Tải bản đầy đủ (.doc) (10 trang)

Phạm vi xét xử vụ án dân sự của tòa án cấp sơ thẩm, phúc thẩm và kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật liên quan đến vấn đề này

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (81.61 KB, 10 trang )

Phạm vi xét xử của Tòa án là một chế định pháp luật quan trọng trong Pháp luật tố tụng
dân sự; xác định đúng phạm vi xét xử mới có thể tiến hành các bước tiếp theo của quá trình
tố tụng một cách chính xác. Phạm vi xét xử của Tòa án phúc thẩm đã được quy định rõ
ràng tại điều 263 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004: “Toà án cấp phúc thẩm chỉ xem xét lại
phần của bản án, quyết định sơ thẩm có kháng cáo, kháng nghị hoặc có liên quan đến việc
xem xét nội dung kháng cáo, kháng nghị”. Phạm vi xét xử sơ thẩm lại không có một quy
định cụ thể nào trong Bộ luật, tuy nhiên chúng ta có thể suy luận từ nguyên tắc quyền tự
định đoạt của đương sự: “Toà án chỉ thụ lý giải quyết vụ việc dân sự khi có đơn khởi kiện,
đơn yêu cầu của đương sự và chỉ giải quyết trong phạm vi đơn khởi kiện, đơn yêu cầu đó”.
Trong điều kiện kinh tế xã hội kinh tế thị trường phát triển như hiện nay, pháp luật về tố
tụng dân sự trong việc xác định rõ phạm vi xét xử vụ án dân sự của tòa án cấp sơ thẩm,
phúc thẩm càng trở nên quan trọng và cần thiết. Nhận thức được tính cấp thiết của đề tài,
em đã tập trung đi sâu nghiên cứu đề tài số 13: “Phạm vi xét xử vụ án dân sự của tòa án cấp
sơ thẩm, phúc thẩm và kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật liên quan đến vấn đề này”.
PHẦN I. PHẠM VI XÉT XỬ VỤ ÁN DÂN SỰ CỦA TÒA ÁN CẤP SƠ THẨM.
Phạm vi xét xử vụ án dân sự của tòa án cấp sơ thẩm không được quy định cụ thể trong một
điều luật nào như phạm vi xét xử vụ án dân sự của tòa án cấp phúc thẩm (điều 263), nhưng
theo điều 5 Bô luật tố tụng dân sự 2004 (BLTTDS) “Toà án chỉ thụ lý giải quyết vụ việc dân sự
khi có đơn khởi kiện, đơn yêu cầu của đương sự và chỉ giải quyết trong phạm vi đơn khởi kiện,
đơn yêu cầu đó”. Từ đó, chúng ta có thể hiểu phạm vi xét xử vụ án dân sự phụ thuộc vào phạm
vi đơn khởi kiện, đơn yêu cầu của đương sự. Do yêu cầu của đương sự có thể được bổ sung,
thay đổi và rút nên phạm vi xét xử của Tòa án cũng có thể bị thay đổi theo.
Trước tiên, phạm vi xét xử của Tòa án phụ thuộc vào phạm vi khởi kiện. Về phạm vi khởi
kiện, BLTTDS đã quy định mở rộng hơn so với trước, không hạn chế ở chỗ một người khởi
kiện nhiều người hoặc nhiều người khởi kiện một người về cùng một quan hệ pháp luật như
quy định tại điều 34 của Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự. Cụ thể BLTTDS quy
định được giải quyết trong cùng một vụ án các trường hợp:
* Cá nhân cơ quan tổ chức có thể khởi kiện một hoặc nhiều cá nhân, cơ quan, tổ chức khác về
một quan hệ pháp luật hoặc nhiều quan hệ pháp luật có liên quan.
* Nhiều cá nhân, cơ quan, tổ chức có thể cùng khởi kiện một cá nhân, một cơ quan, một tổ
chức khác về một quan hệ pháp luật hoặc nhiều quan hệ pháp luật có liên quan.



1


* Cá nhân, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền do Bộ luật này quy định có thể khởi kiện đối với
một hoặc nhiều cá nhân, cơ quan, tổ chức khác về một quan hệ pháp luật hoặc nhiều quan hệ
pháp luật có liên quan.
Quy định này tạo điều kiện thuận lợi cho Tòa án giải quyết các yêu cầu phát sinh từ các quan
hệ pháp luật khác nhau trong một vụ án, tiết kiệm được thời gian, công sức, tiền của Nhà nước
và đương sự.
Bên cạnh đó, Nghị quyết 02/2006 của Hội đồng thẩm phán tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn
thi hành các quy định trong Phần thứ hai "Thủ tục giải quyết vụ án tại Toà án cấp sơ thẩm" của
Bộ luật tố tụng dân sự đã quy định rõ hơn các quan hệ pháp luật có liên quan phải thuộc một
trong các trường hợp:
- Việc giải quyết quan hệ pháp luật này đòi hỏi phải giải quyết đồng thời quan hệ pháp luật
khác; Ví dụ: A khởi kiện yêu cầu Toà án buộc B phải trả lại quyền sử dụng đất. Đồng thời A
khởi kiện yêu cầu Toà án buộc C phải tháo dỡ công trình mà C đã xây dựng trên đất đó.
- Việc giải quyết các quan hệ pháp luật có cùng đương sự và về cùng loại tranh chấp quy định
trong một điều luật tương ứng tại một trong các điều 25, 27, 29 và 31 của BLTTDS. Ví dụ: A
khởi kiện yêu cầu Toà án buộc B phải trả nợ 100 triệu đồng. Đồng thời A còn khởi kiện yêu
cầu Toà án buộc B phải trả lại chiếc xe ôtô mà B thuê của A do đã hết thời hạn cho thuê.
Trong trường hợp đương sự khởi kiện về những yêu cầu không liên quan đến nhau thì tòa án
phải thụ lý giải quyết các yêu cầu của họ trong những vụ án riêng.
Cùng với quyền khởi kiện vụ án, đương sự có quyền đưa ra yêu cầu để yêu cầu Tòa án giải
quyết. Đây là quyền tố tụng rất quan trọng của đương sự, bởi vì khi quyền và lợi ích hợp pháp
của đương sự bị xâm phạm hoặc tranh chấp… thì đương sự có quyền khởi kiện hoặc không
khởi kiện vụ án. Khi đương sự thực hiện hành vi khởi kiện thì những hành vi tố tụng tiếp theo
là do các đương sự hoàn toàn quyết định. Đương sự có quyền đưa ra yêu cầu, thay đổi yêu cầu,
bổ sung yêu cầu hoặc rút yêu cầu. Căn cứ vào những yêu cầu đương sự đưa ra, Tòa án chỉ
được giải quyết vụ án trong phạm vi yêu cầu của đương sự.

Quyền đưa ra yêu cầu trong tố tụng không chỉ dừng lại ở phía nguyên đơn là người có quyền
đưa ra yêu cầu mà quyền này còn được cả đối với bị đơn. Bị đơn trong tố tụng dân sự là người
được giả thiết rằng đã vi phạm quyền hoặc tranh chấp với nguyên đơn, bị nguyên đơn khởi
kiện hoặc bị người khác khởi kiện, khởi tố theo quy định của pháp luật. Nguyên đơn, bị đơn
đều là đương sự trong vụ án dân sự, do đó nếu nguyên đơn có quyền đưa ra yêu cầu, thay đổi
yêu cầu thì Luật tố tụng dân sự cũng quy định bị đơn có quyền phản tố. Đây là trường hợp bị

2


đơn kiện lại đối với nguyên đơn, vì vậy tòa án có thể xem xét để giải quyết trong cùng một vụ
án để sơm kết thúc việc giải quyết tranh chấp. Trường hợp bị đơn có yêu cầu cùng về yêu cầu
của nguyên đơn (như yêu cầu Toà án không chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn hoặc chỉ chấp
nhận một phần yêu cầu của nguyên đơn), thì đây là ý kiến của bị đơn đối với yêu cầu của
nguyên đơn.
Ví dụ 1: Nguyên đơn A có đơn khởi kiện yêu cầu bị đơn B phải trả lại tiền thuê nhà còn nợ của
năm 2005 là 05 triệu đồng. Bị đơn B có yêu cầu đòi nguyên đơn A phải thanh toán cho mình
tiền sửa chữa nhà bị hư hỏng và tiền thuế sử dụng đất mà bị đơn đã nộp thay cho nguyên đơn
là 03 triệu đồng. Trường hợp này yêu cầu của bị đơn B được coi là yêu cầu phản tố đối với
nguyên đơn đơn A.
Ví dụ 2: Nguyên đơn C có đơn khởi kiện yêu cầu Toà án công nhận quyền sở hữu đối với một
xe ôtô và buộc bị đơn D trả lại cho mình xe ôtô đó. Bị đơn D có yêu cầu Toà án không công
nhận xe ôtô này thuộc sở hữu của C hoặc công nhận xe ôtô này thuộc sở hữu chung của C và
D. Trường hợp này yêu cầu của bị đơn D không được coi là yêu cầu phản tố đối với nguyên
đơn C.
Tuy vậy, theo điều 176 BLTTDS thì yêu cầu phản tố của bị đơn đối với nguyên đơn chỉ được
tòa án chấp nhận trong các trường hợp như sau:
+ Yêu cầu phản tố để bù trừ nghĩa vụ với yêu cầu của nguyên đơn (trường hợp bị đơn có nghĩa
vụ đối với nguyên đơn và nguyên đơn cũng có nghĩa vụ đối với bị đơn; do đó, bị đơn có yêu
cầu Toà án giải quyết để bù trừ nghĩa vụ mà họ phải thực hiện theo yêu cầu của nguyên đơn);

+ Yêu cầu phản tố được chấp nhận dẫn đến loại trừ việc chấp nhận một phần hoặc toàn bộ yêu
cầu của nguyên đơn (trường hợp bị đơn có yêu cầu phản tố lại đối với nguyên đơn và nếu yêu
cầu đó được chấp nhận, thì loại trừ việc chấp nhận một phần hoặc toàn bộ yêu cầu của nguyên
đơn vì không có căn cứ). Ví dụ: A có chiếc xe ôtô thuộc sở hữu riêng đã bán cho C, nhưng nói
với con (B) là cho C thuê mỗi tháng 05 triệu đồng. Sau đó A chết, B khởi kiện yêu cầu C phải
thanh toán tiền thuê xe trong một năm qua là 60 triệu đồng. C có yêu cầu phản tố yêu cầu Toà
án công nhận quyền sở hữu xe ôtô và có tranh chấp. Nếu Toà án chấp nhận yêu cầu phản tố của
C thì dẫn đến không chấp nhận toàn bộ yêu cầu của B đòi C thanh toán tiền thuê xe ôtô.
+ Giữa yêu cầu phản tố và yêu cầu của nguyên đơn có sự liên quan với nhau và nếu được giải
quyết trong cùng một vụ án thì làm cho việc giải quyết vụ án được chính xác và nhanh hơn (có
sự liên quan giữa yêu cầu phản tố của bị đơn và yêu cầu của nguyên đơn ở đây được hiểu là
trường hợp hai yêu cầu này có mối quan hệ với nhau và nếu được giải quyết trong cùng một vụ
án, thì làm cho việc giải quyết vụ án được chính xác và nhanh chóng hơn). Ví dụ: Chị M khởi

3


kiện yêu cầu anh N phải trợ cấp nuôi con (P) một tháng 300 ngàn đồng. Anh N có yêu cầu
phản tố yêu cầu Toà án xác định (P) không phải là con của anh.
Đương sự trong tố tụng dân sự ngoài nguyên đơn, bị đơn còn có người có quyền lợi và nghĩa
vụ liên quan. Luật tố tụng dấn sự không chỉ quy định nguyên đơn, bị đơn có quyền đưa ra yêu
cầu mà luật còn quy định người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có quyền đưa ra yêu cầu, yêu
cầu độc lập. Trong khoa học pháp lý thì người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc
lập là người tham gia vào vụ án đã xảy ra giữa nguyên đơn và bị đơn để bảo vệ quyền lợi của
mình, độc lập với yêu cầu của nguyên đơn và bị đơn. Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có
yêu cầu độc lập bởi vì họ cho rằng đối tượng tranh chấp là thuộc về họ chứ không phải là
thuộc về nguyên đơn hay bị đơn. Họ có thể chống cả nguyên đơn hoặc bị đơn hoặc cũng có thể
chỉ chống nguyên đơn hoặc bị đơn. Điều 177 BLTTDS quy định nguời có quyền lợi, nghĩa vụ
liên quan không tham gia không tham gia tố tụng với bên nguyên đơn hoặc với bên bị đơn thì
họ có quyền yêu cầu độc lập khi có đủ các điều kiện được nêu ra tại điều này. Người có quyền

lợi nghĩa vụ liên quan có quyền đưa ra yêu cầu độc lập do đó Tòa án nhân dân chỉ chỉ giải
quyết trong phạm vi lời yêu cầu của người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập,
mà không được giải quyết vấn đề khác mà họ không yêu cầu.
Theo nguyên tắc quyền tự định đoạt của đương sự, trong quá trình tố tụng, các đương sự có
quyền chấm dứt, thay đổi, bổ sung các yêu cầu của mình. Do vậy, phạm vi xét xử của phiên tòa
sơ thẩm dân sự là yêu cầu của đương sự được xác định công khai tại phiên tòa. Điều 217 Bộ
luật Tố tụng dân sự (BLTTDS) quy định trước khi hỏi về nội dung vụ án, chủ tọa phiên tòa hỏi
đương sự về các vấn đề thay đổi, bổ sung, rút yêu cầu. Sau khi tiến hành thủ tục trên, phạm vi
xét xử của Tòa án vào thời điểm này đã được xác định rõ và không thay đổi.
PHẦN II. PHẠM VI XÉT XỬ VỤ ÁN DÂN SỰ CỦA TÒA ÁN CẤP PHÚC THẨM.
Sau khi bản án, quyết định sơ thẩm được tuyên thì bản án, quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực
pháp luật ngay mà còn một thời gian để các đương sự có thể kháng cáo, viện kiểm sát có thể
kháng nghị. Tòa án cấp trên trực tiếp sẽ tiến hành xét xử lại vụ án trong trường hợp có kháng
cáo hoặc kháng nghị đối với bản án, quyết định sơ thẩm. Thủ tục xét xử lại này là phúc thẩm
dân sự. Theo đó, điều 242 Bộ luật tố tụng dân sự 2005 đã định nghĩa: “Xét xử phúc thẩm là
việc Toà án cấp trên trực tiếp xét xử lại vụ án mà bản án, quyết định của Toà án cấp sơ thẩm
chưa có hiệu lực pháp luật bị kháng cáo hoặc kháng nghị.”
Từ tính chất trên của việc xét xử phúc thẩm, phạm vi của việc xét xử phúc thẩm được quy định
tại điều 263: “Toà án cấp phúc thẩm chỉ xem xét lại phần của bản án, quyết định sơ thẩm có
kháng cáo, kháng nghị hoặc có liên quan đến việc xem xét nội dung kháng cáo, kháng nghị”.
Như vậy, bản án, quyết định sơ thẩm bị kháng cáo, kháng nghị phần nào thì chỉ phần đó là

4


chưa được thi hành và sẽ bị đưa ra xét xử theo trình tự phúc thẩm. Phần còn lại của bản án,
quyết định không bị kháng cáo, kháng nghị sẽ phát sinh hiệu lực và có hiệu lực thi hành. Trong
trường hợp bản án, quyết định sơ thẩm bị kháng cáo, kháng nghị toàn bộ thì toàn bộ bản án,
quyết định bị xét xử lại theo thủ tục phúc thẩm. Bên cạnh đó, điều luật còn quy định Tòa án
cấp phúc thẩm cũng có thể xem xét những phần khác của bản án hoặc quyết định có liên quan

đến kháng cáo, kháng nghị. Về vấn đề này, Nghị quyết số 05/2006/NQ-HĐTP của Hội đồng
thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn thi hành một số quy định trong Phần thứ ba
"Thủ tục giải quyết vụ án tại Toà án cấp phúc thẩm" của Bộ luật tố tụng dân sự đã hướng dẫn
cụ thể trường hợp có liên quan đến việc xem xét nội dung kháng cáo, kháng nghị là trường hợp
việc giải quyết kháng cáo, kháng nghị đối với phần này của bản án, quyết định sơ thẩm đòi hỏi
phải xem xét, giải quyết đồng thời phần khác của bản án, quyết định sơ thẩm đó mặc dù phần
này không bị kháng cáo, kháng nghị.
Ví dụ: Tại bản án số 45/2006/DS-ST ngày 17-3-2006, Toà án nhân dân huyện K, tỉnh H đã
quyết định xử chia di sản thừa kế của ông N cho năm thừa kế theo pháp luật của ông N. Toà án
cấp sơ thẩm còn quyết định các thừa kế của ông N phải thực hiện nghĩa vụ về tài sản do ông N
để lại đối với ông B. Sau khi xét xử sơ thẩm, ông B kháng cáo phần bản án sơ thẩm về thanh
toán nghĩa vụ tài sản mà các thừa kế của ông N phải thực hiện đối với ông B trong khối di sản
do ông N để lại. Trường hợp này việc giải quyết kháng cáo của ông B đòi hỏi phải xem xét
đồng thời phần bản án về chia di sản thừa kế của ông N cho các thừa kế theo đúng quy định
của Bộ luật dân sự là người hưởng thừa kế có trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ tài sản trong
phạm vi di sản do người chết để lại. Mặc dù vậy, không phải trường hợp kháng cáo kháng nghị
nào cũng thỏa mãn mọi điều kiện của xét xử phúc thẩm, vì có trường hợp không thuộc phạm vi
xét xử phúc thẩm. Nếu có kháng nghị, kháng cáo nhưng lại về những vấn đề chưa được xét xử
ở cấp sơ thẩm thì tòa án cấp phúc thẩm cũng không có trách nhiệm phải giải quyết vì không
thuộc phạm vi phúc thẩm vì kháng cáo kháng nghị phải nhằm vào bản án, quyết định sơ thẩm.
Một điều cần lưu ý là, kháng cáo kháng nghị cũng có thể bị thay đổi, bổ sung hoặc rút. Như
vậy, tương tự như việc thay đổi, bổ sung và rút yêu cầu trong xét xử sơ thẩm, phạm vi xét xử
của Tòa án cấp phúc thẩm có thể thay đổi nếu có sự bổ sung, thay đổi hoặc rút kháng cáo
kháng nghị và nó phụ thuộc vào thời điểm cuối cùng, trước khi Tòa án đưa vụ việc ra xét xử.
Tuy nhiên, nếu hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị theo quy định tại Điều 245 và Điều 252 của
BLTTDS, thì trước khi bắt đầu phiên toà hoặc tại phiên toà phúc thẩm người kháng cáo, Viện
kiểm sát đã kháng nghị có quyền thay đổi, bổ sung kháng cáo, kháng nghị nhưng không được
vượt quá phạm vi kháng cáo, kháng nghị đã gửi cho Toà án trong thời hạn kháng cáo, kháng
nghị; tức là lúc này phạm vi xét xử chỉ có thể giữ nguyên hoặc thu hẹp lại. Điều 256 BLTTDS
đã quy định chặt chẽ về việc thay đổi, bổ sung này không được vượt quá phạm vi kháng cáo

kháng nghị ban đầu nếu thời hạn kháng cáo, kháng nghị đã hết. Việc quy định như vậy nhằm

5


mục đích để các đương sự có thể bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình đồng thời thực
hiện nghĩa vụ đối với đối phương để họ chuẩn bị tổ chức việc biện hộ sau khi đã biết rõ thực
trạng những nội dung kháng cáo, kháng nghị.
PHẦN III. KIÊN NGHỊ NHẰM HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ PHẠM VI XÉT XỬ
VỤ ÁN DÂN SỰ CỦA TÒA ÁN CẤP SƠ THẨM, PHÚC THẨM.
1.Việc thay đổi, bổ sung yêu cầu của đương sự tại phiên tòa sơ thẩm.
Để đảm bảo quyền tự định đoạt của đương sự đồng thời tạo điều kiện cho đương sự phía bên
kia biết trước được yêu cầu của đương sự đối lập để chuẩn bị các chứng cứ, tài liệu chống lại
yêu cầu đó và thực hiện việc tranh tụng một cách tốt nhất, tại phiên toà sơ thẩm Hội đồng xét
xử (HĐXX) chỉ chấp nhận việc thay đổi, bổ sung yêu cầu của đương sự, nếu không vượt quá
phạm vi yêu cầu khởi kiện, yêu cầu phản tố hoặc yêu cầu độc lập ban đầu. Tuy nhiên, hiểu như
thế nào là “yêu cầu ban đầu” và “vượt quá yêu cầu ban đầu” là vấn đề có nhiều quan điểm
khác nhau.
2. Về “yêu cầu ban đầu”.
Nghị quyết số 02 ngày 12/5/2006 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao
(HĐTPTANDTC) hướng dẫn, “yêu cầu ban đầu là yêu cầu được thể hiện trong đơn khởi kiện
của nguyên đơn, đơn phản tố của bị đơn, đơn yêu cầu của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên
quan”. Tuy nhiên, có ý kiến lại cho rằng, yêu cầu ban đầu là yêu cầu cuối cùng được đưa ra
trước khi Toà án mở phiên toà. Phạm vi xét xử của Toà án nên được coi là quan hệ pháp luật
nội dung tranh chấp giữa các bên đương sự. Nếu giải quyết như hướng dẫn của Nghị quyết số
02, quyền tự định đoạt của các đương sự sẽ bị hạn chế. Trong giai đoạn chuẩn bị xét xử, các
hoạt động cung cấp, thu thập chứng cứ của các chủ thể nhằm mục đích cho việc giải quyết các
yêu cầu đó. Khi Toà án ra quyết định đưa ra xét xử tại phiên toà, trong giai đoạn chuẩn bị cho
việc mở phiên toà thực chất là việc Toà án nghiên cứu kỹ lại các yêu cầu, các chứng cứ, tài liệu
chứng minh cho yêu cầu đó. Nếu chấp nhận việc thay đổi, bổ sung yêu cầu trong giai đoạn này,

Toà án sẽ phải thông báo cho đương sự phía bên kia, thu thập chứng cứ… tức là lại phải có
thời gian để chuẩn bị việc xét xử cho yêu cầu mới được thay đổi, bổ sung. Điều đó sẽ làm kéo
dài quá trình tố tụng và không hợp lý. Vì vậy, cần phải hiểu yêu cầu ban đầu cùng là quan hệ
pháp luật tranh chấp được đưa ra trước khi Toà án ra quyết định đưa vụ án ra xét xử (thường là
buổi hoà giải cuối cùng).
3. Về “không vượt quá” yêu cầu ban đầu.

6


Theo quy định của Điều 217, khoản 1 Điều 218 BLTTDS tại phiên toà sơ thẩm, đương sự có
quyền thay đổi, bổ sung nếu không vượt quá phạm vi yêu cầu khởi kiện, yêu cầu phản tố, yêu
cầu độc lập ban đầu. Nhận thức về cụm từ “vượt quá” có nhiều quan điểm khác nhau. Ý kiến
thứ nhất cho rằng, theo quy định tại Điều 218 BLTTDS thì quyền thay đổi, bổ sung yêu cầu
của đương sự tại phiên toà bị hạn chế theo hướng rút bớt yêu cầu thì được còn theo hướng
thêm thì không được. Ý kiến thứ hai cho rằng, không được vượt quá yêu cầu khởi kiện, yêu
cầu phản tố, yêu cầu độc lập ban đầu là không được đưa thêm yêu cầu mới đồng thời không
được tăng giá trị yêu cầu, có nghĩa không được gây bất lợi cho các đương sự khác.
Nghị quyết số 02 ngày 12/5/2006 của HĐTPTANDTC hướng dẫn, “không được vượt quá yêu
cầu khởi kiện, yêu cầu phản tố, yêu cầu độc lập ban đầu là không vượt quá phạm vi yêu cầu
ban đầu”. Có thể thấy, hướng dẫn trên chưa làm rõ được cụm từ “phạm vi” là phạm vi quan hệ
pháp luật tranh chấp hay phạm vi về giá trị yêu cầu. Theo đó, không vượt quá yêu cầu ban đầu
là không làm xuất hiện thêm quan hệ pháp luật tranh chấp mới so với yêu cầu khởi kiện, yêu
cầu phản tố, yêu cầu độc lập ban đầu hay yêu cầu tại phiên toà không làm phát sinh thêm quan
hệ pháp luật mới.
4. Về thời điểm thực hiện quyền phản tố của bị đơn.
Quan điểm thứ nhất cho rằng: Bị đơn chỉ được thực hiện quyền yêu cầu phản tố cùng với việc
nộp văn bản ghi ý kiến của mình đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn theo khoản 1 Điều
176 BLTTDS, tức là không quá ba mươi ngày kể từ ngày bị đơn nhận được thông báo thụ lý.
Quan điểm thứ hai cho rằng: Bị đơn có quyền đưa ra yêu cầu phản tố vào bất cứ thời điểm nào

họ muốn, việc quy định nội dung thay đổi địa vị tố tụng tại Điều 219 trong thủ tục hỏi tại phiên
toà sơ thẩm đã thể hiện việc bị đơn có quyền đưa ra yêu cầu phản tố ngay tại phiên toà, HĐXX
sẽ quyết định về án phí đối với họ mà không cần phải nộp tiền tạm ứng án phí.
Quan điểm thứ ba cho rằng, bị đơn có quyền yêu cầu phản tố cho đến trước khi Toà án ra quyết
định đưa vụ án ra xét xử. Thứ nhất, nếu trước phiên toà sơ thẩm nguyên đơn có quyền đưa ra
yêu cầu và có quyền thay đổi, bổ sung yêu cầu khởi kiện không bị giới hạn bởi phạm vi đơn
khởi kiện ban đầu thì bị đơn cũng phải có quyền phản tố đối với các yêu cầu đó của nguyên
đơn; còn tại phiên toà sơ thẩm thì nguyên đơn được thay đổi, bổ sung yêu cầu khởi kiện nhưng
không được vượt quá yêu cầu khởi kiện ban đầu vì vậy bị đơn cũng chỉ có quyền thay đổi, bổ
sung yêu cầu phản tố so với yêu cầu ban đầu (nếu có) chứ không được đưa ra yêu cầu phản tố
mới. Thứ hai, nếu bị đơn thực hiện quyền phản tố trong giai đoạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm, bị
đơn vẫn thực hiện được nghĩa vụ nộp tiền tạm ứng án phí mà không phải hoãn phiên toà. Hơn
nữa, “quá trình giải quyết vụ án dân sự thường là tương đối dài nên bị đơn có điều kiện để cân
nhắc kỹ việc có đưa ra yêu cầu phản tố hay không”. Còn tại phiên toà sơ thẩm thì bị đơn mới

7


thực hiện quyền phản tố thì Toà án không thể làm thủ tục gia hạn để giải quyết vụ án bởi “việc
xét xử của Toà án… phải được tiến hành liên tục trừ thời gian nghỉ. Các thành viên của HĐXX
phải xét xử vụ án từ khi bắt đầu cho đến khi kết thúc trừ trường hợp quy định tại khoản 1 Điều
198”, trong khi đó việc giải quyết yêu cầu phản tố của bị đơn thì Toà án cũng phải tiến hành
những thủ tục cần thiết như thủ tục thụ lý đơn khởi kiện của nguyên đơn (Điều 178 BLTTDS).
Như vậy, nếu quy định bị đơn có quyền phản tố tại phiên toà sơ thẩm sẽ dẫn đến vi phạm về
thời hạn tố tụng, không đảm bảo được quyền lợi của đương sự cũng như bình đẳng giữa các
đương sự.
Trên cơ sở phân tích các nội dung trên, để quy định chặt chẽ hơn thì nên bổ sung thêm Khoản
3 Điều 176 BLTTDS theo hướng: “Bị đơn có quyền đưa ra yêu cầu phản tố cho đến trước thời
điểm mở phiên toà sơ thẩm”
5. Về việc thay đổi, bổ sung kháng cáo, kháng nghị.

Trong BLTTDS hay trong nghị quyết số 05/2006/NQ-HĐTP của Hội đồng thẩm phán Tòa án
nhân dân tối cao hướng dẫn thi hành một số quy định trong Phần thứ ba "Thủ tục giải quyết vụ
án tại Toà án cấp phúc thẩm" của Bộ luật tố tụng dân sự cũng chưa có quy định cụ thể về thế
nào là không vượt quá phạm vi kháng cáo, kháng nghị ban đầu. Phải chăng không vượt quá
phạm vi kháng cáo, kháng nghị ban đầu được hiểu là không vượt ra ngoài các nội dung cụ thể
và trong mỗi nội dung cụ thể không vượt quá mức độ, quy mô đã được đặt ra ban đầu của yêu
cầu kháng cáo, kháng nghị? Và khi đã tiến hành xét xử phúc thẩm thì lúc đó đương nhiên đã
hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị nên việc BLTTDS quy định tại phiên tòa phúc thẩm việc
thay đổi, bổ sung kháng cáo, kháng nghị không được vượt quá phạm vi kháng cáo kháng nghị
ban đầu nếu hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị được hiểu thế nào? Thiết nghĩ để áp dụng
thống nhất quy định này cơ quan nhà nước có thẩm quyền cần có hướng dẫn cụ thể.

KẾT LUẬN
Có thể nói rằng phạm vi xét xử của Tòa án là một chế định pháp luật quan trọng trong pháp
luật tố tụng dân sự. Mặc dù vậy hiện nay các quy định về phần này vẫn còn một số điểm chưa
chặt chẽ và ít nhiều gây khó khăn trong việc áp dụng. Bài viết này đã trình bày một số kiến
nghị nhỏ nhằm hoàn thiện chế định này.

8


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ luật tố tụng dân sự 2004;
2. Trường Đại học luật Hà Nội, Giáo trình Luật tố tụng dân sự Việt Nam, Nxb, Tư
pháp, Hà Nội 2005;
3. Ths. Ls Phạm Thị Thanh Nga, Hỏi đáp về thủ tục giải quyết và thi hành án dân sự (
tập 1), Nxb Lao động – xã hội, Hà Nội 2005;
4. Lg: Nguyễn Thị Minh Huệ, 266 câu hỏi và trả lời về Bộ luật tố tụng dân sự năm
2004, Nxb Lao động - xã hội, Hà Nội 2004;
5. Ts. Nguyễn Quang Hiển, Thực hiện chế độ hai cấp xét xử - cơ chế bảo vệ quyền

con người trong tố tụng dân sự, Tạp chí nghiên cứu lập pháp điện tử;
6. Ths. Nguyễn Thị Thu Hà, Bàn về phạm vi xét xử phúc thẩm vụ án dân sụ, Tạp chí
viện kiểm sát. Viện kiểm sát nhân dân tối cáo. Số 18/2010.
7. />8. />9. />
9


MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU.

1

PHẦN I. PHẠM VI XÉT XỬ VỤ ÁN DÂN SỰ CỦA TÒA ÁN SƠ THẨM

1

PHẦN II. PHẠM VI XÉT XỬ VỤ ÁN DÂN SỰ CỦA TÒA ÁN CẤP PHÚC

4

THẨM.
PHẦN III. KIẾN NGHỊ NHẰM HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ PHẠM VI
XÉT XỬ VỤ ÁN CỦA TÒA ÁN CẤP SƠ THẨM, PHÚC THẨM.

5

1. Việc thay đổi, bổ sung yêu cầu của đương sự tại phiên tòa sơ thẩm.

5


2. Về “yêu cầu ban đầu”.

6

3. Về “không vượt quá” yêu cầu ban đầu.

6

4. Về thời điểm thực hiện quyền phản tố của bị đơn.

7

5. Về việc thay đổi, bổ sung kháng cáo, kháng nghị.

7

KẾT LUẬN.

8

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

10



×