định sự thỏa thuận đó
có tự nguyện, có trái pháp luật và trái đạo đức xã hội hay không. Trên cơ sở kết quả
xem xét, đánh giá, Hội đồng xét xử sẽ công nhận hoặc không công nhận sự thỏa
thuận của các đương sự. Quyết định của Tòa án về sự thỏa thuận của đương sự có
hiệu lực bắt buộc thi hành, vì thế, chỉ khi quyết định công nhận sự thỏa thuận của
các đương sự mới thảo luận và thông qua tại phòng nghị án mới bảo đảm được tính
chính xác, khách quan.
- Nghe đương sự trình bày về vụ án: Trong trường hợp các bên đương sự vẫn
giữ nguyên yêu cầu của họ và các bên cũng không tự thỏa thuận với nhau thì hội
đồng xét xử bắt đầu xét xử vụ án bằng việc nghe các bên đương sự trình bày về các
3


yêu cầu và tài liệu, chứng cứ liên quan đến vụ tranh chấp. Điều 221 BLTTDS quy
định trình tự các bên đương sự được trình bày việc kiện tại phiên tòa, đó là người

bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn trình bày yêu cầu, chứng cứ
chứng minh trước, nguyên đơn có quyền bổ sung ý kiến; sau đó là người bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn trình bày ý kiến, yêu cầu phản tố, chứng cứ
và bị đơn sau đó cũng có quyền bổ sung ý kiến; và cuối cùng là người bảo vệ quyền
và lợi ích hợp pháp của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trình bày.
Thủ tục các đương sự tự trình bày là điểm mới của Bộ luật tố tụng dân sự.
Các pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự, Pháp lệnh thủ tục giải quyết các
vụ án kinh tế, Pháp lệnh thủ tục giải quyết các tranh chấp lao động không quy định
thủ tục tự trình bày của các đương sự mà chỉ quy định về thủ tục xét hỏi tại phiên
tòa sơ thẩm dân sự. Điều đó có nghĩa, việc kiểm tra, xem xét, đánh giá chứng cứ tại
phiên tòa sơ thẩm dân sự hoàn toàn do Hội đồng xét xử chủ động, các đương sự ở
vị trí bị động và chỉ là người trả lời các câu hỏi của các thành viên Hội đồng xét xử.
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự chỉ có quyền giúp đỡ đương
sự về mặt pháp lý mà không có quyền thay mặt các đương sự trả lời các câu hỏi
của Hội đồng xét xử. Quy định đó đã làm hạn chế vai trò, khả năng của người bảo
vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự.
Những quy định này đã cho thấy chủ trương đổi mới hoạt động tư pháp của
Đảng và Nhà nước đã được thể chế hóa. Đó là kết quả của việc mở rộng quyền dân
chủ trong hoạt động tư pháp và vai trò của đương sự, của những người tham gia tố
tụng khác trong việc cung cấp chứng cứ cho tòa án, thực hiện nghĩa vụ chứng minh
để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình.
- Tiến hành hỏi tại phiên tòa sơ thẩm: Sau khi hội đồng xét xử nghe xong lời
trình bày cảu các bên đương sự, việc hỏi từng người về từng vấn đề của vụ án được
tiến hành ngay. Thủ tục tiến hành hỏi tại phiên tòa được quy định tại Điều 222, 223,
224, 225, 226 và 230 BLTTDS về vấn đề chủ thể, trình tự hỏi cũng như phạm vi
hỏi.
Trong quá trình xét xử tại phiên tòa, hội đồng xét xử vẫn giữ vai trò chủ
động và tích cực tham gia vào các hoạt động hỏi các đương sự, người đại diện của
đương sự, người làm chứng, người giám định…. Có thể thấy việc quy định về thủ
tục hỏi tại phiên tòa như trên là chưa thực sự hợp lý, phù hợp và tính dân chủ và

bảo vệ các quyền con người trong quá trình tham gia tố tụng chưa hoàn toàn được
bảo đảm tại phiên tòa, làm đương sự ỷ lại phụ thuộc vào tòa án, “hạn chế tính tích
cực, chủ động của đương sự trong tố tụng” vai trò của luật sư tại phiên tòa bị mờ
nhạt, toàn bộ trách nhiệm chứng minh được đặt lên vai hội đồng xét xử đặt biệt là
chủ tọa phiên tòa, còn các bên đương sự, người đại diện của đương sự, người bảo

4


vệ quyền lợi của đương sự, những người tham gia tố tụng khác chỉ tham gia vào
quá trình chứng minh ở mức độ hạn chế.
- Công bố các tài liệu của vụ án dân sự: Trong quá trình diễn ra việc hỏi tại
phiên tòa, vật chứng, ảnh hoặc biên bản xác nhận vật chứng được đưa ra để xem
xét như quy định tại Điều 229 BLTTDS. Ngoài ra, để giúp cho việc xem xét vụ án
một cách toàn diện, đầy đủ, hội đồng xét xử khi thấy cần thiết có thể công bố các
tài liệu của vụ án như quy định theo Điều 227 BLTTDS.
3. Thủ tục tranh luận tại phiên tòa sơ thẩm
Tranh luận tại phiên tòa là hoạt động trung tâm của phiên tòa, đảm bảo cho
đương sự bảo vệ được quyền, lợi ích hợp pháp của mình trước tòa án. Do đó,
BLTTDS đã quy định mở rộng quyền tranh luận của đương sự, đề cao vai trò chủ
động của đương sự trong việc tranh luận ở tại phiên tòa, từ Điều 232 đến Điều 235.
- Những người tham gia tranh luận và trình tự tranh luận: Căn cứ vào Điều
232 BLTTDS, những người tham gia tranh luận gồm có: đương sự, người đại diện
của đương sự, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự, cơ quan, tổ
chức khởi kiện. Theo đó, trình tự tranh luận sẽ là người bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của nguyên đơn phát biểu trước, nguyên đơn bổ sung ý kiến; người bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn phát biểu sau, bị đơn bổ sung và cuối cùng là
người bảo vệ quyền và lợi ích của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan phát biểu
cuối cùng.
So với pháp luật tố tụng dân sự trước khi có Bộ luật tố tụng dân sự, thứ tự

người phát biểu khi tranh luận đã có sự thay đổi. Trước đây, khi tranh luận, đương
sự trình bày quan điểm của mình về việc đánh giá chứng cứ, hướng giải quyết vụ
án trước, sau đó người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự sẽ trình bày
bổ sung (nếu có). Sự thay đổi của Bộ luật tố tụng dân sự nhằm nâng cao chất lượng,
hiệu quả của tranh luận và đề cao vai trò của người bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của đương sự. Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự là người
có kiến thức pháp lý và kinh nghiệm tranh luận tại phiên tòa. Vì thế, quy định của
Điều 232 Bộ luật tố tụng dân sự sẽ giúp cho quá trình xác định sự thật của vụ án
được nhanh chóng và chính xác hơn.
- Nội dung tranh luận: Tranh luận tại phiên tòa thể hiện tính chất dân chủ,
công khai, minh bạch của hoạt động xét xử. Các quy định của BLTTDS về tranh
luận là tạo điều kiện tối đa để các bên đương sự sử dụng các phương pháp chứng
minh để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Đổi mới hoạt động tư pháp,
trong đó có việc mở rộng tranh tụng, tăng cường khả năng tranh luận dân chủ giữa
các đương sự và những người thay mặt họ là đòi hỏi khách quan hiện nay.

5


- Căn cứ tranh luận: Căn cứ phát biểu khi tranh luận và đối đáp được quy
định tại Điều 233 BLTTDS.
Các pháp lệnh trước kia không quy định căn cứ khi tranh luận. Để tránh việc
các bên khi tham gia tranh luận chỉ dựa vào suy đoán cảm tính, tranh luận không có
căn cứ, Điều 233 BLTTDS quy định rõ khi phát biểu về đánh giá chứng cứ, đề xuất
quan điểm của mình về việc giải quyết vụ án các bên phải căn cứ vào các tài liệu,
chứng cứ đã thu thập được và đã được xem xét, kiểm tra tại phiên tòa cũng như kết
quả việc hỏi tại phiên tòa.
- Phát biểu của kiểm sát viên: Trường hợp Kiểm sát viên phát biểu tại phiên
tòa sơ thẩm dân sự được quy định tại Điều 234 BLTTDS. Nhận xét về Điều 234
theo quan điểm cá nhân, bản chất của tranh luận trong tố tụng dân sự là việc tranh

luận giữa các bên đương sự về việc giải quyết những vấn đề còn tranh chấp, mẫu
thuẫn của vụ án. Viện kiểm sát không phải là một bên tranh chấp nên nếu giữ
nguyên quy định của Điều 234 Bộ luật tố tụng dân sự thì các đương sự không tranh
luận với Kiểm sát viên về ý kiến phát biểu. Khác với tố tụng hình sự, trong tố tụng
dân sự, nếu để cho các bên đương sự đáp lại ý kiến của Viện kiểm sát về những vấn
đề mà họ không đồng ý thì có nghĩa Viện kiểm sát đã tham gia vào quá trình tranh
luận với các bên đương sự. Điều đó là trái với bản chất của tranh luận trong Tố
tụng dân sự và trái với các nguyên tắc của tố tụng dân sự. Như vậy, ý kiến phát biểu
của Kiểm sát viên chỉ là một trong các căn cứ để Hội đồng xét xử xem xét khi nghị
án. Tuy nhiên, khi mở rộng tranh tụng, quyền và nghĩa vụ của đương sự đối với
việc chứng minh yêu cầu của mình được đề cao thì kết quả tranh tụng của các bên
chính là cơ sở để Hội đồng xét xử giải quyết vụ án.
- Trở lại việc hỏi: Điều 235 BLTTDS quy định qua tranh luận nếu xét thấy có
tình tiết của vụ án chưa được xem xét, việc xem xét chưa được đầy đủ hoặc cần
xem xét thêm chứng cứ thì hội đồng xét xử quyết định trở lại việc hỏi; sau khi hỏi
xong phải tiếp tục tranh luận.
Thực tế hiện nay, thủ tục tranh luận ở nhiều phiên tòa không được tiến hành
hoặc được tiến hành rất đại khái, có nhiều trường hợp chủ tọa phiên tòa để cho
đương sự tranh luận trong quá trình thẩm vấn,… vì vậy phiên tòa không khách
quan, không có việc tranh tụng thực tế mà việc đó diễn ra một cách hình thức. Bên
cạnh đó, Tòa án chưa thực sự tôn trọng, chưa tạo điều kiện thuận lợi để luật sư đọc
hồ sơ vụ kiện; việc triệu tập phiên tòa quá gấp làm luật sư không kịp bố trí thời
gian để thực hiện các quyền và nghĩa vụ của mình trước khi mở phiên tòa hoặc tại
phiên tòa và cũng không ít trường hợp Hội đồng xét xử chưa tôn trọng, lắng nghe ý
kiến của luật sư, cá biệt còn tư tưởng coi thường vai trò của luật sư tại phiên tòa,
làm phiên tòa thiếu dân chủ.
4. Nghị án và tuyên án
6



- Nghị án: là việc hội đồng xét xử xem xét, quyết định giải quyết vụ án, được
quy định tại Điều 236 BLTTDS.
Theo khoản 2 Điều 236 Bộ luật tố tụng dân sự quy định, khi nghị án “Hội
thẩm nhân dân biểu quyết trước, Thẩm phán biểu quyết sau cùng”. Việc ưu tiên cho
Hội thẩm nhân dân phát biểu trước là nhằm tạo điều kiện cho Hội thẩm nhân dân có
được tiếng nói khách quan, vô tư về vụ án, tránh tình trạng ý kiến của Hội thẩm
nhân dân bị phụ thuộc và ý kiến của Thẩm phán hoặc Thẩm phán áp đặt ý kiến của
mình cho các Hội thẩm nhân dân. Hơn nữa, quy định này còn có ý nghĩa phát huy
vai trò và trách nhiệm của Hội thẩm nhân dân trong hoạt động tố tụng, buộc hội
thẩm nhân dân phải đầu tư thời gian nghiên cứu hồ sơ vụ án trước khi mở phiên
tòa. Điều đó sẽ giúp cho Hội thẩm nhân dân nắm vững nội dung vụ án, tham gia
một cách nghiêm túc và có hiệu quả vào việc xét xử.
Quy định tại Điều 236 của Bộ luật tố tụng dân sự là hợp lý bởi lẽ để xác định
được một vụ án là đơn giản hay phức tạp chỉ sau khi đánh giá xong tất cả các tình
tiết của vụ án. Do đó, thời hạn 5 ngày làm việc là thời hạn tối đa đối với những vụ
án cần phải có nhiều thời gian thảo luận và viết bản án. Đối với những vụ án đơn
giản thì thời gian nghị án và viết bản án sẽ do Hội đồng xét xử quyết định nên pháp
luật không ấn định trước. Vấn đề đặt ra là sẽ giải quyết như thế nào đối với những
trường hợp hết 5 ngày làm việc những Hội đồng xét xử vấn chưa thể tuyên án
được. Theo quản điểm cá nhân, cách giải quyết sẽ phụ thuộc vào kỹ năng mỗi
Thẩm phán, hợp lý nhất là quay trở lại việc hỏi, tranh luận và như thế thời gian
nghị án sẽ có thêm 5 ngày làm việc tiếp theo.
- Tuyên án: Sau khi bản án đã được thông qua, hội đồng xét xử trở lại phòng
xét xử để tuyên án. Theo Điều 239 BLTTDS thì thủ tục tuyên án có ba nội dung
mới giúp cho việc tuyên án phù hợp với thực tế hơn. Khi tuyên án, mọi người trong
phòng xử án phải đứng dậy, trừ trường hợp đặc biệt như sức khoẻ yếu, bệnh tật v.v..
không thể đứng được được phép của chủ tọa phiên tòa có thể ngồi nghe tuyên
án.Theo các pháp lệnh thủ tục trước kia thì chỉ có chủ toạ phiên toà mới được đọc
bản án. BLTTDS quy định việc tuyên án có thể do chủ tọa phiên tòa hoặc một
thành viên khác của hội đồng xét xử đứng đọc. Quy định này nhằm giải quyết tình

huống bản án quá dài một người không thể đứng đọc hoặc đến ngaỳ tuyên án sức
khoẻ của chủ toạ không tốt v.v.. Ngoài ra, BLTTDS còn quy định trong trường hợp
có đương sự không biết tiếng Việt thì sau khi tuyên án, người phiên dịch phải dịch
lại cho họ nghe toàn bộ bản án sang ngôn ngữ mà họ biết.
III. Một số kiến nghị nhầm hoàn thiện quy định của BLTTDS về phiên toà sơ
thẩm dân sự
1. Nhận xét chung về quy định pháp luật tố tụng về thủ tục tiến hành phiên tòa
sơ thẩm dân sự
7


Nhìn chung, các thủ tục tiến hành phiên tòa được quy định tương đối cụ thể,
phù hợp với thực tiễn xét xử và theo hướng tăng cường tố tụng. Tuy nhiên, Bộ luật
tố tụng dân sự không quy định thủ tục trình bày của đương sự mà quy định đan xen
trong thủ tục hỏi nên dẫn đến thủ tục phiên tòa sơ thẩm vẫn nặng về xét hỏi. Vẫn
còn một số quy định về thủ tục phiên tòa sơ thẩm dân sự chưa minh bạch, mâu
thuẫn, chưa đáp ứng được yêu cầu của thực tiễn xét xử. Trên thực tế, việc thực
hiệnc ác quy định của pháp luật Việt Nam về phiên tòa sơ thẩm dân sự là tương đối
tốt nhưng ở một số phiên tòa, thủ tục tiến hành phiên tòa sơ thẩm dân sự chưa được
tuân thủ triệt để, dẫn đến việc hoãn phiên tòa không đúng quy định vẫn diễn ra, tỷ
lệ các bản án sơ thẩm bị sửa, hủy vẫn còn cao…
2. Một số kiến nghị
Thứ nhất, khác với quy định cũ, BLTTDS đã không quy định đối với các
trường hợp nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, người bảo
vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự vắng mặt lần thứ nhất không có lý do
chính đáng là căn cứ hoãn phiên toà nhưng lại không đưa ra khái niệm thế nào là có
lý do chính đáng và cách giải quyết trong trường hợp này. Nếu không có sự hướng
dẫn thống nhất sẽ dẫn đến việc áp dụng khác nhau giữa các thẩm phán và các toà
án. Theo ý kiến cá nhân, tuỳ từng trường hợp toà án sẽ quyết định hoãn hoặc vẫn
tiến hành phiên toà. Nếu họ đã có lời khai tại toà án, các chứng cứ, tài liệu trong hồ

sơ tương đối đầy đủ thì phiên toà vẫn có thể tiến hành.
Thứ hai, theo khoản 4 Điều 230 trong trường hợp tại phiên toà khi cần thiết
phải giám định lại, giám định bổ sung thì hội đồng xét xử quyết định hoãn phiên
toà. Nhưng hoãn phiên toà là việc chuyển thời điểm tiến hành phiên toà dân sự đã
định sang thời điểm khác muộn hơn. Như vậy, hội đồng xét xử chỉ hoãn phiên toà
khi bắt đầu phiên toà tức là chưa xem xét giải quyết về mặt nội dung vụ án, còn khi
đã xem xét giải quyết về mặt nội dung vụ án nhưng cần phải thu thập thêm chứng
cứ mới có thể giải quyết được vụ án thì Hội đồng xét xử phải quyết định tạm ngừng
phiên toà. Vì vậy, theo quan điểm cá nhân đây không phải là căn cứ hoãn phiên toà
mà là căn cứ tạm ngừng phiên toà.
Thứ ba, các cơ quan nhà nước có thẩm quyền cần có hướng dẫn cách giải
quyết những vấn đề phát sinh từ việc thay đổi địa vị tố tụng của các đương sự theo
quy định của Điều 219, như tên vụ án, tư cách đương sự trong hồ sơ, quan hệ pháp
luật tranh chấp v.v.. Khi thay đổi địa vị tố tụng của các đương sự thì tư cách đương
sự trong hồ sơ, quan hệ pháp luật tranh chấp v.v.. sẽ thay đổi, vì vậy BLTTDS cần
quy định rõ kể từ thời điểm thay đổi địa vị tố tụng các đương sự thực hiện quyền và
nghĩa vụ tố tụng thêo địa vị được thay đổi đồng thời trong biểu mẫu sổ thụ lý vụ án
dân sự cần có thêm cột ghi chú tất cả những thay đổi đó.

8


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

Bộ luật tố tụng dân sự Việt Nam năm 2004;
Nghị quyết số 02/2006/NQ-HĐTP ngày 12 tháng 5 năm 2006 hướng dẫn thi hành
các quy định trong phần thứ hai “Thủ tục giải quyết vụ án tại Tòa án cấp sơ thẩm”
của Bộ luật tố tụng dân sự;
Giáo trình Luật tố tụng dân sự, Trường Đại học Luật Hà Nội;
Phiên tòa sơ thẩm dân sự - Những vấn đề lý luận và thực tiễn, TS. Bùi Thị Huyền;

Internet.

9



×