Tải bản đầy đủ (.docx) (6 trang)

Trường hợp nào nuôi con nuôi được coi là có yếu tố nước ngoài, phân tích các trường hợp đó theo quy định của pháp luật việt nam hiện hành(8điểmmm

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (171.13 KB, 6 trang )

Trường hợp nào nuôi con nuôi được coi là có yếu tố nước ngoài, phân tích các
trường hợp đó theo quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành.
1, Khái niệm nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài:
Nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài là việc nuôi con nuôi được thực hiện giữa
công dân Việt Nam với người nước ngoài, giữa người nước ngoài với nhau cùng
thường trú tại Việt Nam, giữa công dân Việt Nam với nhau mà một bên hoặc cả hai
bên định cư ở nước ngoài (khoản 5 điều 3 Luật nuôi con nuôi năm 2010).
Ví dụ: Hai vợ chồng ngôi sao Holywood là Angelina Jolie và Brad Pitt đã nhận
nuôi con nuôi người Việt Nam vào ngày 15 tháng 3 năm 2007, đứa bé tên Pax
Thiên Jolie(tên Việt Nam là Phạm Quang Sáng) là trẻ em mồ côi của trại trẻ mồ côi
Tam Bình(Thủ Đức – TP Hồ Chí Minh), vào thời điểm được nhận nuôi bé Sáng
được 3 tuổi 4 tháng.
Hai vợ chồng Angelina Jolie và Brad Pitt đều là công dân Mỹ sang Việt Nam nhận
con nuôi người Việt Nam đây là một trường hợp nuôi con nuôi được thực hiện giữa
công dân Việt Nam với người nước ngoài nên theo quy định tại khoản 5 điều 3
Luật nuôi con nuôi thì đây là trường hợp nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài.
2. Phân tích các trường hợp nuôi con nuôi được coi là có yếu tố nước ngoài
theo quy định của pháp luật Việt Nam:
Theo quy định tại Điều 28 Luật nuôi con nuôi năm 2010 thì nuôi con nuôi
được coi là có yếu tố nước ngoài khi thuộc một trong bốn trường hợp sau:
Người Việt Nam định cư ở nước ngoài, người nước ngoài thường trú ở
nước cùng là thành viên của điều ước Quốc tế về nuôi con nuôi với Việt
Nam nhận trẻ em Việt Nam làm con nuôi.
- Người Việt Nam định cư ở nước ngoài, người nước ngoài thường trú ở
nước ngoài được nhận con nuôi đích danh trong các trường hợp sau đây:
Là cha dượng, mẹ kế của người được nhận làm con nuôi;
Là cô, cậu, dì, chú, bác ruột của người được nhận làm con nuôi;
Có con nuôi là anh, chị, em ruột của trẻ em được nhận làm con nuôi;
Nhận trẻ em khuyết tật, nhiễm HIV/AIDS hoặc mắc bệnh hiểm nghèo khác
làm con nuôi;
Là người nước ngoài đang làm việc, học tập ở Việt Nam trong thời gian ít


nhất là 01 năm.
-

1


Công dân Việt Nam thường trú ở trong nước nhận trẻ em nước ngoài làm
con nuôi.
- Người nước ngoài thường trú ở Việt Nam nhận con nuôi ở Việt Nam.
Pháp luật Việt Nam coi việc nuôi con nuôi là biện pháp xã hội hữu hiệu nhằm tạo
ra mái ấm gia đình, sự yêu thương, chăm sóc, giáo dục của cha mẹ nuôi đối với
những đứa trẻ bất hạnh. Để việc nuôi con nuôi được thực hiện theo đúng mục đích
tốt đẹp đã đề ra, đồng thời đảm bảo sự quản lý chặt chẽ của Nhà nước. Vì vậy, đối
với các trường hợp nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài thì Pháp luật Việt Nam đã
có những quy định cụ thể về điều kiện nhận nuôi con nuôi, luật áp dụng và thẩm
quyền giải quyết việc nuôi con nuôi, hệ quả của việc nuôi con nuôi:
+ Về điều kiện của người nhận nuôi con nuôi:
Người nhận nuôi con nuôi trong các trường hợp nuôi con nuôi được quy định tại
Điều 28 Luật nuôi con nuôi 2010 phải đáp ứng đầy đủ những điều kiện được quy
định tại Khoản1 điều 14 của Luật nuôi con nuôi năm 2010, bao gồm:Có năng lực
hành vi dân sự đầy đủ; Hơn con nuôi từ 20 tuổi trở lên;Có điều kiện về sức khỏe,
kinh tế, chỗ ở bảo đảm việc chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con nuôi; Có tư cách
đạo đức tốt.
-

Lưu ý đối với trường hợp cha dượng nhận con riêng của vợ, mẹ kế nhận con riêng
của chồng làm con nuôi hoặc cô, cậu, dì, chú, bác ruột nhận cháu làm con nuôi thì
không áp dụng hai điều kiện là: phải hơn con nuôi từ 20 tuổi trở lên; có điều kiện
về sức khỏe, kinh tế, chỗ ở đảm bảo việc chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con nuôi.
Và không thuộc các trường hợp không được nhận con nuôi quy định tại Khoản 2

Điều 14 Luật nuôi con nuôi, như sau:Đang bị hạn chế một số quyền của cha, mẹ
đối với con chưa thành niên;Đang chấp hành quyết định xử lý hành chính tại cơ sở
giáo dục, cơ sở chữa bệnh;Đang chấp hành hình phạt tù;Chưa được xóa án tích về
một trong các tội cố ý xâm phạm tính mạng, sức khoẻ, nhân phẩm, danh dự của
người khác; ngược đãi hoặc hành hạ ông bà, cha mẹ, vợ chồng, con, cháu, người có
công nuôi dưỡng mình; dụ dỗ, ép buộc hoặc chứa chấp người chưa thành niên vi
phạm pháp luật; mua bán, đánh tráo, chiếm đoạt trẻ em.
Ngoài ra, đối với trường hợp người nhận nuôi con nuôi là người Việt Nam định cư
ở nước ngoài, người nước ngoài thường trú ở nước nước ngoài nhận người Việt
Nam làm con nuôi ngoài việc đáp ứng các điều kiện quy định tại Điều 14 Luật nuôi
con nuôi thì họ cũng phải đồng thời đáp ứng đủ các điều kiện theo quy định của
pháp luật nước nơi người đó thường trú.
Trường hợp, Công dân Việt Nam thường trú ở Việt Nam nhận trẻ em nước ngoài
làm con nuôi phải đáp ứng đầy đủ các điều kiện quy định tại Điều 14 Luật nuôi con

2


nuôi đồng thời pháp luật của nước nơi người được nhận làm con nuôi thường
trú(Khoản 4 Điều 29 Luật nuôi con nuôi).
+ Điều kiện đối với người được nhận làm con nuôi:
Theo quy định tại Điều 8 Luật nuôi con nuôi 2010 thì người được làm con nuôi là
trẻ em dưới 16 tuổi hoặc người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi nếu thuộc một trong
các trường hợp là được cha dượng, mẹ kế nhận làm con nuôi; Được cô, cậu, dì,
chú, bác ruột nhận làm con nuôi.
Công ước Lahay 1993 về bảo vệ trẻ em và hợp tác trong lĩnh vực con nuôi quốc tế
mà Việt Nam đã phê chuẩn vào ngày 18/7/2011 quy định độ tuổi cho trẻ em được
nhận làm con nuôi là 18 tuổi, còn theo quy định của pháp luật Việt Nam thì độ tuổi
này là dưới 16 tuổi, thực chất không có sự mâu thuẫn vì Công ước nhấn mạnh tính
xác định chứ không có ý tạo lập độ tuổi, các quốc gia vẫn có thể linh hoạt trong

việc điều chỉnh vấn đề này nhưng không vượt quá 18 tuổi.
Trong trường hợp công dân Việt Nam nhận trẻ em nước ngoài làm con nuôi, luật
Việt Nam không có quy định cụ thể về vấn đề điều kiện của trẻ em nước ngoài
trong trường hợp này tuy nhiên theo tinh thần của Khoản 1 Điều 105 Luật
HN&GĐ 2000, có thể hiểu rằng, luật Việt Nam được áp dụng để xác định điều kiện
được làm con nuôi của các đối tượng trẻ em là người nước ngoài thường trú tại
Việt Nam, tức là trẻ em nước ngoài nếu được nhận làm con nuôi người Việt Nam
cũng sẽ phải đáp ứng đầy đủ các điều kiện về độ tuổi theo quy định tại Điều 8 Luật
nuôi con nuôi.
Về việc hiểu thế nào là trẻ em khuyết tật, trẻ em mắc bệnh hiểm nghèo được nhận
đích danh làm con nuôi thì theo quy định tại Điểm d khoản 2 Điều 28 của Luật
Nuôi con nuôi gồm trẻ em bị sứt môi hở hàm ếch; trẻ em bị mù một hoặc cả hai
mắt; trẻ em bị câm, điếc; trẻ em bị khoèo chân, tay; trẻ em không có ngón hoặc bàn
chân, tay; trẻ em nhiễm HIV; trẻ em mắc các bệnh về tim; trẻ em bị thoát vị rốn,
bẹn, bụng; trẻ em không có hậu môn hoặc bộ phận sinh dục; trẻ em bị các bệnh về
máu; trẻ em mắc bệnh cần điều trị cả đời; trẻ em bị khuyết tật khác hoặc mắc bệnh
hiểm nghèo khác mà cơ hội được nhận làm con nuôi bị hạn chế.
+ Sự đồng ý cho làm con nuôi:
Điều 21 Luật nuôi con nuôi quy định việc nhận nuôi con nuôi phải được sự đồng ý
của cha mẹ đẻ của người được nhận làm con nuôi; nếu cha mẹ đẻ đã chết, mất tích,
mất năng lực hành vi dân sự hoặc không xác định được thì phải được sự đồng ý
của người còn lại; nếu cả cha mẹ đẻ đều đã chết. mất tích, mất năng lực hành vi
dân sự hoặc không xác định được thì phải được sự đồng ý của người giám hộ;

3


trường hợp nhận trẻ em từ đủ 9 tuổi trở lên làm con nuôi thì phải được sử đồng ý
của trẻ em đó.
Sự đồng ý này phải hoàn toàn tự nguyện, trung thực, không bị ép buộc, không bị

đe dọa hay mua chuộc, không vụ lợi, không kèm theo yêu cầu trả tiền hoặc lợi ích
vật chất khác( Khoản 3 Điều 21 Luật nuôi con nuôi).
+ Về hệ quả của việc nuôi con nuôi:
Theo quy định tại Khoản 1 Điều 37 Luật Quốc tịch VN quy định: “Trẻ em là công
dân Việt Nam được người nước ngoài nhận làm con nuôi thì vẫn giữ quốc tịch Việt
Nam”. Đồng thời, Luật quốc tịch còn quy định: “ Sự thay đổi quốc tịch của con
nuôi từ đủ 15 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi phải được sự đồng ý bằng văn bản của
người đó” (Khoản 4 Điều 37 Luật quốc tịch).
Theo Điều 24 Luật nuôi con nuôi khi được nhận làm con nuôi thì đứa trẻ Việt Nam
đó không còn quan hệ pháp lý với cha mẹ đẻ, chỉ có mối quan hệ giữa đứa trẻ đó
và cha mẹ nuôi cũng như các thành viên khác của cha mẹ nuôi.
+ Trình tự, thủ tục giải quyết:
Theo quy định của pháp luật Việt Nam, thủ tục nộp và tiếp nhận hồ sơ của người
Việt Nam định cư ở nước ngoài, người nước ngoài thường trú ở nước ngoài nhận
trẻ em Việt Nam làm con nuôi được thực hiện theo quy định tại Điều 31 của Luật
Nuôi con nuôi, Điều 17, Điều 18 của Nghị định 19/2011/NĐ - CP quy định chi tiết
thi hành một số điều của Luật nuôi con nuôi theo trình tự như sau: Người nước
ngoài, người Việt Nam định cư ỏ nước ngoài có nguyện vọng nhận con nuôi Việt
Nam thì nộp hồ sơ cho Cục Con nuôi thông qua tổ chức con nuôi của nước đó
được cấp phép hoạt động tại Việt Nam; nếu nước đó không có tổ chức con nuôi
được cấp phép hoạt động tại Việt Nam, thì người nhận con nuôi nộp hồ sơ cho Cục
Con nuôi thông qua Cơ quan đại diện Ngoại giao hoặc Cơ quan Lãnh sự của nước
đó tại Việt Nam. Sau khi nhận đủ hồ sơ của người nhận con nuôi, Cục Con nuôi
kiểm tra, thẩm định hồ sơ để xác định: Người nhận con nuôi đã được cơ quan có
thẩm quyền của nước nơi người đó thường trú bảo đảm đáp ứng đủ điều kiện nuôi
con nuôi theo pháp luật của nước đó; Người nhận con nuôi đáp ứng đủ điều kiện
nuôi con nuôi theo pháp luật Việt Nam. Khi thẩm định hồ sơ, nếu thấy cần thiết,
Cục Con nuôi lấy ý kiến của chuyên gia tâm lý, y tế, gia đình, xã hội để xác định
người nhận con nuôi có điều kiện tốt nhất để chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con
nuôi. Hồ sơ của người nhận con nuôi được chấp thuận nếu đáp ứng các yêu cầu

quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều này; trường hợp không chấp thuận, Cục Con
nuôi trả lại hồ sơ và nêu rõ lý do bằng văn bản.
Tuy nhiên đối với Trẻ em khuyết tật, trẻ em mắc bệnh hiểm nghèo thuộc
diện quy định tại khoản 1 Điều 3 NĐ 19/2011 Quy định chi tiết thi hành một số
4


điều của Luật Nuôi con nuôi, nếu được nhận làm con nuôi ở nước ngoài, thì được
miễn thủ tục thông báo tìm gia đình thay thế theo quy định tại điểm c, điểm d
khoản 2 Điều 15 và thủ tục giới thiệu trẻ em làm con nuôi theo quy định tại khoản
1 Điều 36 của Luật Nuôi con nuôi.
Theo quy định tại Điều 40 Luật nuôi con nuôi thì Công dân Việt Nam nhận
trẻ em nước ngoài làm con nuôi phải lập hồ sơ đầy đủ theo quy định tại Điều 17
của Luật nuôi con nuôi, sau đó gửi Bộ Tư pháp. Bộ Tư pháp xem xét, cấp giấy xác
nhận người nhận con nuôi có đủ điều kiện nuôi con nuôi theo quy định của pháp
luật Việt Nam trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày nhận đủ hồ sơ hợp lệ. Trường hợp
cần thiết, Bộ Tư pháp yêu cầu Sở Tư pháp nơi người đó thường trú xác minh thì
thời hạn có thể kéo dài, nhưng không quá 60 ngày. Sau khi hoàn tất các thủ tục
nhận trẻ em nước ngoài làm con nuôi, công dân Việt Nam có trách nhiệm làm thủ
tục ghi chú việc nuôi con nuôi tại Sở Tư pháp và Ủy ban nhân dân cấp xã nơi
người đó thường trú.
Trình tự, thủ tục giải quyết việc nuôi con nuôi đối với trường hợp người
nước ngoài thường trú ở Việt Nam nhận con nuôi người Việt Nam thì sẽ tuân theo
quy định tại Điều 41 Luật nuôi con nuôi theo đó: hồ sơ của người nhận con nuôi và
người được giới thiệu làm con nuôi được nộp cho Sở Tư pháp nơi người được giới
thiệu làm con nuôi thường trú. Sở Tư pháp có trách nhiệm kiểm tra hồ sơ, lấy ý
kiến của những người quy định tại Điều 21 của Luật nuôi con nuôi. Khi xét thấy
người nhận con nuôi và người được giới thiệu làm con nuôi có đủ điều kiện theo
quy định của Luật này thì Sở Tư pháp trình Ủy ban nhân dân cấp tỉnh xem xét,
quyết định. Trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được hồ sơ do Sở Tư pháp

trình, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quyết định cho người nước ngoài thường trú ở Việt
Nam nhận con nuôi; trường hợp từ chối thì phải trả lời cho người nhận con nuôi
bằng văn bản và nêu rõ lý do.
Ngay sau khi có quyết định của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, Sở Tư pháp đăng ký
việc nuôi con nuôi theo quy định của pháp luật về đăng ký hộ tịch, tổ chức lễ giao
nhận con nuôi tại trụ sở Sở Tư pháp với sự có mặt của đại diện Sở Tư pháp, người
được nhận làm con nuôi, cha mẹ nuôi, đại diện cơ sở nuôi dưỡng đối với trẻ em
được xin nhận làm con nuôi từ cơ sở nuôi dưỡng hoặc cha mẹ đẻ, người giám hộ
đối với người được xin nhận làm con nuôi từ gia đình và gửi quyết định cho Ủy
ban nhân dân cấp xã nơi thường trú của người nhận con nuôi. Trường hợp người
nhận con nuôi không đến nhận con nuôi mà không có lý do chính đáng thì Ủy ban
nhân dân cấp tỉnh hủy quyết định cho người nước ngoài thường trú ở Việt Nam
nhận con nuôi.
Việc giao nhận con nuôi phải được lập thành biên bản, có chữ ký hoặc điểm chỉ
của các bên và đại diện Sở Tư pháp.
5


Tóm
lại
,Việc xác định yếu tố nước ngoài trong quan hệ nuôi con nuôi, trước hế
tnhằm xác định thẩm quyền của các cơ quan nhà nước của Việt Nam trong việc
giải quyết các vấn đề
phát sinh. Đồng thời việc xác
định yếu tố nước
ngoài trong quan hệ nuôi con nuôi còn nhằm mục đích xem quan hệ đó có thuộc
đối tượngđiều chỉnh của tư pháp quốc tế Việt Nam hay không. Điều đó cũng giú
p cho các cơ quan chức năng có thẩm quyền của Việt Nam xác định được đúng
mối quan hệ pháp luật một khi có xảy ra các tranh chấp phát sinh liên quan đến
quan hệ nuôi con nuôi nhằm đảm bảo tốt nhất quyền và lợi ích của công dân Việ

t Nam nói chung và quyền lợi của đứa trẻ được nhận làm con nuôi nói riêng.

6



×