Bộ môn luật hình sự: module 2
Bài tiểu luận học kỳ 1- 2011
LỜI MỞ ĐẦU
Trong bối cảnh ngày càng gia tăng xu hướng hội nhập và toàn cầu hóa của các nền
kinh tế, sự phát triển mạnh mẽ của các hoạt động kinh tế thương mại giữa các quốc gia
đã tác động và làm thay đổi sâu rộng trong nhận thức đối với các học thuyết pháp lý về
hiệu lực hợp đồng, sự khẳng định ngày càng rõ rệt của xu hướng nhất thể hóa, hài hòa
hóa giữa các hệ thống pháp luật, đặc biệt là trong lĩnh vực pháp luật hợp đồng, thì việc
cần sớm tìm một cơ chế pháp lý điều chỉnh hiệu lực hợp đồng linh hoạt, phù hợp với
hoàn cảnh của Việt Nam và đáp ứng các yêu cầu của tình hình mới, là một yêu cầu cấp
bách của khoa học pháp lý, và cơ chế hardship là một sự bổ sung hợp lý và quan trọng
cho cơ chế pháp lý điều chỉnh hiệu lực hợp đồng.
- Việc xác định điều kiện có hiệu lực của một hợp đồng là rất quan trọng. Bởi kể từ khi
có đầy đủ các điều kiện để có hiệu lực của hợp đồng thì quyền và nghĩa vụ của các bên
mới phát sinh, và được pháp luật bảo vệ. Căn cứ vào các quy định hiện hành, có hiệu
lực của hợp đồng được xác định tại nhiều thời điểm khác nhau, tùy thuộc vào hình thức
của hợp đồng, tùy thuộc vào thỏa thuận của các bên, cũng như những quy định khác của
pháp luật chuyên ngành. Tuy nhiên, việc xác định điều kiên này trên thực tế cũng như
về mặt lý luận vẫn đang còn gặp nhiều khó khăn và bất cập. Đặc biệt là đối với những
loại hợp đồng mà pháp luật buộc phải tuân thủ theo một hình thức nhất định (buộc phải
công chứng, hoặc buộc phải công chứng và đăng ký với cơ quan có thẩm quyền). Đối
với những loại hợp đồng đó, việc tuân thủ hình thức là một yêu cầu bắt buộc và là một
trong những điều kiện để hợp đồng có hiệu lực (khoản 2 Điều 122, Điều 124 Bộ luật
Dân sự
- Để bổ sung kiến thức và tăng sự hiểu biết nên em xin đi tìm hiểu kĩ về vấn đề này
thông qua việc lựa chọn đề bài số 05 : “ Các điều kiện có hiệu lực của hợp đồng dân
sự theo quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành – Một số vấn đề lí luận và thực
tiễn”. Trong quá trình làm bài còn nhiều thiếu sót em kính mong thầy cô giáo góp ý
kiến để bài của em được hoàn thiện hơn.
Em chân thành cảm ơn!
1
Nguyễn Ngọc Bích
Lớp: N02 – TL2
MSSV: 352321
Bộ môn luật hình sự: module 2
Bài tiểu luận học kỳ 1- 2011
NỘI DUNG
CHƯƠNG I. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ HỢP ĐỒNG
1. Khái niệm và đặc điểm của hợp đồng
1.1. Khái niệm của hợp đồng
- Hợp đồng dân sự là sự thỏa thuận giữa các chủ thể dân sự nhằm làm phát sinh, thay
đổi, chấm dứt quyền dân sự và nghĩa vụ dân sự.
1.2. Đặc điểm của hợp đồng
- Là sự thỏa thuận thống nhất ý chí của hai hoặc nhiều chủ thể dân sự:
+ Các bên trong hợp đồng có sự khác biệt về lợi ích thỏa thuận để hướng tới tiêu cao
nhất là hai bên cùng có lợi;
+ Các chủ thể phải bày tỏ ý chí của mình dưới một hình thức nhất định;
+ Quyền và nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng (bao gồm cả trách nhiệm dân sự) do
các bên thỏa thuận (trừ các quyền, nghĩa vụ được qui định bởi pháp luật);
+ Thỏa thuận có hiệu lực là nguyên tắc bắt buộc đối với các bên trong hợp đồng;
- Mục đích của hợp đồng là nhằm làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt các quyền dân sự,
nghĩa vụ dân sự:
+ Sự thỏa thuận giữa các chủ thể là điều kiện cần nhưng chưa đủ nếu không có mục
đích làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt các quyền dân sự, nghĩa vụ dân sự;
+ Mục đích của thỏa thuận không được trái pháp luật và đạo đức xã hội.
1.3. Bản chất của hợp đồng
1.3.1. Hợp đồng là sự thỏa thuận giữa các bên
Không có hợp đồng nào mà không do thỏa thuận và không có hợp đồng nào được tạo ra
mà thiếu yếu tố thỏa thuận. Bởi vậy, có ý kiến cho rằng, “yếu tố thỏa thuận của các chủ
thể là tiền đề của hợp đồng và được xem là tuyệt đối”
- Theo Từ điển Bách khoa Việt Nam, thỏa thuận là “sự nhất trí chung được thể hiện ở
chỗ không có một ý kiến đối lập của bất cứ một bộ phận nào trong số các bên liên quan
đối với những vấn đề quan trọng và thể hiện thông qua quá trình mà mọi quan điểm của
các bên liên quan đều phải được xem xét và dung hòa.”
2
Nguyễn Ngọc Bích
Lớp: N02 – TL2
MSSV: 352321
Bộ môn luật hình sự: module 2
Bài tiểu luận học kỳ 1- 2011
- Bản chất của sự thỏa thuận của là kết quả của sự thống nhất giữa ‘ý chí’ với ‘sự bày tỏ
ý chí’ của mỗi bên, đặt trong mối liên hệ thống nhất với sự ‘ưng thuận’ tương ứng của
một hoặc các bên khác, tạo thành sự ‘đồng thuận’ của các bên, nhằm đạt một mục đích
xác định. Bởi thế, có ý kiến cho rằng, “thỏa thuận là sự trùng hợp ý muốn của các bên
về một điều gì đó mà các bên mong muốn đạt được”
- Tóm lại, thông qua sự thỏa thuận các bên đã làm nên hợp đồng, tức làm phát sinh,
thay đổi, chấm dứt quyền và nghĩa vụ giữa các bên trong hợp đồng. Vì vậy, thỏa thuận
vừa là tiền đề làm nên hợp đồng, vừa là yếu tố cơ bản cho sự tồn tại của hợp đồng
1.3.2. Hợp đồng là thỏa thuận để tạo ra sự ràng buộc pháp lý giữa các bên
- Một sự thỏa thuận không phải là hợp đồng, nếu không tạo nên hiệu lực ràng buộc giữa
các bên. Bởi vậy, dấu hiệu thứ hai thể hiện bản chất của hợp đồng là sự thỏa thuận giữa
các bên phải nhằm tạo ra một sự ràng buộc pháp lý, tức là sáng tạo ra các quyền và
nghĩa vụ mới, ngoài những quyền và nghĩa vụ luật định, hoặc làm thay đổi hay chấm
dứt các quyền, nghĩa vụ ấy.
- Như vậy, mọi hợp đồng đều là sự thỏa thuận giữa các bên, nhưng không phải sự thỏa
thuận nào của các bên cũng là hợp đồng. Chỉ những thỏa thuận tạo ra một sự ràng buộc
pháp lý mới được coi là hợp đồng. Bởi vậy, “sự thỏa thuận” và “sự tạo ra một ràng buộc
pháp lý” là hai dấu hiệu cơ bản tạo nên bản chất của hợp đồng. Nghiên cứu bản chất
hợp đồng là tiền đề lý luận để xác định các điều kiện có hiệu lực (hay tính hợp pháp)
của hợp đồng, nguyên tắc tự do hợp đồng, giá trị pháp lý của hợp đồng, trình tự giao kết
hợp đồng, thời điểm có hiệu lực của hợp đồng và các vấn đề pháp lý quan trọng khác
của chế định hợp đồng, đặc biệt là hiệu lực hợp đồng
CHƯƠNG II. ĐIỀU KIỆN CÓ HIỆU LỰC CỦA HỢP ĐỒNG
- Theo Điều 121 BLDS: “giao dịch dân sự là hợp đồng hoặc hành vi pháp lý đơn
phương làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự”.
- Như vậy, điều kiện có hiệu lực của hợp đồng dân sự chính là điều kiện có hiệu lực
của giao dịch dân sự. Điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự được xác định tại Điều
122, BLDS 2005.
3
Nguyễn Ngọc Bích
Lớp: N02 – TL2
MSSV: 352321
Bộ môn luật hình sự: module 2
Bài tiểu luận học kỳ 1- 2011
- Điều kiện có hiệu lực của hợp đồng là tổng hợp những yêu cầu pháp lý nhằm đảm bảo
cho hợp đồng được lập đúng bản chất đích thực của nó. Đây là những điều kiện cần và
cũng là tiền đề pháp lý nhằm đảm bảo cho hợp đồng được xác lập hợp pháp.
- Hiệu lực hợp đồng là một phạm trù pháp lý quan trọng, nhưng các dấu hiệu pháp lý
đặc trưng của khái niệm này chưa được làm sáng tỏ, cả về lý luận cũng như thực tiễn
pháp lý ở Việt Nam.
- Hiệu lực của hợp đồng là vấn đề pháp lý rất phức tạp, không thể chỉ qui định trong
một vài điều luật là có thể điều chỉnh hết được các vấn đề cần điều chỉnh. Tính chất
phức tạp của vấn đề hiệu lực hợp đồng được thể hiện trên toàn bộ quá trình, từ khi thiết
lập đến khi chấm dứt hợp đồng, tạo thành một cơ chế pháp lý phức hợp.
Xuất phát từ bản chất của hợp đồng, pháp luật của Việt Nam qui định hợp đồng phải
tuân thủ các điều kiện bắt buộc: chủ thể hợp đồng phải có năng lực hành vi dân sự; nội
dung, mục đích của hợp đồng không vi phạm điều cấm của pháp luật, không trái đạo
đức xã hội; các bên hoàn toàn tự nguyện. Sau đây là các điều kiện cụ thể:
1. Điều kiện về chủ thể của hợp đồng.
1.1. Chủ thể tham gia hợp đồng là cá nhân.
- Chủ thể của hợp đồng (hay chủ thể của quan hệ hợp đồng) là những người tham gia
xác lập, thực hiện hợp đồng, có quyền, nghĩa vụ phát sinh từ hợp đồng và phải chịu
trách nhiệm về việc thực hiện quyền, nghĩa vụ phát sinh từ hợp đồng đó. Để tham gia
xác lập, thực hiện hợp đồng, các hệ thống pháp luật đều qui định chủ thể phải có năng
lực chủ thể nhất định. Theo đó, yêu cầu về chủ thể tham gia hợp đồng “có năng lực
hành vi dân sự” là một trong những điều kiện tiên quyết để hợp đồng có hiệu lực. Chủ
thể tham gia giao dịch dân sự (hợp đồng) phải có “năng lực hành vi dân sự” ( điểm a,
khoản 1 Điều 122). Năng lực hành vi dân sự để tham gia xác lập, thực hiện hợp đồng
của các chủ thể khác nhau là không giống nhau.
- Đối với cá nhân:
+ Người từ đủ 18 tuổi, không bị mất năng lực hành vi dân sự và hạn chế năng lực
hành vi dân sự thì được coi là người có năng lựa hành vi dân sự đầy đủ. Người có năng
4
Nguyễn Ngọc Bích
Lớp: N02 – TL2
MSSV: 352321
Bộ môn luật hình sự: module 2
Bài tiểu luận học kỳ 1- 2011
lực hành vi dân sự đầy đủ có toàn quyền tham gia mọi giao dịch dân sự và cũng đồng
thời phải gánh chịu mọi trách nhiệm và nghĩa vụ phát sinh từ hành vi pháp lý mà họ
thực hiện. Nhưng cũng có những quy định hạn chế quyền tự định đoạt của những người
có năng lực hành vi dân sự đầy đủ nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người
được đại diện. Đó là :
- Bán, trao đổi, cho thuê, cho mượn, cho vay, cấm cố, thế chấp, đặt cọc và các giao dịch
khác đối với tài sản có giá trị lớn của người được giám hộ không được sự đồng ý của
người giám sát việc giám hộ ( Điều 69 BLDS 2005);
- Đem tài sản của người được giám hộ tặng cho người khác ( khoản 3 Điều 69 BLDS);
- Các giao dịch giữa người giám hộ và được giám hộ có liên quan đến tài sản của người
được giám hộ ( khoản 3 Điều 9 BLDS 2005);
- Tư cách chủ thể của cá nhân khi tham gia vào hợp đồng phụ thuộc vào mức độ năng
lực hành vi dân sự của họ. Theo quy định của BLDS 2005, cá nhân có năng lực hành vi
dân sự đầy đủ thì được tự mình xác lập, thực hiện các hợp đồng dân sự (Điều 19);
+ Người chưa thành niên từ đủ 6 tuổi đến dưới 18 tuổi là người có một phần năng lực
hành vi dân sự thì việc xác lập, thực hiện các hợp đồng của họ phải được người đại diện
theo pháp luật đồng ý, trừ giao dịch nhằm phục vụ nhu cầu sinh hoạt hàng ngày, phù
hợp với lứa tuổi hoặc pháp luật có quy định khác;
+ Cá nhân từ đủ 15 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi có tài sản riêng bảo đảm thực hiện nghĩa
vụ thì có thể tự mình xác lập, thực hiện giao dịch dân sự, trừ trường hợp pháp luật có
quy định khác (Điều 20);
+ Người dưới 6 tuổi và người mất năng lực hành vi dân sự là người không có năng lực
hành vi dân sự và không có quyền tham gia xác lập và thực hiện mọi giao dịch dân sự.
Tuy nhiên để đảm bảo quyền lợi chính đáng của họ, những người đại diện theo pháp
luật của họ có quyền xác lập và thực hiện các giao dịch dân sự nhằm thỏa mãn nhu cầu
vật chất hoặc tinh thần của những người này (Điều 21, 22 BLDS 2005);
5
Nguyễn Ngọc Bích
Lớp: N02 – TL2
MSSV: 352321
Bộ môn luật hình sự: module 2
Bài tiểu luận học kỳ 1- 2011
+ Người bị tòa án tuyên bố mất năng lực hành vi dân sự thì phải có người giám hộ và
mọi giao dịch liên quan đều phải được xác lập, thực hiện thông qua người giám hộ
(Điều 22);
+ Người bị tòa án tuyên bố hạn chế năng lực hành vi dân sự thì các giao dịch liên quan
tới tài sản của họ phải được sự đồng ý của người đại diện theo pháp luật, trừ các giao
dịch phục vụ nhu cầu hàng ngày, với những hợp đồng liên quan tới tài sản của người bị
hạn chế năng lực hành vi dân sự thì phải có sự đồng ý của người đại diện theo pháp luật
( Điều 23 BLDS 2005).
Như vậy, có thể nói khả năng tham gia hợp đồng dân sự của người bị hạn chế năng
lực hành vi dân sự tương đương với khả năng tham gia giao dịch dân sự của người có
năng lực hành vi dân sự một phần. Nhìn chung, để có thể xác lập, thực hiện các hợp
đồng, chủ thể là cá nhân phải có năng lực hành vi dân sự thích ứng với loại giao dịch
hoặc loại hợp đồng mà chủ thể đó tham gia.
1.2. Chủ thể tham gia hợp đồng là pháp nhân, hộ gia đình, tổ hợp tác.
- Đối với pháp nhân, hộ gia đình, tổ hợp tác: Pháp nhân là những tổ chức có đủ các
điều kiện được qui định tại Điều 84 BLDS 2005. Các pháp nhân là chủ thể đầy đủ của
quan hệ pháp luật dân sự, có năng lực chủ thể mang tính chuyên biệt, được tham gia xác
lập, thực hiện các giao dịch phù hợp với mục đích và phạm vi hoạt động của pháp nhân.
Mục đích và phạm vi hoạt động của pháp nhân được thể hiện trong điều lệ, hoặc quyết
định thành lập pháp nhân (Điều 88). Hộ gia đình và tổ hợp tác là chủ thể hạn chế của
Luật Dân sự. Hai loại chủ thể này tham gia các giao dịch phù hợp với phạm vi hoạt
động của nó. Phạm vi hoạt động của tổ hợp tác được thể hiện trong hợp đồng hợp tác
( Điều 111). Phạm vi hoạt động của hộ gia đình do pháp luật qui định (Điều 106). Pháp
nhân, hộ gia đình, tổ hợp tác là những thực thể xã hội chứ không phải là một con người
tự nhiên, nên năng lực hành vi dân sự của các chủ thể này không biểu hiện trực tiếp
bằng hành vi và ý chí của một con người cụ thể nào đó, mà được thể hiện bởi ý chung
của các thành viên và được thực hiện thông qua hành vi của người đại diện, nếu hành vi
đó được thực hiện nhân danh chủ thể, trong phạm vi đại diện, và tương ứng với phạm vi
6
Nguyễn Ngọc Bích
Lớp: N02 – TL2
MSSV: 352321
Bộ môn luật hình sự: module 2
Bài tiểu luận học kỳ 1- 2011
hoạt động của chủ thể đó. Pháp nhân, hộ gia đình, tổ hợp tác xác lập, thực hiện hợp
đồng thông qua người đại diện hợp pháp, nhưng phải đúng ‘phạm vi đại diện’ và phải
phù hợp với giới hạn về “lĩnh vực hoạt động” của các chủ thể.
2. Điều kiện về mục đích, nội dung của hợp đồng không vi phạm điều cấm của
pháp luật và không trái đạo đức xã xội.
- BLDS 2005 thừa nhận nguyên tắc tự do cam kết, thỏa thuận (Điều 4). Nhưng để bảo
vệ lợi ích của nhà nước, lợi ích của công cộng, quyền và lợi ích hợp pháp của người
khác, BLDS 2005 cũng qui định một số trường hợp hạn chế quyền tự do của các bên
trong việc thiết lập hợp đồng. Theo đó, nội dung và mục đích của hợp đồng (giao dịch
dân sự) “không được vi phạm điều cấm của pháp luật và không trái đạo đức xã hội”
(Điểm b, khoản 1 Điều 122). Hợp đồng (giao dịch dân sự) “có mục đích và nội dung vi
phạm điều cấm của pháp luật, trái đạo đức xã hội thì vô hiệu” (Điều 128).
- Điều cấm của pháp luật “là những quy định của pháp luật kh`ông cho phép chủ thể
thực hiện những hành vi nhất định”. Và, “ đạo đức xã hội là những chuẩn mực ứng xử
chung giữa người với người trong đời sống xã hội, được cộng đồng thừa nhận và tôn
trọng” ( Điều 128)
- Quy phạm đạo đức và quy phạm pháp luật cùng là những quy phạm xã hội có chung
mục đích là điều tiết hành vi con người, có chung đặc điểm là những quy tắc xử xự
chung, là tiêu chuẩn đánh giá hành vi con người. Tuy nhiên quy phạm đạo đức chỉ là
những quy phạm mang tính chất đánh giá xấu tốt, đáng khen, đáng chê…..trong đó khi
quy phạm pháp luật không chỉ là cơ sở mang tính bắt buộc cho xử sự của những người
tham gia vào quan hệ xã hội đó. Quy phạm pháp luật là quy phạm thành văn mang tính
quyền lực chính trị: thể hiện ý chí của gia cấp thống trị và được bảo đảm hực hiện bằng
sức mạnh cưỡng chế của nhà nước. Giữa pháp luật và đạo đức có mối quan hệ bổ sung,
trợ giúp cho nhau trong quá trình điều chỉnh hành vi của con người.
- Một hợp đồng dân sự muốn được coi là có hiệu lực pháp luật thì mục đích và nội dung
của hợp đồng dân sự đó phải không vi phạm điều cấm của pháp luật và không trái với
truyền thống đạo đức xã hội.
7
Nguyễn Ngọc Bích
Lớp: N02 – TL2
MSSV: 352321
Bộ môn luật hình sự: module 2
Bài tiểu luận học kỳ 1- 2011
- Khái niệm nội dung của hợp đồng là một khái niệm rất rộng. Khi xem xét về nội dung
và mục đích của hợp đồng dân sự cũng cần phải nhìn vào tính xác thực của nó có khả
thi hay không. Tính xác định và tính khả thi của hợp đồng dân sự chính là tính xác định
và tính khả thi của các điều khoản của hợp đồng dân sự, như: đối tượng của hợp đồng là
tài sản hay công việc; số lượng, chất lượng của đối tượng đó; giá và phương thức thanh
toán; thời hạn, địa điểm thực hiện hợp đồng (Điều 402). Bất kỳ điều khoản nào trong số
đó vi phạm điều cấm của pháp luật hoặc trái đạo đức xã hội thì hợp đồng cũng bị coi là
vô hiệu.
3. Điều kiện trong sự tự nguyện ( ý chí của chủ thể) trong hợp đồng.
- Đây là điều kiện được xây dựng trên cơ sở nguyên tắc “ tự do, tự nguyện cam kết,
thỏa thuận”, một trong những nguyên tắc cơ bản của luật dân sự được ghi tại Điều 4
BLDS.
- Bản chất của hợp đồng dân sự là hành vi có ý chí làm phát sinh quyền và nghĩa vụ
mà các bên mong muốn đạt được do vậy bản chất của hợp đồng dân sự là tự nguyện xác
lập hợp đồng dân sự, thể hiện qua sự thống nhất giữ ý chí và tuyên bố ý chí của chủ thể
mà không bị ảnh hưởng bởi bất kỳ một tác động từ bên ngoài.
- Tự nguyện xác lập, thực hiện hợp đồng là việc chủ thể tự mình quyết định là có
tham gia hay không tham gia vào hợp đồng theo nguyện vọng của cá nhân mình, mà
không chịu sự chi phối hay sự tác động, can thiệp chủ quan nào từ những người khác.
Pháp luật đòi hỏi những người tham gia xác lập, thực hiện hợp đồng phải hoàn toàn tự
nguyện. Tự nguyện nghĩa là phải có tự do ý chí, tự do “bày tỏ ý chí” và phải có “sự
thống nhất giữa ý chí với sự bày tỏ ý chí”. Không có tự do ý chí và sự bày tỏ ý chí hoặc
phá vỡ tính thống nhất giữa hai yếu tố này thì sẽ không có sự tự nguyện.
- Hợp đồng do chủ thể xác lập, thực hiện không tự nguyện, thì có thể bị vô hiệu hoặc
đương nhiên vô hiệu.
- Pháp luật dân sự Việt Nam dựa trên cơ sở tuyên bố ý chí chỉ ra những trường hợp giao
dịch dân sự vô hiệu do xác lập thiều sự tự nguyện của một trong các chủ thể, bao gồm :
3.1. Hợp đồng giao kết do sự giả tạo
8
Nguyễn Ngọc Bích
Lớp: N02 – TL2
MSSV: 352321
Bộ môn luật hình sự: module 2
Bài tiểu luận học kỳ 1- 2011
- Theo Điều 129 BLDS 2005: “ Điều 129 BLDS 2005 quy định: “Khi các bên xác lập
giao dịch dân sự một cách giả tạo nhằm che giấu một giao dịch khác thì giao dịch giả
tạo vô hiệu, còn giao dịch bị che giấu vẫn có hiệu lực, trừ trường hợp giao dịch đó
cũng vô hiệu theo quy định của Bộ luật này”.
- Trong trường hợp xác lập hợp đồng dân sự giả tạo nhằm chốn tránh trách nhiệm với
người thứ ba thì giao dịch dân sự đó vô hiệu”
- Như vậy có thể hiểu :
+ giao dịch được xác lập nhằm che dấu một giao dịch khác thể hiện ý chí đích thực của
chính các bên.
+ Giao dịch được xác lập trên cơ sở hành vi gian dối.
+ Giao dịch mà các bên “tự nguyện” tham gia nhưng mục đích giao dịch được thể hiện
không phù hợp với mục đích các bên thật sự quan tâm, hướng tới, mong muốn đạt được
( yếu tố giả tạo được biểu hiện thông qua dấu hiệu các bên thông đồng với nhau để tạo
nên sự thống nhất giữa ý chí và tuyên bố ý chí của các bên xác lập hợp đồng).
3.2. Hợp đồng giao kết do sự nhầm lẫn
- Nhầm lẫn là “sự không trùng hợp ý chí được thể hiện với mong muốn thật sự của
người thể hiện ý chí”. Hay nói cụ thể hơn, đó là việc một hoặc các bên hình dung sai về
sự việc, chủ thể, đối tượng hoặc các nội dung của hợp đồng nên đã xác lập hợp đồng
trái với ý nguyện đích thực của mình. Ví dụ: người mua bảo hiểm tưởng là khi mua bảo
hiểm thì được hưởng tiền bảo hiểm trong mọi trường hợp có rủi ro, nhưng thực tế là
điều khoản bảo hiểm đã có những loại trừ nên một số loại rủi ro sẽ không được bảo
hiểm. Pháp luật Việt Nam chỉ chấp nhận hợp đồng vô hiệu do nhầm lẫn về nội dung của
hợp đồng. Hợp đồng bị nhầm lẫn về nội dung có thể bị vô hiệu theo qui định tại Điều
131 BLDS 2005:
“Khi một bên có lỗi cố ý làm cho bên kia nhầm lẫn về nội dung của giao dịch dân sự
mà xác lập giao dịch thì bên bị nhầm lẫn có quyền yêu cầu bên kia thay đổi nội dung
của giao dịch đó, nếu bên kia không chấp nhận thì bên bị nhầm lẫn có quyền yêu cầu
Tòa án tuyên bố giao dịc dân sự vô hiệu.
9
Nguyễn Ngọc Bích
Lớp: N02 – TL2
MSSV: 352321
Bộ môn luật hình sự: module 2
Bài tiểu luận học kỳ 1- 2011
Trong trường hợp một bên do lỗi cố ý làm cho bên kia nhầm lẫn về nội dung của
giao dịch thì được giải quyết theo Điều 132 của Bộ luật này”
3.3. Hợp đồng được giao kết trên cơ sở của sự lừa dối, đe dọa.
- Hợp đồng xác lập do bị lừa dối: “Lừa dối trong giao dịch là hành vi cố ý của một
bên hoặc của người thứ ba nhằm làm cho bên kia hiểu sai lệch về chủ thể, tính chất của
đối tượng hoặc nội dung của giao dịch dân sự nên đã xác lập giao dịch đó” (Điều 132).
- Biểu hiện của sự lừa dối là hành vi cố ý cung cấp thông tin sai sự thật khiến cho bên
kia tin vào các thông tin đó mà xác lập hợp đồng bất lợi cho họ hoặc trái với nguyện
vọng đích thực của họ.
- Pháp luật Việt Nam qui định ba trường hợp lừa dối là lừa dối về chủ thể, lừa dối về
đối tượng và lừa dối về nội dung của hợp đồng. Khi xem xét hành vi lừa dối, tòa án
thường không chỉ dựa vào tính chất “cố ý” cung cấp thông sai sự thật của một bên mà
còn dựa vào hoàn cảnh cụ thể và khả năng nhận thức, hiểu biết của bên kia so với một
người có năng lực nhận thức bình thường. Vấn đề có hay không có sự cố ý cung cấp
thông tin sai sự thật cũng là vấn đề gây nhiều tranh cãi. Một hành vi cung cấp thông tin
sai sự thật được hiểu là một bên cố ý nói cho bên kia biết những thông tin về chủ thể,
đối tượng, nội dung của hợp đồng mà những thông tin ấy là không đúng với thực tế
khách quan, nhưng mức độ sai biệt tới đâu là lừa dối, thì có nhiều cách hiểu. Một sự im
lặng thường cũng không bị coi là lừa dối. Nhưng nếu bên cung cấp thông tin có nghĩa
vụ phải cung cấp thông tin mà vẫn im lặng nhằm mục đích bỏ qua sự thật thì cũng bị
coi là có lừa dối, hoặc chí ít cũng có lỗi làm bên kia nhầm lẫn giao kết hợp đồng .
- Hợp đồng giao kết do bị lừa dối có thể bị tòa án tuyên bố vô hiệu khi sự lừa dối đó “do
hành vi cố ý” của một bên hoặc của người thứ ba gây ra và đó là nguyên nhân “làm cho
bên kia hiểu sai lệch về chủ thể, tính chất của đối tượng hoặc nội dung” của hợp đồng
mà giao kết hợp đồng trái với nguyện vọng đích thực của họ.
- Hợp đồng xác lập bởi sự đe dọa: “ là hành vi cố ý của một bên hoặc người thứ ba là
cho bên kia buộc phải thực hiện giao dich nhằm trách thiệt hia về tính mạng, sức khỏe
danh dự, uy tín, nhân phẩm, tài sản của mình hoặc của cha, mẹ, vợ, chồng,con của
10
Nguyễn Ngọc Bích
Lớp: N02 – TL2
MSSV: 352321
Bộ môn luật hình sự: module 2
Bài tiểu luận học kỳ 1- 2011
mình” (khoản 2 Điều 132). Biểu hiện của sự lừa dối là hành vi cố ý cung cấp thông tin
sai sự thật khiến cho bên kia tin vào các thông tin đó mà xác lập hợp đồng bất lợi cho
họ hoặc trái với nguyện vọng đích thực của họ.
3.4. Hợp đồng giao kết khi một bên không nhận thức và làm chủ được hành vi.
- Xác lập hợp đồng trong lúc không nhận thức, điều khiển được hành vi: “Người có
năng lực hành vi dân sự nhưng đã xác lập giao dịch vào đúng thời điểm không nhận
thức và làm chủ được hành vi của mình thì có quyền yêu cầu Toà án tuyên bố giao dịch
dân sự đó là vô hiệu” (Điều 133). Một người bình thường, vào thời điểm giao kết hợp
đồng, đã ở trong tình trạng bị bệnh tâm thần, bệnh thần kinh tới mức không nhận thức,
điều khiển được hành vi của mình hoặc đang sử dụng chất ma túy hoặc các chất kích
thích khác dẫn đến việc mất khả năng nhận thức tạm thời… thì được xem là không tự
nguyện xác lập, giao kết hợp đồng.Vấn đề pháp lý đặt ra là người này phải chứng
minh được là vào lúc xác lập hợp đồng, họ đang ở trong tình trạng không có khả năng
nhận thức, điều khiển được hành vi của mình.
- Có thể nói rằng, “tự nguyện giao kết hợp đồng là yếu tố cơ bản để các bên xác lập
quan hệ hợp đồng” vì bản chất của hợp đồng vốn là sự thống nhất ý chí của các bên
thông qua sự thỏa thuận tự do và tự nguyện. Do vậy, hợp đồng xác lập thiếu yếu tố tự
nguyện thì đương nhiên vô hiệu (nếu được xác lập do giả tạo) hoặc có thể bị vô hiệu
(trong các trường hợp còn lại).
- Tóm lại, các yếu tố chủ thể, nội dung và mục đích, sự tự nguyện của các bên là những
yếu tố quan trọng góp phần vào quá trình hình thành và tồn tại của hợp đồng. Năng lực
hành vi của chủ thể là yếu tố nhằm đảm bảo chủ thể có tư cách độc lập để tự mình xác
lập, thực hiện hợp đồng; nội dung và mục đích là những điều khoản, căn cứ để thực
hiện hợp đồng; tự nguyện là yếu tố đảm bảm cho hợp đồng được tạo ra đúng ý chí đích
thực của các bên. Bởi vậy, đây là ba yếu tố pháp lý quan trọng được pháp luật qui định
là điều kiện bắt buộc của mọi hợp đồng- Ngoài ra còn có một số trường hợp khác xác
lập thiếu yếu tố tự nguyện cũng bắt gặp trong thực tiễn như :
+ Hợp đồng giả cách
11
Nguyễn Ngọc Bích
Lớp: N02 – TL2
MSSV: 352321
Bộ môn luật hình sự: module 2
Bài tiểu luận học kỳ 1- 2011
+ Hợp đồng tưởng tượng.
4. Điều kiện về hình thức của hợp đồng.
Hình thức là một yếu tố pháp lý quan trọng của hợp đồng, có quan hệ biện chứng với
bản chất, nội dung, giá trị hiệu lực, thời điểm có hiệu lực của hợp đồng, và là phương
tiện để diễn đạt ý chí của các bên, cũng như để chứng minh sự tồn tại của hợp đồng.
Người ta sẽ không biết đến sự tồn tại của hợp đồng, nếu nó không được thể hiện dưới
một hình thức xác định.
4.1. Khái niệm hình thức của hợp đồng.
- Hình thức bên trong của hợp đồng là sự thể hiện ra bên ngoài của các quyền và nghĩa
vụ của chủ thể, dưới dạng các điều khoản cụ thể của hợp đồng. Dưới góc độ này, ý chí
của các bên và sự thống nhất ý chí giữa các bên thường được phát biểu dưới dạng các
điều khoản cụ thể của hợp đồng.
4.2. Các hình thức của hợp đồng theo quy định của pháp luật.
- Theo qui định của BLDS 2005, hợp đồng có thể được lập bằng một trong 3 hình thức
là “lời nói, văn bản hoặc bằng một hành vi cụ thể” (khoản 1 Điều 124 và khoản 1 Điều
401) trừ những trường hợp pháp luật có qui định hình thức bắt buộc thì phải tuân theo
hình thức đó (khoản 2 Điều 124 và khoản 2 Điều 401)
4.2.1. Hình thức bằng lời nói.
- Hợp đồng bằng lời nói là những hợp đồng được giao kết dưới hình thức ngôn ngữ nói,
bằng lời hay còn gọi là hợp đồng miệng. Theo đó, các bên giao kết hợp đồng trao đổi
với nhau bằng lời nói, trực tiếp hoặc thông qua điện thoại, điện đàm, gửi thông điệp
điện tử bằng âm thanh (tiếng nói)… để diễn đạt tư tưởng và ý muốn của mình trong
việc xác lập, giao kết hợp đồng.
- Trừ những loại hợp đồng pháp luật qui định hình thức bắt buộc, các hợp đồng đều có
thể được lập bằng lời nói. Tuy vậy, để tránh trường hợp các bên liên quan phủnhận sự
tồn tại của hợp đồng, chỉ nên sử dụng hình thức hợp đồng bằng lời nói để giao kết các
hợp đồng có giá trị không lớn, với những người thân quen có sự tin cậy lẫn nhau, hoặc
12
Nguyễn Ngọc Bích
Lớp: N02 – TL2
MSSV: 352321
Bộ môn luật hình sự: module 2
Bài tiểu luận học kỳ 1- 2011
những hợp đồng được thực hiện và chấm dứt ngay lập tức, như hợp đồng mua bán tiêu
dùng hàng ngày, hợp đồng dịch vụ thông thường trong đời sống.
-Thực tiễn pháp lý cho thấy, do việc giao kết hợp đồng bằng lời nói có ưu điểm là cách
thức giao kết đơn giản, gọn nhẹ, nhanh chóng và ít tốn kém nên được sử dụng rất phổ
biến trong giao dịch dân sự. Cũng vì sự tiện lợi của cách thức giao kết này mà trên thực
tế, có nhiều hợp đồng đáng lẽ phải được lập bằng văn bản hoặc bằng văn bản có công
chứng hoặc chứng thực (chẳng hạn như hợp đồng mua bán nhà, hợp đồng thuê bất
động sản), nhưng để giản tiện, các bên cũng thường lập dưới hình thức lời nói, nên đã
dẫn đến những tranh chấp rất khó giải quyết. Ví dụ: vụ án tranh chấp về “đòi tài sản”
trong. Trên thực tế cho thấy thì rất nhiều vụ tranh chấp liên quan đến hình thức cuả hợp
đồng. Điều đó cũng nói lên nhược điểm của loại hình thức này là không bảo đảm sự an
toàn pháp lý cho các bên, giá trị chứng minh không cao và dễdẫn đến tình trạng phủ
nhận của các bên về sự tồn tại của hợp đồng nếu các bên không còn bằng chứng khác để
chứng minh về sự tồn tại của hợp đồng đó.
4.2.2. Hình thức hợp đồng bằng văn bản.
- Văn bản (truyền thống) là hình thức ngôn ngữ viết, được trình bày trên một chất
liệu hữu hình nhằm thể hiện một nội dung xác định mà người ta có thể đọc, lưu giữ và
bảo đảm được sự toàn vẹn nội dung đó. Khác với hợp đồng bằng lời nói vốn không để
lại bằng chứng (“khẩu thuyết vô bằng”), thì hợp đồng bằng văn bản đảm bảo sự thể hiện
rõ ràng ý chí các bên cũng như nội dung của từng điều khoản hợp đồng mà các bên
muốn cam kết. Ngoài ra, hợp đồng bằng văn bản cũng có thể trở thành bằng chứng hữu
hiệu khi các bên có sự tranh chấp, vì đây là hình thức có khả năng lưu giữ được ở trạng
thái gần như nguyên vẹn, trong một thời gian dài. Bởi vậy, các hợp đồng quan trọng,
hoặc có giá trị lớn, hoặc có nội dung phức tạp, hoặc có thời hạn thực hiện lâu dài… thì
thường được các bên chọn cách thể hiện bằng văn bản.
- Thực tiễn pháp lý Việt Nam có sự phân biệt giữa các loại văn bản “công chính chứng
thư” và “tư chứng thư”. Công chính chứng thư là văn bản được lập tại cơ quan công
quyền, theo thủ tục luật định (chứng nhận hoặc chứng thực), trước mặt người có thẩm
13
Nguyễn Ngọc Bích
Lớp: N02 – TL2
MSSV: 352321
Bộ môn luật hình sự: module 2
Bài tiểu luận học kỳ 1- 2011
quyền (công chứng viên, người có thẩm quyền chứng thực, hoặc nhiều khi là quan tòa,
thừa phát lại, lục sự, hoặc cơ quan lãnh sự). Tư chứng thư là văn bản do cá nhân hoặc
người đại diện của hộ gia đình, tổ hợp tác tự mình lập ra bằng văn bản viết tay hoặc
đánh máy, có chữ ký hoặc dấu vân tay của người lập ra văn bản đó, có thể có hoặc
không có người làm chứng.
- Pháp luật Việt Nam hiện hành (như Luật Công chứng 2006, Nghị định 79/2007/NĐCP ngày 18/5/2007) có qui định cụ thể về thể thức, thủ tục lập các loại “công chính
chứng thư”, nhưng lại không có những qui định rõ ràng, cụ thể về cách lập “tư chứng
thư”, trừ một số trường hợp đặc biệt, như di chúc lập bằng văn bản viết tay hoặc văn
bản nhờ người khác viết hộ trước mặt nhân chứng là có qui định cụ thể, chi tiết (Điều
649, 650, 652 và Điều 653 – 656). Về phương diện chứng cứ, văn bản được công
chứng, chứng thực có độ tin cậy cao hơn so với văn bản thông thường. Bởi vậy, trong
thực tiễn, đối với những hợp đồng quan trọng hoặc có giá trị lớn thì người ta thường lập
bằng hình thức văn bản có công chứng, chứng thực.
- Về nguyên tắc, việc chọn lựa hình thức nào để ký kết hợp đồng do các bên tham gia
hợp đồng quyết định trên cơ sở nguyên tắc tự do hợp đồng. Tuy vậy, để bảo vệ trật tự
công cộng hoặc vì lý do quản lý nhà nước, pháp luật thực định hiện hành của Việt Nam
có qui định về những hình thức bắt buộc mà hợp đồng phải tuân thủ. Sau đây là những
thể thức, thủ tục bắt buộc đối với một số loại hợp đồng chuyên biệt:
* Những loại hợp đồng bắt buộc phải được lập bằng văn bản:
- Các hợp đồng dân sự thông dụng: hợp đồng mua bán tài sản thông qua đấu giá (Khoản
2 Điều 458); hợp đồng ủy quyền trong trường hợp pháp luật có qui định ( Khoản 2 Điều
1420; hợp đồng mua bán, hợp đồng trao đổi, hợp đồng tặng cho tài sản có đăng ký
quyền sở hữu……
- Các hợp đồng bảo đảm: BLDS 2005 qui định các hợp đồng: dùng một tài sản để bảo
đảm nhiều nghĩa vụ (Điều 324), cầm cố tài sản (Điều 327), …..
- Các hợp đồng thương mại: theo quy định của luật thương mại
14
Nguyễn Ngọc Bích
Lớp: N02 – TL2
MSSV: 352321
Bộ môn luật hình sự: module 2
Bài tiểu luận học kỳ 1- 2011
- Các loại hợp đồng khác: : hợp đồng hợp tác và đầu tư, hợp đồng chuyển giao quyền
tác giả, hợp đồng chuyển giao quyền liên quan, hợp đồng chuyển giao quyền sở hữu
công nghiệp, hợp đồng chuyển quyền sử dụng đối tượng sở hữu công nghiệp, hợp
đồng chuyển giao công nghệ
Qua nội dung vừa trình bày trên đây cho thấy, rất nhiều loại hợp đồng (hơn 50 loại
hợp đồng) được pháp luật qui định phải tuân theo hình thức văn bản. Có thể nói, những
hợp đồng mà pháp luật qui định bắt buộc phải làm bằng văn bản là những loại hợp đồng
có nội dung phức tạp cần phải được thể hiện ra bằng những điều khoản cụ hể, chi tiết để
quá trình thực hiện hợp đồng được thuận lợi, dễ dàng hơn và hạn chế sự ranh chấp về
quyền và nghĩa vụ của các bên giao kết hợp đồng. Thông thường, đối với các loại hợp
đồng này, nhà làm luật còn qui định thêm nội dung và các điều khoản cụ thể của hợp
đồng nhằm định hướng cho các bên khi lập hợp đồng, tạo căn cứ pháp lý cho việc thực
hiện hợp đồng và giải quyết tranh chấp giữa các bên sau này.
* Những hợp đồng bắt buộc phải được lập thành văn bản có công chứng,
chứng thực, đăng ký hoặc xin phép:
- Ngoài việc bắt buộc hình thức hợp đồng bằng văn bản, pháp luật còn qui định một số
loại hợp đồng bắt buộc phải được lảm theo thủ tục đặc biệt, như phải lập thành văn bản
có công chứng, chứng thực hoặc phải đăng ký hoặc xin phép. Khoản 2 Điều 401 BLDS
2005 qui định: “Trong trường hợp pháp luật có quy định hợp đồng phải được thể hiện
bằng văn bản có công chứng hoặc chứng thực, phải đăng ký hoặc xin phép thì phải
tuân theo các quy định đó...”. Các hình thức, thủ tục bắt buộc gồm:
- Hợp đồng lập bằng văn bản có công chứng hoặc chứng thực. Theo qui định của BLDS
2005, các hợp đồng phải lập thành văn bản có công chứng, chứng thực, bao
gồm: hợp đồng hợp tác, hợp đồng liên quan đến quyền xử dụng đất, tài sản trên đất,…
(theo quy định của luật đất đai).
- Những hợp đồng phải đăng ký hoặc xin phép, gồm: các giao dịch bảo đảm qui định tại
khoản 2 Điều 323 BLDS 2005 phải được đăng ký theo qui định của pháp luật; hợp đồng
cho thuê nhà, hợp đồng cho thuê, góp vốn, thế chấp và bảo lãnh bằng quyền sử dụng đất
15
Nguyễn Ngọc Bích
Lớp: N02 – TL2
MSSV: 352321
Bộ môn luật hình sự: module 2
Bài tiểu luận học kỳ 1- 2011
Nhìn chung, các hợp đồng chuyển nhượng quyền sở hữu, quyền sử dụng hoặc thế
chấp có đối tượng là các loại tài sản quan trọng mà việc chiếm hữu, sử dụng của nó liên
quan đến an ninh quốc gia, trật tự công cộng hoặc các tư liệu sản xuất quan trọng có ảnh
hưởng đến nền kinh tế quốc dân đều cần phải có sự kiểm soát của cơ quan nhà nước có
thẩm quyền hoặc công bố và ghi chép trong sổ bộ của các cơ quan quản lý nhà nước
trong lĩnh vực có liên quan.
* Thông điệp dữ liệu - một dạng đặc biệt của hình thức bằng văn bản
- Ngoài hình thức văn bản truyền thống, pháp luật hiện hành Việt Nam cũng thừa nhận
một thể thức tương đương văn bản, đó là thông điệp dữ liệu. Các hợp đồng, giao dịch
bằng hình thức thông điệp dữ liệu được ghi nhận trong BLDS 2005 (khoản 1 Điều 124)
- Theo khoản 1 Điều 124 BLDS 2005, thì “Giao dịch dân sự thông qua phương tiện
điện tử dưới hình thức thông điệp dữ liệu được coi là giao dịch bằng văn bản”.
- Như vậy, cũng giống như văn bản truyền thống, thông điệp dữ liệu muốn được công
nhận phải đáp ứng được những yêu cầu kỹ thuật và pháp lý nhất định, sao cho bảo đảm
tính nguyên gốc (phản ánh trung thành với bản gốc đã khởi tạo lần đầu tiên) và sự toàn
vẹn về nội dung thông tin (không bị sửa chữa, thay đổi, cắt xén hoặc đưa thêm thông
tin khác vào), có thể lưu trữ và truy cập để tham chiếu khi cần thiết…
- Như vậy, đối với những chứng từ xác nhận các sự kiện cụ thể liên quan đến hoặc gắn
với quyền nhân thân của cá nhân, xác nhận quan hệ gia đình, các tài sản đặc biệt như
tiền tệ, các chứng từ chứng minh như giấy tờ có giá, chứng từ chứng nhận quyền sở hữu
tài sản có thể chuyển nhượng được, thì không lập bằng chứng từ điện tử là phải được
lập bằng văn bản truyền thống, được tạo nên từ chất liệu hữu hình và có những biện
pháp kỹ thuật chống làm giả và chống sao chụp, trong những trường hợp phải xuất trình
bản gốc để tham chiếu hoặc chứng minh.
4.2.3. Hình thức hợp đồng bằng hành vi cụ thể.
- Với ý nghĩa là phương tiện công bố ý chí của các bên hợp đồng, hình thức của hợp
đồng còn bao gồm cả việc biểu hiện ý chí của chủ thể ra bên ngoài bằng một hành vi cụ
thể - đó là hành động, là xử sự có ý thức của các bên.
16
Nguyễn Ngọc Bích
Lớp: N02 – TL2
MSSV: 352321
Bộ môn luật hình sự: module 2
Bài tiểu luận học kỳ 1- 2011
Hành vi cụ thể là một hình thức thể hiện của hợp đồng, hiểu theo nghĩa hẹp. Bởi lẽ, việc
tuyên bố ý chí bằng lời nói hay bằng chữ viết, suy cho cùng, cũng đều bằng hành vi của
con người. Tuy vậy, hình thức hợp đồng bằng hành vi cụ thể được nói đến trong trường
hợp này không phải được diễn đạt bằng lời nói hay chữ viết mà chỉ được thể hiện bằng
một hành động thuần túy.
- Thông thường, hình thức hợp đồng bằng hành vi cụ thể được sử dụng khi bên thực
hiện hành vi giao kết hợp đồng đã biết rõ nội dung của hợp đồng và chấp nhận tất cả
các điều kiện mà bên kia đưa ra, và bên kia không loại trừ việc trả lời bằng hành vi,
hoặc không đưa ra một yêu cầu rõ ràng về hình thức của sự trả lời chấp nhận.
- Hình thức hợp đồng bằng hành vi cụ thể được thể hiện ra bên ngoài khá đa dạng.
Hành vi cụ thể thường được sử dụng để xác lập các hợp đồng thông dụng, được thực
hiện ngay, và trở thành thói quen phổ biến của lĩnh vực hoạt động liên quan, tại nơi giao
dịch được xác lập.
4.3. Mối quan hệ giữa hình thức của hợp đồng với hiệu lực của hợp đồng.
4.3.1. Hình thức của hợp đồng là điều kiện có hiệu lực của hợp đồng, nếu pháp luật có
quy định.
- Một trong những ảnh hưởng quan trọng của hình thức đối với hiệu lực hợp đồng là
việc xem hình thức hợp đồng là một trong các điều kiện có hiệu lực của hợp đồng, nếu
pháp luật có qui định (15, khoản 2 Điều 122). Theo đó, hình thức không phải là điều
kiện có hiệu lực đương nhiên của hợp đồng, mà chỉ là điều kiện có hiệu lực của hợp
đồng khi pháp luật qui định. Trong trường hợp đó, để được coi là hợp đồng hợp pháp và
phát sinh hiệu lực, thì hợp đồng phải được lập tuân thủ các điều kiện luật định, trong đó
phải tuân thủ đúng qui định về hình thức hợp đồng.
- Khi pháp luật qui định hợp đồng phải được lập theo một hình thức xác định thì các
bên phải tuân thủ. Nếu hợp đồng không được lập đúng hình thức luật định, thì hợp đồng
đó bị coi là vi phạm “điều kiện” về hình thức. Hậu quả pháp lý của hợp đồng bịvi phạm
về hình thức là hợp đồng đó chưa được coi là hợp pháp và có hiệu lực. Ví dụ: pháp luật
qui định hợp đồng chuyển quyền sử dụng đất phải được lập thành văn bản có công
17
Nguyễn Ngọc Bích
Lớp: N02 – TL2
MSSV: 352321
Bộ môn luật hình sự: module 2
Bài tiểu luận học kỳ 1- 2011
chứng hoặc chứng thực (15, khoản 2 Điều 689). Như vậy, trong một số trường hợp luật
định thì hình thức của hợp đồng là một trong những yếu tố pháp lý quyết định hiệu lực
của hợp đồng
4.3.2. Hình thức của hợp đồng là cơ sở để xác định thời điểm có hiệu lực của hợp đồng.
- Việc qui định bắt buộc về hình thức thể hiện, pháp luật cũng qui định thời điểm giao
kết hoặc thời điểm có hiệu lực của hợp đồng dựa trên sự thể hiện ý chí hoàn tất ở một
mức độ nhất định, thể hiện qua các hình thức công bố ý chí bằng những biểu -hiện cụ
thể của hình thức hợp đồng.
- Điều 404 BLDS 2005: hầu hết các trường hợp, pháp luật qui định thời điểm giao kết
hợp đồng đều dựa vào hình thức của hợp đồng: (1) Hợp đồng bằng lời nói được giao
kết vào thời điểm các bên đã thỏa thuận về nội dung của hợp đồng; (2) Hợp đồng bằng
văn bản được giao kết vào thời điểm bên sau cùng ký vào văn bản; và (3) Nếu các bên
có thỏa thuận im lặng là sự trả lời, thì hợp đồng được giao kết vào thời điểm hết thời
hạn trả lời mà bên được đề nghị vẫn im lặng.
- Mặt khác, theo qui định của BLDS 2005 hình thức hợp đồng cũng quyết định thời
điểm có hiệu lực của hợp đồng, nhất là đối với những hợp đồng có hình thức bắt buộc,
hoặc thời điểm có hiệu lực của hợp đồng trong trường hợp pháp luật có qui định khác.
Ví dụ: hợp đồng tặng cho bất động sản hoặc động sản có đăng ký quyền sở hữu (Điều
466), hợp đồng chuyển quyền sử dụng đất (Điều 692),..Như vậy, thực tiễn pháp lý cũng
có những lựa chọn về thời điểm giao kết hợp đồng dựa vào hình thức, thủ tục nhất định
4.3.3. Hợp đồng được công chứng, chứng thực, hoặc đăng ký thì có giá trị pháp lý “đối
kháng” với người thứ ba.
- Về nguyên tắc, hợp đồng được lập bằng văn bản không có công chứng, chứng thực thì
không có giá trị đối kháng với người thứ ba, vì các bên có thể thông đồng đểlập hợp
đồng giả tạo nhằm “lẩn tránh” pháp luật, hoặc để “qua mặt” người thứ ba. Ví dụ: Đối
với những hợp đồng chuyển nhượng tài sản có đăng ký quyền sở hữu, các giao dịch bảo
đảm, các hợp đồng chuyển nhượng tài sản đang cho thuê, hoặc tài sản đang được dùng
để bảo đảm, hoặc một tài sản được chuyển nhượng cho nhiều người, hoặc các tài sản
18
Nguyễn Ngọc Bích
Lớp: N02 – TL2
MSSV: 352321
Bộ môn luật hình sự: module 2
Bài tiểu luận học kỳ 1- 2011
đang bị tranh chấp, hoặc các tài sản đang trong quá trình xử lý phá sản doanh
nghiệp…, nếu được thể hiện bằng lời nói hoặc bằng “giấy tay” thì không có giá trị ‘đối
kháng’ với những người thứ ba có liên quan.
- Trên cơ sở bảo vệ người thứ ba ngay tình và lợi ích của xã hội, phòng ngừa các trường
hợp lừa đảo, tẩu tán tài sản, để hợp đồng có giá trị đối kháng với người thứ ba, nhà
làm luật qui định một số hợp đồng phải tuân theo những hình thức, thủ tục nhất định:
công chứng, chứng thực hoặc đăng ký. Các hợp đồng được lập theo thủ tục chứng
thực, công chứng, đăng ký thường có giá trị tin cậy cao và an toàn pháp lý.
- Như vậy, để được người thứ ba thừa nhận và tôn trọng giá trị pháp lý, các giao dịch
bảo đảm phải được lập thành văn bản và phải được đăng ký, nếu pháp luật có qui định
như các trường hợp vừa nêu. Thông qua việc đăng ký, các bên trong hợp đồng đã
thôngtin cho người thứ ba biết về tài sản dùng làm đối tượng bảo đảm đã được sử 66
dụng vào việc bảo đảm. Mọi giao dịch về tài sản đó sau thời điểm đăng ký giao dịch
bảo đảm đều không có giá trị pháp lý, hoặc có thứ tự ưu tiên kém hơn so với bên đã
đăng ký giao dịch bảo đảm trước đó.
- Tóm lại, hợp đồng không tuân hình thức, thủ tục luật định có thể không làm hợp
đồng mất hiệu lực ràng buộc đối với các bên, nhưng không có hiệu lực “đối kháng”
với người thứ ba trong trường hợp có xung đột lợi ích với người thứ ba.
CHƯƠNG III. THỰC TRẠNG ÁP DỤNG QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ
ĐIỀU KIỆN CÓ HIỆU LỰC CỦA HỢP ĐỒNG VÀ PHƯƠNG HƯỚNG HOÀN
THIỆN.
- Hợp đồng dân sự là phương tiện quan trọng và phổ biến trong đời sống xã hội, nó xuất
hiện hàng ngày hàng giờ và mọi nơi. Nên việc vận dụng nó vào thực tiễn hết sức quan
trọng cần đòi hỏi một kiến thức pháp lí vững chắc. Bộ luật dân sự năm 2005 có nhiều
ưu điểm so với năm 1999. Tuy nhiên, việc quy định và áp dụng chưa thực sự mang
đúng giá trị đích thực mà pháp luật muốn đem lại. Sau đây là một số thực trạng và
phương hướng hoàn thiện mà theo đánh giá của em.
19
Nguyễn Ngọc Bích
Lớp: N02 – TL2
MSSV: 352321
Bộ môn luật hình sự: module 2
Bài tiểu luận học kỳ 1- 2011
1. Thực trạng và nhận xét một số thiếu sót về điều kiện có hiệu lực của hợp đồng
theo quy định của pháp luật ở Việt Nam hiện nay.
- Nhìn chung thì trên thực tế việc áp dụng những quy định về điều kiện có hiệu lực của hợp
đồng đã được mọi người tìm hiểu và áp dụng phổ biến. Về điều kiện chủ thể, điều kiện về
mục đích, nội dung, điều kiện trong sự tự nguyện của hợp đồng được nhìn nhận và vận
dụng vào trong thực tế tương đối đúng cách, hợp lí, linh động.
- Tuy nhiên, do sự đa dạng về hình thức hợp đồng – đây là vấn đề nhạy cảm dễ nhầm lẫn
giữa các thoản thuận và quy định của pháp luật, đồng thời thực tiễn những người áp dụng
chưa thực sự hiểu và nắm vững luật định và được qui định tại các Điều 122, 124, 401
BLDS 2005. Các quy định có những điểm bất cập cần phải được làm rõ. Cụ thể: Qui định
tại khoản 2 Điều 122 Bộ luật Dân sự 2005 là chưa đầy đủ, không dự liệu khả năng khi các
bên có thỏa thuận lựa chọn hình thức hợp đồng là điều kiện có hiệu lực của hợp đồng.
- Qui định tại khoản 1 Điều 401 còn dài dòng, và chưa linh hoạt, chưa dự liệu: vì việc các
bên sử dụng bất kỳ hình thức nào, hoặc sử dụng đồng thời nhiều hình thức khác nhau để
giao kết hợp đồng là một thực tế phổ biến. Cách trình bày bằng việc liệt kê một danh sách
đóng các hình thức hợp đồng sẽ làm cho điều khoản này trở nên kém linh hoạt.
2. Phương hướng hoàn thiện những quy định về điều kiện có hiệu lực của hợp
đồng theo pháp luật ở Việt Nam.
- Sửa đổi, bổ sung những bất cập của một số Điều và khoản trong BLDS 2005 để qui
định này trở nên linh hoạt, đầy đủ và tương thích hơn so với qui định về hợp đồng trong
các bộ luật khác chuyên ngành như : Bộ nguyên tắc về hợp đồng thương mại quốc tế;
sửa đổi, bổ sung làm cho nội dung của Điều luật này trở nên ngắn gọn và thống nhất với
các qui định khác; hoặc có thể bỏ đoạn 2 khoản 2 Điều 401; bổ sung khoản 3 Điều 401;
sửa đổi, bổ sung Điều 134 BLDS 2005 theo hướng bãi bỏ cách giải quyết hậu quả pháp
lý của giao dịch vô hiệu như hiện nay, và thay vào đó là đường lối giải quyết mới, bằng
cách qui định các căn cứ cụ thể để công nhận, hoặc không công nhận giá trị pháp lý của
giao dịch, nếu giao dịch bị vi phạm hình thức mà các bên có tranh chấp.
20
Nguyễn Ngọc Bích
Lớp: N02 – TL2
MSSV: 352321
Bộ môn luật hình sự: module 2
Bài tiểu luận học kỳ 1- 2011
C. KẾT LUẬN
Hiệu lực hợp đồng là giá trị pháp lý của hợp đồng nhằm làm phát sinh các quyền và
nghĩa vụ của các bên tham gia, và hiệu lực rằng buộc mang tính cưỡng chế của hợp
đồng nhằm buộc các bên phải tôn trọng và phải thi hành nghiêm túc các quyền và nghĩa
vụ đó. Hiệu lực của hợp đồng cũng là nội dung cốt lõi thể hiện bản chất của hợp đồng.
Điều kiện có hiệu lực của hợp đồng với tính chất là điều kiện để bảo cho hợp đồng được
lập hợp pháp và có giá trị pháp lý. Vấn đề các điều kiện có hiệu lực của hợp đồng đã
được qui định khá cụ thể trong luật thực định.
21
Nguyễn Ngọc Bích
Lớp: N02 – TL2
MSSV: 352321
Bộ môn luật hình sự: module 2
Bài tiểu luận học kỳ 1- 2011
D. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ luật Dân sự Việt Nam 2005.
2. Giáo trình luật dân sự Việt Nam (tập hai), Trường Đại học Luật Hà Nội, Nxb. Công
an nhân dân, năm 2006.
3. Giáo trình luật dân sự Việt Nam (tập hai),TS. Lê Đình Nghị ( chủ biên), TS. Nguyễn
Thị Nga, ThS. Nguyễn Bá Bình, ThS. Vũ Thị Hồng Yến, Nxb. Giáo dục, năm 2009.
2. Nguyến Mạnh Bách, Pháp lệnh về hợp đồng, Nxb. Chính trị quốc gia,Hà Nội, năm
1995.
4. Ngô Huy Cương, Khái niệm hiệu lực của nghĩa vụ và vấn đề thực hiện nghĩa vụ,
Nhà nước và Pháp luật, số 8/2008.
5. Bùi Ngọc Cường, Một số vấn đề hoàn thiện pháp luật về hợp đồng ở Việt Nam,
Nhà nước và Pháp luật, số 5 (205) tháng 5/2005,
6. Nguyễn Văn Cường, Giao dịch dân sự vô hiệu và hậu quả pháp lý của giao dịch
dân sự vô hiệu, Luận án TS Luật học, ĐH Luật Hà Hội, năm 2005.
22
Nguyễn Ngọc Bích
Lớp: N02 – TL2
MSSV: 352321