Tải bản đầy đủ (.docx) (16 trang)

Trách nhiệm kỷ luật của công chức – Thực trạng và hướng hoàn thiện

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (112.17 KB, 16 trang )

MỤC LỤC
A.MỞ ĐẦU:.........................................................................................................1
B.NỘI DUNG.......................................................................................................2
I. TRÁCH NHIỆM KỶ LUẬT CÔNG CHỨC................................................2
1. Định nghĩa công chức:............................................................................2
2. Phân tích trách nhiệm kỷ luật công chức..................................................2
II. ĐÁNH GIÁ THỰC TIỄN VIỆC TRUY CỨU TRÁCH NHIỆM KỶ LUẬT CÔNG
CHỨC TRÊN THỰC TẾ..................................................................................9
1. Thực trạng việc truy cứu trách nhiệm kỷ luật công chức trên thực tế:......9
2. Nguyên nhân của thực trạng truy cứu trách nhiệm kỷ luật của công chức11
3. Giải pháp kiến nghị nhằm cải thiện hiệu quả việc truy cứu trách nhiệm kỷ luật
công chức:...................................................................................................13
C.KẾT BÀI:.......................................................................................................15
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO:...........................................................16


A.

MỞ ĐẦU:
Đội ngũ công chức làm việc trong bộ máy hành chính nhà nước ở Việt Nam có vai trò

vô cùng quan trọng trong quá trình Nhà nước thực hiện nhiệm vụ quản lý mọi mặt của đời
sống kinh tế - chính trị - văn hóa - xã hội. Đó chính là những người làm việc và hoạt động
trong các lĩnh vực quản lý nhà nước. Những người này chủ yếu thực hiện nhiệm vụ tham
mưu hoạch định chính sách và chấp hành, giám sát, kiểm tra việc thực thi pháp luật. Nhờ
đó mà bộ máy hành chính nhà nước mới có thể hoàn thành chức năng, nhiệm vụ của mình,
điều hành mọi hoạt động của xã hội luôn ở trạng thái ổn định, trật tự và theo chiều hướng
phát triển. Để thực hiện được nhiệm vụ quan trọng này, cần phải xây dựng, phát triển đội
ngũ công chức có phẩm chất và năng lực đáp ứng yêu cầu từng giai đoạn phát triển của đất
nước. Để có được đặc trưng ấy phải thực hiện nhiều biện pháp khác nhau như giáo dục, tổ
chức, xây dựng chế độ hợp lý đối với cán bộ công chức. Nhưng dù thế nào thì biện pháp


trách nhiệm kỷ luật cũng không thế thiếu được. Nó là biện pháp cưỡng chế nhà nước cuối
cùng được áp dụng đối với cán bộ, công chức để duy trì trật tự hoạt động của bộ máy nhà
nước.

1


B.
I.
1.

NỘI DUNG
TRÁCH NHIỆM KỶ LUẬT CÔNG CHỨC.
Định nghĩa công chức:
Theo Khoản 2, Điều 4, Luật Cán bộ, công chức năm 2008, công chức được định

nghĩa như sau: Công chức là công dân Việt Nam, được tuyển dụng, bổ nhiệm vào ngạch,
chức vụ, chức danh trong cơ quan của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước, tổ chức chính
trị - xã hội ở trung ương, cấp tỉnh, cấp huyện; trong cơ quan, đơn vị thuộc Quân đội nhân
dân mà không phải sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân quốc phòng; trong cơ
quan, đơn vị thuộc Công an nhân dân mà không phải sĩ quan, hạ sĩ quan chuyên nghiệp và
trong bộ máy lãnh đạo, quản lý của đơn vị sự nghiệp công lập của Đảng Cộng sản Việt
Nam, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội (sau đây gọi chung là đơn vị sự nghiệp công
lập), trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách nhà nước; đối với công chức trong bộ
máy lãnh đạo quản lý của đơn vị sự nghiệp công lập thì lương được bảo đảm từ quỹ lương
của đơn vị sự nghiệp công lập theo quy định của pháp luật.
2. Phân tích trách nhiệm kỷ luật công chức.
2.1. Định nghĩa trách nhiệm kỷ luật, thời hạn, thời hiệu xử lý kỷ luật:
Định nghĩa trách nhiệm kỷ luật:
Trách nhiệm kỷ luật được xác định là trách nhiệm pháp lí do cơ quan, đơn vị có thẩm

quyền áp dụng đối với cán bộ, công chức, vi phạm các quy định về nghĩa vụ, đạo đức và
văn hóa giao tiếp, vi phạm các quy định về những việc cán bộ, công chức không được làm
và vi phạm pháp luật bị tòa án tuyên là có tội hoặc bị cơ quan thẩm quyền kết luận bằng
văn bản về hành vi vi phạm pháp luật.
Thời hiệu xử lý kỷ luật:
Khoản 1 Điều 80 Luật cán bộ, công chức 2008:
Thời hiệu xử lý kỷ luật là thời hạn do Luật này quy định mà khi hết thời hạn đó thì
cán bộ, công chức có hành vi vi phạm không bị xem xét xử lý kỷ luật.

2


‘‘Thời hiệu xử lý kỷ luật là 24 tháng, kể từ thời điểm công chức có hành vi vi phạm’’
pháp luật cho đến thời điểm người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị có thẩm quyền ra
thông báo bằng văn bản về việc xem xét xử lý kỷ luật. Khi phát hiện hành vi vi phạm pháp
luật của công chức, người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị có thẩm quyền xửlý kỷ luật
theo quy định tại điều 15, nghị định số 34/2011 NĐ-CP quy định về xử lý kỷ luật đối với
công chức. Phải ra thông báo bằng văn bản về việc xem xét xử lý kỷ luật và thông bảo
phải nêu rõ thời điểm công chức có hành vi vi phạm pháp luật và thời hạn xử lý kỷ luật.
Thời hạn xử lý kỷ luật:
Khoảng 2 Điều 80 Luật cán bộ, công chức:
Thời hạn xử lý kỷ luật đối với cán bộ, công chức là khoảng thời gian từ khi phát hiện
hành vi vi phạm kỷ luật của cán bộ, công chức đến khi có quyết định xử lý kỷ luật của cơ
quan, tổ chức có thẩm quyền.
Thời hạn xử lý kỷ luật không quá 02 tháng; trường hợp vụ việc có những tình tiết
phức tạp cần có thời gian thanh tra, kiểm tra để xác minh làm rõ thêm thì thời hạn xử lý kỷ
luật có thể kéo dài nhưng tối đa không quá 04 tháng.
2.2. Các hành vi bị xử lý kỷ luật của công chức:
Theo quy định tại Điều 3 Nghị định số 34/2011/NĐ-CP ngày 17/5/2011 của Chính
phủ thì các hành vi công chức bị xử lý kỷ luật bao gồm: “Vi phạm việc thực hiện nghĩa vụ,

đạo đức và văn hóa giao tiếp của công chức trong thi hành công vụ, những việc công chức
không được làm quy định trong Luật cán bộ, công chức năm 2008.
Thứ nhất, về nghĩa vụ của công chức trong thi hành công vụ được quy định cụ thể tại
Điều 9 Luật cán bộ, công chức năm 2008, đó là: “Thực hiện đúng, đầy đủ và chịu trách
nhiệm về thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn được giao. Có ý thức tổ chức kỷ luật; nghiêm
chỉnh chấp hành nội quy, quy chế của cơ quan, tổ chức, đơn vị; báo cáo người có thẩm
quyền khi phát hiện hành vi vi phạm pháp luật trong cơ quan, tổ chức, đơn vị; bảo vệ bí
mật nhà nước. Chủ động và phối hợp chặt chẽ trong thi hành công vụ; giữ gìn đoàn kết
trong cơ quan, tổ chức, đơn vị. Bảo vệ, quản lý và sử dụng hiệu quả, tiết kiệm tài sản nhà
3


nước được giao. Chấp hành quyết định của cấp trên. Khi có căn cứ cho rằng quyết định dó
là trái pháp luật thì phải báo cáo kịp thời bằng văn bản với người ra quyết định; trường
hợp người ra quyết định vẫn quyết định việc thi hành thì phải có văn bản và người thi hành
phải thi hành nhưng không chịu trách nhiệm về hậu quả của việc thi hành, đồng thời báo
cáo cấp trên trực tiếp của người ra quyết định...”. Khi thi hành công vụ, nếu công chức vi
phạm một trong những nghĩa vụ kể trên, tùy theo mức độ vi phạm mà có thể bị xử lý kỷ
luật.
Thứ hai, về đạo đức và văn hóa giao tiếp của công chức được quy định tại Luật cán
bộ, công chức năm 2008, theo đó: “Cán bộ, công chức cần phải thực cần, kiệm, liêm,
chính, chí công vô tư trong hoạt động công vụ. Trong giao tiếp ở công sở, cán bộ, công
chức phải có thái độ lịch sự, tôn trọng đồng nghiệp ; ngôn ngữ giao tiếp cần phải chuẩn
mực, rõ ràng, mạch lạc. Cán bộ, công chức phải lắng nghe ý kiến của đồng nghiệp; công
bằng, khách quan, vô tư khi nhận xét, đánh giá; thức hiện dân chủ và đoàn kết nội bộ. Khi
thi hành công vụ, cán bộ, công chức phải mang phù hiệu hoặc thẻ công chức; có tác phong
lịch sự, giữ gìn uy tín cho cơ quan, tổ chức, đơn vị và đồng nghiệp. Cán bộ, công chức cần
phải gần gũi với nhân dân; có tác phong, thái độ lịch sự, nghiêm túc, khiêm tốn; ngôn ngữ
giao tiếp phải chuẩn mực, rõ ràng, mạch lạc. Cán bộ, công chức không được hách dịch,
cửa quyền, gây phiền hà cho nhân dân khi thi hành công vụ”. Trong khi thi hành công vụ,

nếu công chức vi phạm việc thức hiện chuẩn mực đạo đức và văn hóa giao tiếp kể trên thì
có thể bị xem xét xử lý kỷ luật.
Thứ ba, về những việc công chức không được làm, bao gồm: “Trốn tránh trách
nhiệm, thoái thác nhiệm vụ được giao; gây bè phái, mất đoàn kết; tự ý bỏ việc hoặc tham
gia đình công. Sử dụng tài sản của nhà nước và nhân dân trái pháp luật. Lợi dụng, lạm
dụng nhiệm vụ, quyền hạn; sử dụng thông tin liên quan đến công vụ để vụ lợi. Phân biệt
đối xử dân tộc, nam nữ, thành phần xã hội, tín ngưỡng tôn giáo dưới mọi hình thức. Không
được tiết lộ thông tin liên quan đến bí mật nhà nước dưới mọi hình thức. Công chức làm
việc ở ngành, nghề có liên quan đến bí mật nhà nước thì trong thời hạn ít nhất là 05 năm,
kể từ khi có quyết định nghỉ hưu, thôi việc, không được làm công việc liên quan đến
ngành, nghề mà trước đây mình đã đảm nhiệm cho tổ chức, cá nhân trong nước, tổ chức,
4


cá nhân nước ngoài hoặc liên doanh với nước ngoài. Không được làm những việc liên
quan đến sản xuất, kinh doanh, công tác nhân sự quy định tại Luật phòng, chống tham
nhũng, Luật thức hành tiết kiệm, chống lãng phí và những quy định khác theo quy định
của pháp luật và cơ quan có thẩm quyền”.
Thứ tư, vi phạm pháp luật bị Tòa án kết án bằng bản án có hiệu lực pháp luật là việc
công chức vi phạm pháp luật đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự và bị Tòa án tuyên án
phạm vào một tội cụ
Thứ năm, vi phạm pháp luật về phòng, chống tham nhũng; thực hành tiết kiệm, chống
lãng phí; bình đẳng giới; phòng chống tệ nạn mại dâm và các quy định khác của pháp luật
liên quan đến công chức nhưng chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự.
2.3. Hình thức kỷ luật đối với công chức:
Điều 79. Các hình thức kỷ luật đối với công chức
Theo Điều 79 Luật cán bộ công chức năm 2008 và Điều 8 Nghị định số 34/2011/NĐCP thì có 06 hình thức kỷ luật công chức:
Công chức vi phạm quy định của Luật này và các quy định khác của pháp luật có liên
quan thì tuỳ theo tính chất, mức độ vi phạm phải chịu một trong những hình thức kỷ luật
sau đây:

a. Hình thức kỷ luật khiển trách :
Được áp dụng đối với công chức có một trong các hành vi vi phạm pháp luật sau đây:
Có thái độ hách dịch, cửa quyền hoặc gây khó khăn, phiền hà đối với cơ quan, tổ chức,
đơn vị, cá nhân trong thi hành công vụ; Không thực hiện nhiệm vụ được giao mà không có
lý do chính đáng; Gây mất đoàn kết trong cơ quan, tổ chức, đơn vị; Tự ý nghỉ việc, tổng số
từ 03 đến dưới 05 ngày làm việc trong một tháng; Sử dụng tài sản công trái pháp luật; Xác
nhận giấy tờ pháp lý cho người không đủ điều kiện; Vi phạm quy định của pháp luật về
phòng, chống tham nhũng; thực hiện tiết kiệm, chống lãng phí; kỷ luật lao động; bình đẳng

5


giới; phòng, chống tệ nạn mại dâm và các quy định khác của pháp luật liên quan đến công
tác.
b. Hình thức kỷ luật cảnh cáo:
Được áp dụng đối với công chức có một trong các hành vi vi phạm pháp luật sau đây:
Cấp giấy tờ pháp lý cho người không đủ điều kiện; Sử dụng thông tin, tài liệu của cơ quan,
tổ chức, đơn vị để vụ lợi; không chấp hành quyết định điều động, phân công công tác của
cơ quan, tổ chức, đơn vị có thẩm quyền; sử dụng giấy tờ không hợp pháp để được tham
gia đào tạo, bồi dưỡng; được dự thi nâng ngạch công chức; tự ý nghỉ việc, tổng số từ 05
đến dưới 07 ngày làm việc trong một tháng; sử dụng trái phép chất ma túy bị cơ quan công
an thông báo về cơ quan, tổ chức, đơn vị nơi công chức đang công tác; bị phạt tù cho
hưởng án treo hoặc cải tạo không giam giữ đối với công chức không giữ chức vụ lãnh đạo,
quản lý; vi phạm ở mức độ nghiêm trọng quy định của pháp luật về phòng, chống tham
nhũng; thực hành tiết kiệm, chống lãng phí; kỷ luật lao động; bình đẳng giới; phòng,
chống tệ nạn mại dâm và các quy định khác của pháp luật liên quan đến công chức nhưng
đã thành khẩn kiểm điểm trong quá trình xem xét xử lý kỷ luật.
c. Hình thức kỷ luật hạ bậc lương:
Được áp dụng đối với công chức có một trong các hành vi vi phạm pháp luật sau đây:
Không thực hiện nhiệm vụ chuyên môn được giao mà không có lý do chính đáng, gây ảnh

hưởng đến công việc chung của cơ quan, tổ chức, đơn vị; lợi dụng vị trí công tác, cố ý làm
trái pháp luật với mục đích vụ lợi; vi phạm ở mức độ nghiêm trọng quy định của pháp luật
về phòng, chống tham nhũng; thực hành tiết kiệm, chống lãng phí; kỷ luật lao động; bình
đẳng giới; phòng, chống tệ nạn mại dâm và các quy định khác của pháp luật liên quan đến
công chức.
d. Hình thức kỷ luật giáng chức:
Được áp dụng đối với công chức giữ chức vụ lãnh đạo, quản lý có một trong các hành
vi vi phạm pháp luật sau đây: Không hoàn thành nhiệm vụ quản lý, điều hành theo sự phân
công mà không có lý do chính đáng, để xảy ra hậu quả nghiêm trọng; vi phạm ở mức độ
6


rất nghiêm trọng quy định của pháp luật về phòng, chống tham nhũng; thực hành tiết kiệm,
chống lãng phí; bình đẳng giới; phòng, chống tệ nạn mại dâm và các quy định khác của
pháp luật liên quan đến công chức nhưng đã thành khẩn kiểm điểm trong quá trình xem
xét xử lý kỷ luật; người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị để xảy ra hành vi vi phạm pháp
luật nghiêm trọng trong phạm vi phụ trách mà không có biện pháp ngăn chặn.
đ. Hình thức kỷ luật cách chức:
Được áp dụng đối với công chức giữ chức vụ lãnh đạo, quản lý có một trong các hành
vi vi phạm pháp luật sau đây: Sử dụng giấy tờ không hợp pháp để được bổ nhiệm chức vụ;
không hoàn thành nhiệm vụ quản lý, điều hành theo sự phân công mà không có lý do
chính đáng, để xảy ra hậu quả rất nghiêm trọng; bị phạt tù cho hưởng án treo hoặc cải tạo
không giam giữ; vi phạm ở mức độ rất nghiêm trọng quy định của pháp luật về phòng,
chống tham nhũng; thực hành tiết kiệm, chống lãng phí; bình đẳng giới; phòng, chống tệ
nạn mại dâm và các quy định khác của pháp luật liên quan đến công chức. Việc áp dụng
hình thức kỷ luật cách chức đối với công chức giữ các chức danh tư pháp được thực hiện
theo quy định của Nghị định này và quy định của pháp luật chuyên ngành.
e. Hình thức kỷ luật buộc thôi việc:
Được áp dụng đối với công chức có một trong các hành vi vi phạm pháp luật sau đây:
Bị phạt tù mà không được hưởng án treo; Sử dụng giấy tờ không hợp pháp để được tuyển

dụng vào cơ quan, tổ chức, đơn vị; nghiện ma túy có xác nhận của cơ quan y tế có thẩm
quyền; tự ý nghỉ việc, tổng số từ 07 ngày làm việc trở lên trong một tháng hoặc từ 20 ngày
làm việc trở lên trong một năm mà đã được cơ quan sử dụng công chức thông báo bằng
văn bản 03 lần liên tiếp; vi phạm ở mức độ đặc biệt nghiêm trọng quy định của pháp luật
về phòng, chống tham nhũng; thực hành tiết kiệm, chống lãng phí; kỷ luật lao động;
phòng, chống tệ nạn mại dâm và các quy định khác của pháp luật liên quan đến công chức.
Theo nghị định 34/2011 NĐ-CP quy định vê xử lý kỷ luật đối với công chức. Theo
quy định tại văn bản này, công chức vi phạm kỷ luật có thế bị xử lý bằng các hình thức
sau:
7


Đối với công chức không giữ chức vụ lãnh đạo, quản lý áp dụng các hình thức sau:
Khiển trách; Cảnh cáo; Hạ bậc lương; Buộc thôi việc.
Đối với công chức giữ chức vụ lãnh đạo, quản lý áp dụng các hình thức: Khiển trách;
Cảnh

cáo;

Hạ

bậc

lương;

Giáng

chức;

Cách


chức;

Buộc

thôi

việc.

Công chức bị kỷ luật bằng hình thức khiên trách, cảnh cáo thì bị kéo dài thời gian
nâng bậc lương thêm 6 tháng; nếu bị giáng chức, cách chức, thì thời gian bị kéo dài là 12
tháng, kể từ ngày quyết định kỷ luật có hiệu lực nâng bậc lương thêm 6 tháng; nếu bị
giáng chức, cách chức, thì thời gian bị kéo dài là 12 tháng, kế từ ngày quyết định kỷ luật
có hiệu lực.
Công chức bị kỷ luật từ khiến trách đến cách chức thì không thực hiện việc nâng
ngạch, quy hoạch, đào tạo, bổ nhiệm trong thời hạn 12 tháng, kế từ ngày quyết định kỷ
luật có hiệu lực; hết thời hạn này nếu công chức không có vi phạm đến mức phải xử lý kỷ
luật thì tiếp tục thực hiện nâng ngạch, quy hoạch, đào tạo, bổ nhiệm. Công chức đang
trong thời gian bị xem xét kỷ luật, đang bị điều tra, truy tố, xét xử, thì không được ứng cử,
để cử, điều động, bổ nhiệm, luân chuyển, biệt phái, đào tạo, bồi dưỡng, thi nâng ngạch,
giải quyết nghỉ hưu hoặc thôi việc. Công chức bị kỷ luật cách chức do tham nhũng thì
không được bổ nhiệm vào vị trí lãnh đạo, quản lý.
Quyết định kỷ luật: Quyết định kỷ luật phải ghi rõ thời điếm có hiệu lực thi hành. Sau
12 tháng kế từ ngày quyết định xứ ly kỷ luật có hiệu lực, nếu công chức không tiếp tục có
hành vi vi phạm đến mức phải xử lý kỷ luật thì quyết định kỷ luật chấm dứt hiệu lực mà
không cần có văn bản về việc chấm dứt hiệu lực. Các tài liệu liên quan đến việc xử lý kỷ
luật và quyết định kỷ luật phải được lưu giữ trong hồ sơ công chức. Hình thức kỷ luật phải
ghi vào lý lịch của công chức.

8



II. ĐÁNH GIÁ THỰC TIỄN VIỆC TRUY CỨU TRÁCH NHIỆM KỶ LUẬT CÔNG
CHỨC TRÊN THỰC TẾ.
1. Thực trạng việc truy cứu trách nhiệm kỷ luật công chức trên thực tế:
Thực trạng vi phạm kỷ luật của công chức là một vấn đề giành được khá nhiều quan
tâm của dư luận.
Trong những năm vừa qua đã phát hiện và xử lí kỉ luật nhiều sai phạm lớn nhỏ khác
nhau. Điều này đã góp phần nâng cao chất lượng đội ngũ công chức nói riêng và cán bộ,
công chức, viên chức nói riêng. Việc thẳng tay xử lí các vi phạm của công chức, nhất là
các vi phạm nghiệm trọng về tham nhũng đã cải thiện nhiều hình ảnh của công chức trong
lòng nhân dân và những vụ việc “đình đám” trở thành tấm gương răn đe trước mỗi hành vi
vi phạm trách nhiệm kỉ luật của những người thi hành công vụ. Công tác xử lí kỉ luật công
chức nói riêng được cải thiện hơn cả về chất và lượng. Việc xử lí kỉ luật nghiêm minh hơn,
ít trường hợp diễn ra móc nghèo giữa các cơ quan nhằm “chạy án”. Hàng năm việc xử lí kỉ
luật thu về cho ngân sách nhà nước hàng trăm tỉ đồng, xử lí hàng trăm cán bộ vi phạm từ
lỗi lớn đến lỗi nhỏ. Cụ thể nổi bắt nhất là xử lí kỉ luật với những cán bộ tham nhũng. Năm
2015, ngành thanh tra đã phát hiện 100 vụ tham nhũng, 172 đối tượng có hành vi tham
nhũng và liên quan đến tham nhũng với’số tiền 40,7 tỷ đồng
Theo thống kê sơ bộ-của Tòa án nhân dẫn cấp cao, Trong nhiệm kỳ vừa qua (20112016), TAND các cấp đã phát hiện, xử lý kỷ luật 205 cán bộ, công chức TAND địa phương
do vi phạm kỷ luật, vi phạm quy chế và chuyển cơ quan điều tra truy cứu trách nhiệm hình
sự đối với 33 trường hợp; bồi thưởng hàng chục tỷ đồng. Cũng theo đó, trong 5 năm qua
(2011- 2015), Kiểm toán Nhà nước đã xử lý kỷ luật 53 công chức, trong đó buộc thôi việc
5 cả nhân, cách chức 4 cả nhân, cảnh cáo 7 cả nhân, khiển trách 32 cả nhân, kéo dài thời
hạn nâng lương 5 cá nhân, phê bình 13 công chức và 1 tập thể.
Bên cạnh những thành tự đảng tự hảo trên, việc truy cứu trách nhiệm kỳ luật đôi với
công chức còn có những hạn chế nhất định. Một sô quy định của Luật chưa rõ ràng, còn
chồng chéo gây lúng túng cho các cơ quan có thẳm quyền áp dụng. Trong thực tế, nhiều
hành vi vi phạm kỷ luật trong chỉ bị nhắc nhở, tự kiềm điểm mà không tiến hành lập biên
9



bản vi phạm và chuyển hồ sơ cho người có thấm quyền xứ lý nên tỉnh răn đe còn hạn chế,
không bảo đảm nguyên tắc mọi hành vi vi phạm được phát hiện phải được xử lý kịp thời.
Số lượng người tham gia lực lượng thanh tra còn hạn chế chưa đáp ứng kịp thời thực tiễn
đặt ra trong công tác thanh tra, kiểm tra. Vì vậy, công tác xử lý vi phạm chưa đạt hiệu quả
ở một số ngành. Bên cạnh đó, tính hiệu lực trong việc chấp hành các quyết định xử phạt
còn thấp, chế tải áp dụng khi cưỡng chế vừa thiếu, vừa bắt cập. Việc áp dụng các biện
pháp cưỡng chế thi hành quyết định theo quy định trên thực tế còn rất khó khăn. Công tác
phối hợp giữa các ngành, địa phương trong triển khai công tác theo dõi thi hành pháp luật
đôi lúc chưa chặt chẽ; tổ chức bộ máy, đội ngũ cán bộ tham gia vào công tác theo dõi còn
thiếu và yếu, lực lượng cán bộ pháp chế tại các sở ngành và doanh nghiệp còn thiểu, phải
kiêm nhiệm; năng lực trình độ nhất là khả năng phân tích, dự báo, xây dụng chính sách, kỹ
năng soạn thảo văn bản quy phạm pháp luật hay xây dụng một thiết chế thi hành pháp luật
còn nhiều bất cập; khả năng tổ chức thực hiện, áp dụng pháp luật của một bộ phận đội ngũ
cán bộ, công chức trong các cơ quan hành chính nhà nước còn hạn chế. Công tác xử lý vi
phạm hành chính ở một số đơn vị chưa được quan tâm thường xuyên, đúng mức, chưa
được cụ thể hóa bằng văn bản của cơ quan, đơn vị mình, chính vì vậy chưa rõ trách nhiệm
của cấp, ngành để kiểm tra, giám sát việc thực hiện.
2. Nguyên nhân của thực trạng truy cứu trách nhiệm kỷ luật của công chức
a. Nguyên nhân khách quan:
Nhà nước đã có những động thái tích cực, đề ra những chính sách, biện pháp quyết
tâm nâng cao hiệu quả của công tác truy cứu trách nhiệm kỷ luật. Điều này đã đem lại
những thành tích nhất định cho Nhà nước và xã hội trong phát hiện và xử lý công chức vi
phạm. Tuy nhiên, hệ thông chính trị chậm được đổi mới, trình độ quản lý còn lạc hậu, mức
sống thấp, tạo ra các kẽ hở cho tệ tham nhũng này sinh và phát triển. Người sản xuất, kinh
doanh có xu hướng tìm cách hối lộ công chức nhà nước để tạo lợi thế trong kinh doanh.
Trong kinh tế thị trường, sự phân hoá giàu nghèo ngày càng rõ rệt, mọi người đầu phải
chịu sức ép của việc kiếm tiền, làm xuất hiện tâm lý mọi việc đến có thể mua bản, lợi dụng
chức vụ quyền hạn để có thể kiếm tiền. Tình trạng cấp dưới “biếu xén” cấp trên để chạy

tội khi bị phát hiện vi phạm làm cho việc truy cứu trách nhiệm kỷ luật bị hạn chế. Cơ chế
10


chính sách pháp luật chưa đầy đủ, thiếu đồng bộ, thiếu nhất quản,việc phân cấp quản lý
giữa Trung ương và địa phương, phân biệt quản lý nhà nước và quản lý sản xuất, kinh
doanh có phần chưa rõ. Một số nét văn hoá như biếu và nhận quà tặng… bị lợi dụng để
thực hiện hành vi tham nhũng.
b. Nguyên nhân chủ quan:
Phẩm chất đạo đức của một bộ phận cán bộ, đảng viên bị suy thoái, công tác quản lý,
giáo dục cán bộ, đảng viên yếu kém. Thích hưởng thụ, lười biếng chỉ nghĩ đến lợi ích cá
nhân.
Cải cách hành chính văn còn chậm và lúng túng, cơ chế “xin - cho” trong hoạt động
công vụ vẫn còn phổ biến; thủ tục hành chính phiền hà, nặng nề, bất hợp lý. Cơ chế “xin
cho” là một trong những nguy cơ của tệ tham nhũng, hối lộ mà đến nay vẫn chưa có cách
khắc phục. Bên cạnh đó, chế độ công vụ của cán bộ, công chức mới bắt đầu được quan
tâm xây dựng, hiện tại còn thiếu cơ chế kiểm tra, giám sát có hiệu quả. Chế độ trách nhiệm
của cán bộ, công chức chưa rõ ràng, cụ thể, đặc biệt là trách nhiệm của cán bộ lãnh đạo đối
với những sai phạm, tiêu cực xảy ra trong cơ quan, đơn vị mình. Chế độ tiền lương đối với
đội ngũ cán bộ, công chức còn bất hợp lý, chậm được cải cách. Đồng lương không đủ đảm
bảo nhu cầu của cuộc sống là một động cơ đẩy cán bộ, công chức thực hiện hành vi tham
nhũng, tiêu cực khi có điều kiện, cơ hội.
Sự lãnh đạo, chỉ đạo đối với công tác phòng ngừa và đấu tranh chống tham nhũng ở
một số nơi chưa chặt chẽ, sâu sát, thường xuyên; việc xử lý tham nhũng chưa nghiêm.
Chức năng, nhiệm vụ của nhiều cơ quan nhà nước chưa rõ ràng, thậm chỉ chồng chéo,
thiếu một cơ chế phối hợp cụ thể, hữu hiệu. Thiếu các công cụ phát hiện và xử lý hữu hiệu.
Những năm quạ, hoạt động điều tra, thanh tra, kiềm tra, kiềm toán, giảm sát đã thu được
một số kết quả tích cực nhưng trên thực tế vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu của công tác
đấu tranh phòng chống những thực trạng trên.
Việc huy động lực lượng đông đảo của nhân dân cũng như sự tham gia của lực lượng

báo chí vào cuộc đầu tranh chống những thực trạng đó chưa được quan tâm đúng mức.
11


Báo chí vừa có tác dụng cảnh báo những nơi có nguy cơ tiêu cực, vừa tham gia phát hiện
và đặc biệt là tạo nên dư luận mạnh mẽ đòi xử lý những hành vi tiêu cực đó. Vì những lý
do khác nhau mà một số cơ quan còn e ngại trước sự tham gia của báo chí, do sự bao che
cho công chức của mình hoặc là vi bản thân sự thông tin đôi khi không chính xác hoặc
không đúng thời điềm đã gây khó khăn cho việc phát hiện và xử lý triệt để các vụ việc.
3. Giải pháp kiến nghị nhằm cải thiện hiệu quả việc truy cứu trách nhiệm kỷ luật công
chức:
Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, phòng chông những sai phạm, tiêu cực xảy
ra trong cơ quan, đơn vị một cách thường xuyên liên tục. Có chế độ khen thưởng, kỷ luật
hợp lý kịp thời động viên những công chức có ý thức thành tích trong công tác, đồng thời
xử lý nghiêm minh những công chức vi phạm pháp luật, ngăn chặn những hiện tượng tiêu
cực gây ảnh hưởng xấu tới chất lượng đội ngũ công chức. Có chế độ tiền lương phù hợp
với trình độ và năng suất làm việc của từng người. Nên thường xuyên phổ biên, tuyên
truyền giáo dục pháp luật trong cơ quan, đơn vị, các tổ chức đoàn thể. Coi trọng công tác
tư tưởng, làm cho công chức thông suốt về từ tưởng, thống nhất về nhận thức tự giác, vừa
làm tốt việc động viên khuyến khích tỉnh tự giác của công chức vừa yêu cầu công chức
nghiêm chỉnh chấp hành các quyết định kỷ luật cũng như các quyết định quan trọng khác
của tổ chức và Nhà nước. Trong công tác cấp ủy Đảng, người đứng đầu và cơ quan làm
công tác cán bộ phải khéo dùng người, sửa chữa khuyết điểm cho công chức, phát huy
năng lực và ưu điểm của họ. Đặc biệt những người đứng đầu phải là những người có đủ
đức đủ tài, liêm chính, nghiêm minh, nói được làm được, không thiên vị bất cứ ai trong kỉ
luật và khen thưởng.
Công tác kiểm tra cán bộ, công chức phải coi trọng tính toàn diện, kịp thời, cả về tư
tưởng chính trị và đạo đức, vế kết quả hoạt động công tác chuyên môn, về sinh hoạt và tư
tưởng, quản lý kiếm tra chế độ học tập và rèn luyện của cán bộ, kết hợp với chế độ kiếm
tra thường xuyên, định kỳ, đột xuất. Quản lý về chính trị, nâng cao năng lực cán bộ, công

chức: Nắm chắc trình độ lý luận chính trị, trình độ chuyên môn nghiệp vụ, hiểu biết pháp
luật, sở trường, kinh nghiệm, năng lực lãnh đạo,... Đảm bảo cho việc bố trí, sử dụng công
chức đúng người, đúng việc, đúng sở trường để phát huy kết qủa làm việc; hạn chế những
12


kẻ hở trong hoạt động tổ chức. Cần thưc hiện trẻ hóa đội ngũ công chức chủ chốt của các
cơ quan và tổ chức, kết hợp các độ tuổi để tồ chức và các cơ quan bộ máy nhà nước hoạt
động linh hoạt.
Hoàn thiện pháp luật về cán bộ, công chức, việc hoàn thiện pháp luật về cán bộ, công
chức đi theo đúng hướng pháp điển hóa ở mức cao như ban hành luật về công chức, đồng
thời theo hướng chuyên biệt hóa, điều chỉnh đối với từng cán bộ, công chức, viên chức
Nhà nước .
Đi đôi với quá trình hoàn thiện pháp luật là quá trình đổi mới hoạt động thực tiễn của
cơ quan Nhà nước từ trung ương đến địa phương về công tác cán bộ, khâu tuyển dụng, sử
dụng, đào tạo bồi dưỡng, đánh giá khen thưởng, kỉ luật cán bộ, công chức, viên chức trong
đó đặc biệt tới khâu quy hoạch cán bộ, công chức.

13


C.

KẾT BÀI:
Trong điều kiện xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa, thực

hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế, việc xây dựng đội ngũ
công chức vừa có phẩm chất, vừa có năng lực, trong sạch, chuyên nghiệp là vô cùng quan
trọng. Nhưng để có được đội ngũ công chức như vậy, nhà nước cần đổi mới và hoàn thiện
thể chế quản lý công chức cho phù hợp với yêu cầu hiện nay. Bên cạnh đó, cần xây dựng

đội ngũ và bộ máy làm công việc quản lý công chức đảm bảo chất lượng và chuyên
nghiệp, thạo việc để triển khai thể chế quản lý công chức vào thực tiễn một cách hiệu quả
và chính xác, đảm bảo thực hiện tốt các nội dung quản lý đã được hoàn thiện. Để góp phần
vào việc hoàn thiện thể chế quản lý công chức làm cơ sở pháp lý xây dựng đội ngũ công
chức đủ năng lực, phẩm chất đáp ứng yêu cầu phát triển và hội nhập kinh tế quốc tế. Các
quy chế pháp lý hành chí của cán bộ, công chức ngày càng cụ thể và hoàn thiện, các
chương trình cải cách pháp luật, cải cách hành chính và cải cách tư pháp đang được đẩy
mạnh cho thấy rõ quyết tâm của Đảng ta: quyết tâm xử lý vi phạm của mọi cán bộ, mọi
công chức, bất kì người đó là ai, giữ chức vị càng cao thì càng phải có trách nhiệm. Quyết
tâm của Đảng nhằm củng cố, xây dựng lại bộ máy nhà nước, đào tạo được một đội ngũ
cán bộ, công chức tận tụy phục vụ nhân dân, hết lòng vì nước vì dân, không tham nhũng
Bài tiểu luận là những đánh giá quan điểm của cá nhân em dựa trên cơ sở những
nghiên cứu của bản thân về vấn đề: Trách nhiệm kỷ luật của công chức – Thực trạng và
hướng hoàn thiện. Trong khi thực hiện không tránh được sai sót, kính mong quý thầy cô
góp ý thêm để được hoàn chỉnh hơn.

14


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO:

1. Trường Đại học Kiểm sát Hà Nội, Giáo trình luật Hành chính Việt Nam, Nxb Chính trị
Quốc Gia – Sự Thật, Hà Nội, 2014.
2. Luật Cán bộ, công chức, Luật viên chức, Nxb Lao Động, 2008.
3. />4.

/>
bo/c/23488718.epi
5. />
15




×