LỜI NÓI ĐẦU
Trong những năm qua, nền kinh tế Việt Nam đã có nhiều biến đổi sâu
sắc, sự thay đổi này đòi hỏi phải có một cơ chế quản lý kinh tế phù hợp. Một
trong những công cụ quản lý kinh tế tài chính có vai trò tích cực chính là hạch
toán kế toán. Hệ thống kế toán Việt Nam đã không ngừng được hoàn thiện,
phát triển, góp phần tích cực vào việc tăng cường và nâng cao chất lượng tài
chính quốc gia.
Tuy nhiên, trong cơ chế kinh tế mới, hệ thống kế toán của Việt Nam
vẫn chưa thực sự phù hợp với yêu cầu của nền kinh tế thị trường, yêu cầu của
nền kinh tế mở, của sự hoà nhập với chuẩn mực và thông lệ phổ biến của kế
toán các nước, nó đòi hỏi phải đuợc cải cách một cách triệt để, toàn diện. Kế
toán các nghiệp vụ “Doanh thu bán hàng và các khoản giảm trừ doanh thu”
cũng là một trong những nội dung cần được hoàn thiện để ngày càng phù hợp
hơn với yêu cầu của nền kinh tế thị trường, phù hợp với chuẩn mực kế toán
quốc tế. Nếu đơn vị làm tốt được công tác tổ chức “kế toán khoản doanh thu
bán hàng và các khoản giảm trừ doanh thu” sẽ cung cấp được những thông tin
chính xác phục vụ cho yêu cầu quản trị doanh nghiệp.
Nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề này, sau một thời gian
nghiên cứu những kiến thức từ thực tế, kết hợp với những kiến thức đã được
học tập tại nhà trường, cùng với sự hướng dẫn chỉ bảo của thầy giáo hướng
dẫn em đã chọn đề tài “Tổ chức công tác kế koán khoản doanh thu bán hàng
và các khoản giảm trừ doanh thu” làm đề tài nghiên cứu của mình với mong
muốn hiểu rõ hơn về vấn đề doanh thu và các khoản giảm trừ doanh thu và
xin được đóng góp một số ý kiến nhỏ bé của mình đối với việc hoàn thiện
phương pháp hạch toán khoản doanh thu bán hàng và các khoản giảm trừ
doanh thu của các doanh nghiệp trong cơ chế thị trường.
1
Nội dung bài viết của em gồm ba phần:
Phần I : Những vấn đề lý luận chung về doanh thu bán hàng và các
khoản giảm trừ doanh thu trong các doanh nghiệp sản xuất công nghiệp.
Phần II : Thực trạng việc thực hiện chuẩn mực số 14 trong hệ thống
chuẩn mực kế toán Việt Nam về Doanh thu và các khoản giảm trừ doanh thu.
Phần III : Phương hướng và các giải pháp hoàn thiện kế toán “doanh
thu bán hàng và các khoản giảm trừ doanh thu” trong các doanh nghiệp sản
xuất công nghiệp.
Do còn có nhiều hạn chế về trình độ, kinh nghiệm và tài liệu tham khảo
nên bài viết của em không thể tránh khỏi nhiều sai sót. Em kính mong nhận
được sự góp ý của các thầy cô giáo và các bạn để bài viết được hoàn thiện
hơn.
Em xin chân thành cảm ơn thầy giáo Phan Thanh Đức đã nhiệt tình
hướng dẫn em hoàn thành đề án này.
Hà nội, ngày 29 tháng 12 năm 2007
Sinh viên: Vũ Thị Thu Thuỷ
2
NỘI DUNG
PHẦN I: NHỮNG LÝ LUẬN CHUNG VỀ DOANH THU VÀ
CÁC KHOẢN GIẢM TRỪ DOANH THU TRONG
DOANH NGHIỆP SẢN XUẤT
I, MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ DOANH THU VÀ CÁC KHOẢN GIẢM TRỪ
DOANH THU :
1, Khái niệm về doanh thu:
Doanh thu là tổng giá trị các lợi ích kinh tế doanh nghiệp thu được
trong kỳ kế toán phát sinh từ hoạt động sản xuất kinh doanh thông thường của
doanh nghiệp, góp phần làm tăng vốn chủ sở hữu.
- Khái niệm về doanh thu bán hàng và cung cấp dịch vụ:
Doanh thu bán hàng và cung cấp dịch vụ là tổng giá trị hàng hoá, lao vụ
dịch vụ, bao gồm cả phụ thu và phí thu thêm ngoài (nếu có) đã thực hiện được
trong kỳ.
2, Khái niệm về các khoản giảm trừ doanh thu:
Hiện nay sự cạnh tranh về hàng hoá, sản phẩm trên thị trường đang
diễn ra một cách gay gắt, quyết liệt. Để đẩy mạnh cho hàng sản xuất ra, thu
hồi nhanh chóng tiền hàng,doanh nghiệp cần có chế độ khuyến khích đối với
khách hàng, có các biện pháp kích thích phù hợp đối với lượng hàng bán ra.
Cụ thể là: nếu hàng hoá của doanh nghiệp kém phẩm chất thì khách hàng có
quyền yêu cầu doanh nghiệp giảm giá bán, bớt giá bán… Các khoản như vậy
buộc doanh nghiệp phải chấp nhận nếu muốn có mối quan hệ lâu dài với
khách hàng. Các khoản đó được gọi là các khoản giảm trừ doanh thu.
Như vậy, các khoản giảm trừ doanh thu là các khoản phát sinh làm
giảm doanh thu bán hàng trong kỳ.
3
Theo chế độ kế toán hiện hành, các khoản giảm trừ doanh thu bao gồm:
- Chiết khấu thương mại: là số tiền doanh nghiệp đã giảm trừ hoặc
đã thanh toán cho khách hàng trong những trường hợp khách hàng
mua hàng với số lượng lớn theo thoả thuận.
- Giảm giá hàng bán: là số tiền doanh nghiệp giảm trừ cho khách
hàng mua hàng do hàng hoá kém phẩm chất, sai quy cách và lạc thị
hiếu.
- Trị giá hàng bán bị trả lại: là só tiền doanh nghiệp phải trả lại cho
khách hàng trong trường hợp hàng đã xác định là bán nhưng do
chất lượng hàng quá kém so với yêu cầu, khách hàng trả lại số tiền
ấy.
- Chiết khấu thanh toán: là khoản tiền thưởng doanh nghiệp chấp
thuận cho khách hàng đã thanh toán trước thời hạn.
- Thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế xuất khẩuphải nộp đối với sản phẩm,
hàng hoá dịch vụ thuộc diện chịu thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế xuất
khẩu.
- Thuế GTGT đối với sản phẩm, hàmg hoá, dịch vụ bán ra của cơ sở
nộp thuế GTGT theo phương pháp trực tiếp.
3, Vai trò của doanh thu bán hàng và cung cấp dịch vụ:
Đối với các doanh nghiêp sản xuất kinh doanh,việc xác định doanh thu
bán hàng là để tính toán thu nhập từ hoạt đông sản xuất kinh doanh thông
thường nhằm bù đắp, trang trải các chi phí đã bỏ ra để tạo nên khoản doanh
thu đó, và xác định được kết quả bán hàng.
- Doanh thu là một trong các yếu tố đánh giá khả năng sản xuất kinh
doanh của mỗi doanh nghiệp. Khả năng sản xuát kinh doanh của bất kỳ doanh
nghiệp nào được đánh giá là tốt chứng tỏ nguồn thu của doanh nghiệp ấy là
4
không nhỏ. Lúc này, doanh thu trở thành một thước đo cho năng lực sản xuất,
kinh doanh của doanh nghiệp.
- Doanh thu góp phần thúc đẩy hoạt động sản xuất kinh doanh của
doanh nghiệp, vì để tăng doanh thu, doanh nghiệp cần đẩy mạnh hoạt động
bán hàng. Muốn hoạt động này diễn ra thuận lợi thì sản phẩm, hàng hoá, dịch
vụ mà công ty kinh doanh phải đạt chất lượng cao. Từ đó, thúc đẩy sản xuất
phát triển và được củng cố hơn.
- Doanh thu cao, lợi nhuận sẽ cao, do đó nó tạo ra tiền đề vật chất để
bảo toàn và phát triển vốn kinh doanh, mở rộng quy mô kinh doanh hay nói
cách khác nó là điều kiện để doanh nghiệp tồn tại và phát triển.
- Doanh thu là một trong những nguồn tài chính cơ bản để thực hiện
phân phối trong nội bộ doanh nghiệp, nâng cao đời sống cho người lao động.
Doanh thu cao góp phần thúc đẩy về mặt tinh thần đối với người lao động
khiến họ làm việc tốt hơn và đem lại hiệu quả cao hơn trong tương lai.
- Bên canh đó, doanh thu cao thì việc tích luỹ vốn của doanh nghiệp sẽ
diễn ra thuận lợi, từ đó, góp phần nâng cao nguồn thu của nhà nước.
4, Điều kiện ghi nhận một khoản doanh thu bán hàng và cung cấp dịch
vụ:
Theo chuẩn mực kế toán Việt Nam,để ghi nhận một khoản doanh thu
bán hàng, điều kiện cần và đủ phải là:
- Sản phẩm hàng hoá, lao vụ, dịch vụ… đãchuyển giao quyền sở hữu và
cung cấp đầy đủ các dịch vụ kèm theo cho khách hàng.
- Đã được khách hàng chấp nhận thanh toán không kể đã thu tiền hay
chưa thu tiền.
Như vậy, để ghi nhận một khoản doanh thu bán hàng, doanh nghiệp cần
phải xem xét đầy đủ hai điều kiện trên thì mới được xét hạch toán sao cho
đúng chính sáchvà chế độ hiện hành.
5
5, Thời điểm xác định doanh thu bán hàng:
Thời điểm xác nhận doanh thu bán hàng là thời điểm người mua đã trả
tiền (Số tiền bán hàng được ghi trên hoá đơn thuế GTGT, hoá đơn bán hàng
và các chứng từ khác có liên quan) hoặc chấp nhận trả tiền về số lượng hàng
hoá mà doanh nghiệp đã cung cấp. Tuỳ theo từng phương thức bán hàng mà
thời điểm xác định doanh thu bán hàng có sự khác nhau.
Việc xác định đúng đắn thời điểm ghi chép bán hàng là việc tôn trọng
các quy định về xác định và ghi nhận doanh thu, đồng thời nó cũng tuân theo
nguyên tắc phù hợp. Bên cạnh đó, việc xác định đúng đắn thời điểm ghi chép
bán hàng giúp cho việc xác định kết quả trong kỳ được chính xác và nó sẽ góp
phần làm cho công tác quản lý hoạt động bán hàng của doanh nghiệp được tốt
hơn tránh tình trạng ứ đọng vốn, tăng nhanh vòng quay của đồng vốn.
II, TỔNG QUAN VỀ HẠCH TOÁN DOANH THU BÁN HÀNG VÀ CÁC KHOẢN
GIẢM TRỪ DOANH THU BÁN HÀNG:
1, Chuẩn mực số 14 về “Doanh thu và thu nhập khác” trong hệ thống
chuẩn mực kế toán Việt Nam do bộ tài chính ban hành và công bố theo
quyết định số 149/ 2001/ QĐ-BTC:
1.1, Quy định chung:
- Mục đích của chuẩn mực này là quy định và hướng dẫn các nguyên
tắcvà phương pháp kế toán doanh thu và thu nhập khác, gồm: Các loại doanh
thu, thời điểm ghi nhận doanh thu, phương pháp kế toán doanh thu và thu
nhập khác làm cơ sở ghi sổ kế toán và lập báo cáo tài chính.
- Chuẩn mực này áp dụng trong kế toán các khoản doanh thu và thu
nhập khác phát sinh từ các giao dịch và nghiệp vụ sau:
(a) Bán hàng:Bán sản phẩm do doanh nghiệp sản xuất ra và bán hàng
hoá mua vào
6
(b)Cung cấp dịch vụ: Thực hiện công việc đã thoả thuận theo hợp đồng
trong một hoặc nhiều kỳ kế toán.
(c) Tiền lãi, tiền bản quyền, cổ tức lợi nhuận được chia.
(d)Các khoản thu nhập khác ngoài giao dịch và nghiệp vụ tạo ra doanh
thu kể trên .
Chuẩn mực này không được áp dụng cho kế toán các khoản doanh thu
và thu nhập khác được quy định ở các chuẩn mực kế toán khác.
1.2, Nội dung chuẩn mực:
Doanh thu chỉ bao gồm tổng giá trị của các lợi ích kinh tế doanh nghiệp
đã thu được hoặc sẽ thu được. Các khoản thu hộ bên thứ ba không phải là
nguồn lợi ích kinh tế, không làm tăng vốn chủ sở hữu của doanh nghiệp sẽ
không được coi là doanh thu.( Ví dụ: khi người nhận đại lý thu hộ tiền bán
hàng cho đơn vị chủ hàng,thì doanh thu của người nhậnđịa lý chỉ là hoa hồng
được hưởng).Các khoản góp vốn của cổ đông hoặc chủ sở hữu làm tăng vốn
chủ sở hữu nhưng không là doanh thu.
1.3, Doanh thu bán hàng:
- Doanh thu bán hàng được ghi nhận khi đồng thời thoả mãn năm điều
kiện sau:
(a) Doanh nghiệp đã chuyển giao phần lớn rủi ro và lợi ích gắn liền với
quyền sở hữu sản phẩm hoặc hàng hoá cho người mua.
(b)Doanh nghiệp không còn nắm giữ quyền quản lý hàng hoá như
người sở hữu hàng hoá hoặc quyền kiểm soát hàng hoá.
(c)Doanh thu được xác định tương đối chắc chắn.
(d)Doanh nghiệp đã thu được hoặc sẽ thu đượclợi ích kinh tế từ giao
dịch bán hàng.
(e) Xác định được chi phí liên quan đến giao dịch bán hàng.
7
- Doanh nghiệp phải xác định thời điểm chuyển giao phần lớn rủi ro và
lợi ích gắn liển với quyền sở hữu hàng hoá cho người mua trong từng trường
hợp cụ thể. Trong hầu hết các trường hợp, thời điểm chuyển giao phần lớn
rủi ro trùng với thời điểm chuyển giao lợi ích gắn liền với quyền sở hữu hợp
pháp, hoặc quyền kiểm soát hàng hoá cho người mua.
Trường hợp doanh nghiệp vẫn còn chịu phần lớn rủi ro gắn liền với
quyền sở hữu hàng hoá thì giao dịch không được coi là hoạt động bán hàng và
doanh thu không được ghi nhận. Doanh nghiệp còn phải chịu rủi ro gắn liền
với quyền sở hữu hàng hoá dưới nhiều hình thức khác nhau, như:
+ Doanh nghiệp còn phải chịu trách nhiệm để đảm bảo cho tài sản được
hoạt động bình thường mà việc này không nằm trong các điều khoản bảo
hành thông thường.
+ Khi việc thanh toán tiền bán hàng còn chưa chắc chắn vì phụ thuộc
vào người mua hàng hoá đó.
+ Khi hàng hoá được giao còn chờ lắp đặt và việc lắp đặt đó là một
phần quan trọng của hợp đồng mà doanh nghiệp chưa hoàn thành.
+ Khi người mua có quyền huỷ bỏ việc mua hàng vì một lý do nào đó
được nêu trong hợp đồng mua bán và doanh nghiệp chưa chắc chắn về khả
năng hàng bán có bị trả lại hay không.
- Nếu doanh nghiệp chỉ còn phải chịu một phần nhỏ rủi ro gắn liền với
quyền sở hữu hàng hoá thì việc bán hàng được xác định và doanh thu được
ghi nhận. Ví dụ doanh nghiệp còn nắm giữ giấy tờ về quyền sở hữu hàng hoá
chỉ để đảm bảo nhận được đủ các khoản thanh toán.
- Doanh thu bán hàng được ghi nhận chỉ khi đảm bảo là doanh nghiệp
nhận được lợi ích kinh tế từ giao dịch. Trường hợp lợi ích kinh tế từ giao dịch
bán hàng còn phụ thuộc yếu tố không chắc chắn thì chỉ ghi nhận doanh thu
khi yếu tố không chắc chắn này đã xử lý xong (Ví dụ khi doanh nghiệp không
8
chắc chắn chính phủ nước sở tại có chấp nhận chuyển tiền bán hàng ở nước
ngoài về hay không). Nếu doanh thu đã được ghi nhận trong trường hợp chứ
thu được tiền thì khi xác định khoản tiền nợ phải thu này là không thu được
thì phải hạch toán vào chi phí sản xuất kinh doanh trong kỳ mà không được
ghi giảm doanh thu. Các khoản nợ phải thu khó đòi khi xác đinh là thực sự
không đòi được thì được bù đắp bằng nguồn dự phòng nợ phải thu khó đòi.
- Doanh thu và chi phí có liên quan tới cùng một giao dịch thì phải
được ghi nhận đồng thời theo nguyên tắc phù hợp. Các chi phí, bao gồm cả
chi phí phát sinh sau ngày giao hàng( như chi phí bảo hành và chi phí khác),
thường được xác định chắc chắn khi các điều kiện ghi nhận doanh thu được
thoả mãn. Các khoán tiền nhận trước của khách hàng không được ghi nhận là
doanh thu mà được ghi nhận là một khoản nợ phải trả tại thời điểm nhận tiền
trước của khách hàng.Khoản nợ phải trả về số tiền nhận trước của khách
hàngchỉ được ghi nhận là doanh thu khi đông thời thoả mãn năm điều kiện ở
trên.
1.4, Doanh thu cung cấp dịch vụ:
- Doanh thu của giao dịch về cung cấp dịch vụ đượcghi nhận khi kết
quả của giao dịch đó được xác định một cách đáng tin cậy. Trường hợp giao
dịch về cung cấp dịch vụ có liên quan đến nhiều kỳ thì doanh thu được ghi
nhận trong kỳ theo kết quả công việc đã hoàn thành vào ngày lập Bảng Cân
Đối Kế Toán của kỳ đó. Kết quả của giao dịch cung cấp dịch vụ được xác
định khi thoả mãn tất cả bốn điều kiện sau:
(a) Doanh thu được xác định tương đối chắc chắn.
(b) Có khả năng thu đươc lợi ích kinh tế từ giao dịch cung cấp dịch vụ
ấy
(c) Xác định được phần công việc đã hoàn thành vào ngày lập bảng cân
đối.
9
(d) Xác định được chi phí phát sinh cho giao dịch và chi phí để hoàn
thành giao dịch cung cấp dịch vụ đó.
- Trường hợp giao dịch về cung cấp dịch vụ phuc vụ trong nhiều kỳ kế
toán thì việc xác định doanh thu của dịch vụ trong từng kỳ thường được thực
hiện theo phương pháp tỷ lệ hoàn thành. Theo phương pháp này doanh thu
được ghi nhận trong kỳ kế toán được xác định theo tỷ lệ công việc đã hoàn
thành.
- Doanh thu cung cấp dịch vụ chỉ được ghi nhận khi đảm bảo là doanh
nghiệp nhận được lợi ích kinh tế từ giao dịch.khi không thể thu hồi được
khoản doanh thu đã ghi nhận thì phải hạch toán vào chi phí mà không được
ghi giảm doanh thu. Khi không chắc chắn thu hồi được môt khoản mà trước
đó đã ghi vào doanh thu ( Nợ phải thu khó đòi) thì phải lập dự phòng nợ phải
thu khó đòi mà không được ghi nhận là doanh thu. Khoản nợ phải thu khó đòi
khi xác định thực sự là không đòi được thì được bù đắp bằng nguồn dự
phòng Nợ phải thu khó đòi.
- Doanh nghiệp có thể ước tính doanh thu cung cấp dịch vụ khi thoả
thuận đươc với bên đối tác giao dịch những điều kiện sau:
+ Trách nhiệm và quyền của mỗi bên trong việc cung cấp hoặc nhận
dịch vụ.
+ Giá thanh toán
+ Thời hạn và phương thức thanh toán.
Để ước tính doanh thu cung cấp dịch vụ, doanh nghiệp phải có hệ
thống hạch toán tài chính và kế toán phù hợp. Khi cần thiết, doanh nghiệp có
quyền xem xét và sửa đổi cách ước tính doanh thu trong quá trình cung cấp
dịch vụ.
- Phần công việc đã hoàn thành được xác định theo một trong ba bước
sau, tuỳ thuộc vào bản chất của dịch vụ:
10
+ đánh giá phần công việc đã hoàn thành.
+ So sánh tỷ lệ (%) giữa phần công việc đã hoàn thành với tổng khối
lượng công việc phải hoàn thành.
+ Tỷ lệ (%) chi phí đã phát sinh so với tổng chi phí ước tính để hoàn
thành toàn bộ giao dịch cung cấp dịch vụ.
Phần công việc đã hoàn thành không phụ thuộc vào các khoản thanh
toán định kỳ hay khoản ứng trước của khách hàng.
-Trường hợp dịch vụ được thực hiện bằng nhiều hoạt động khác nhau
mà không tách biệt được, và được thưc hiện trong nhiều kỳ kế toán nhất định
thì doanh thu từng kỳ được ghi nhận theo phương pháp bình quân. Khi có một
hoạt động cơ bản so với hoạt đông khác thì việc ghi nhận doanh thu được
thực hiện theo hoạt động đó.
- Khi kết quả của một giao dịch về cung cấp dịch vụ không thể xác
định được chắc chắn thì doanh thu được ghi nhận tương ứng với chi phí đã
ghi nhận và có thể thu hồi.
- Trong giai đoạn đầu của một giao dịch về cung cấp dịch vụ, khi chưa
xác định được kết quả một cách chắc chắn thì doanh thu được ghi nhận bằng
chi phí đã ghi nhận và có thể thu hồi được. Nếu chi phí liên quan đến dịch vụ
đó chắc chắn không thu hồi được thì không ghi nhận doanh thu,và chi phí đã
phát sinh được hạch toán vào chi phí để xác định kết quả kinh doanh trong kỳ.
Khi có bằng chứng tin cậy về các chi phí phát sinh sẽ thu hồi được thì doanh
thu được quy đinh tại đoạn 16.
2, Các chuẩn mực kế toán quốc tế liên quan đến doanh thu và các khoản
giảm trừ doanh thu:
Chuẩn mực kế toán quốc tế IAS 18
a, Phạm vi áp dụng:
11
IAS quy định việc hạch toán doanh thu có được từ các loại giao dịch và
sự kiện nhất định như: bán hàng, cung cấp dịch vụ và lợi nhuận thu được từ
việc cho các đơn vị khác sử dụng tài sản như lợi tức, tiền bản quyền, cổ tức.
Doanh thu là giá trị gộp của các lợi ích kinh tế mà doanh nghiệp đạt
được trong kỳ kế toán, phát sinh từ các hoạt độnh thông thường của doanh
nghiệp, tạo nên sự tăng lên của vốn chủ sở hữu, ngoài phần tăng lên từ các
hoạt động đóng góp thêm của các cổ đông.
Như vậy, doanh thu chỉ bao gồm giá trị gộp của các lợi ích kinh tế đã
nhận được và có thể nhạn được của riêng doanh nghiệp. Các khoản thu hộ bên
thứ ba( ví dụ như VAT) không phải là các nguồn lợi ích kinh tế của doanh
nghiệp và không làm tăng vốn chủ sở hữu của doanh nghiệp thì không được
coi là doanh thu.
12
b, Doanh thu bán hàng:
- Xác định doanh thu:
Doanh thu được xác định trong từng trường hợp cụ thể sau:
+ Trường hợp bán hàng thu tiền hoặc các khoản tương đương tiền thì
doanh thu bằng số tiền hoặc các khoản tương đương tiền thu được.
+ Trường hợp bán hàng cho người trả chậm: nếu bán chịu cho khách
hàng không tính lãi thì doanh thu bằng số tiền hoặc các khoản tương đương
tiền sẽ nhận được, nếu bán chịu cho khách hàng có tinh lãi thì doanh thu bằng
giá trị hiện tại của các khoản sẽ thu được trong tương lai.
+ Trường hợp trao đổi hàng hoá: trao đổi hàng hoá có cùng tính chất thì
doanh thu không được ghi nhận, trao đổi hàng hoá không tương tự thì doanh
thu được ghi nhận là bằng giá trị tương đương của hàng hoá nhận được, bằng
giá trị tương đương của hàng hoá đem trao đổi.
- Doanh thu bán hàng được công nhận khi:
+ Rủi ro và lợi ích quan trọng của việc sở hữu hàng hoá được chuyển
sang cho người mua.
+ Doanh nghiệp không tiếp tục tham gia quản lý quyền sở hữu cũng
không giám sát hiệu quả hàng đã bán ra.
+ Số doanh thu có thể được tính toán một cách chắc chắn.
+ Doanh nghiệp có khả năng là sẽ thu được lợi ích kinh tế từ giao dịch.
+ Chi phí giao dịch có thể được tính toán một cách chắc chắn.
- Tính không chắc chắn về khả năng thu về khoản đã được tính trong
doanh thu sẽ được coi như là một khoản chi phí chứ không phải là một khoản
điều chỉnh doanh thu.
- Doanh thu không thể được công nhận khi chi phí không thể được tính
toán một cách chắc chắn. Những khoản hoàn trả đã nhận được từ bán hàng
13
sau này sẽ được chuyển về sau như một khoản nợ cho tới khi công nhận
doanh thu.
c, Một số điểm khác biệt giữa Chuẩn mực số 14 của Việt Nam (VAS
14) với chuẩn mực doanh thu thế giới( IAS 18) là:
Có thể thấy rằng những nội dung về doanh thu của IAS 18 là khá tương
đồng với VAS 14 : quan niệm về doanh thu, Vấn đè xác định doanh thu ( IAS
và VAS đều phân theo các trường hợp cụ thể là doanh thu thu được tiền,
doanh thu trả chậm và doanh thu do trao đổi hàng hoá có tính chất thương
mại, doanh thu được xét theo các loại hình kinh doanh là doanh thu bán hàng
hoá, doanh thu cung cấp dịch vụ, doanh thu và thu nhập từ các hoạt đông
khác. Tuy nhiên, theo VAS còn xét thêm thu nhập khác ngoài doanh thu từ
tiền lãI, tiền bản quyền, cổ tức và lợi nhuận được chia, nghĩa là VAS phân
loại rõ hơn theo xu hướng xét doanh thu hoạt động tài chính và thu nhập khác
từ các hoạt động không thương xuyên của doanh nghiệp.
3. Thực tế hạch toán doanh thu và các khoản giảm trừ doanh thu tại một
số nước trên thế giới:
3.1, Theo chế độ kế toán Mỹ :
a, Kế toán ghi nhận doanh thu:
Theo nguyên tắc cơ bản của kế toán Mỹ, Doanh thu là dòng tiền vào
hay sự tăng lên của các loại vốn của đơn vị hay sự giải quyết các khoản nợ
( hoặc kết hợp cả hai) từ việc giao hàng, sản xuất hàng hoá, cung cấp dịch vụ
hoặc những hoạt động khác, hình thành nên những hoạt động chủ yếu của đơn
vị, trong trường hợp đơn giản nhất, chúng tương đương với giá cả hàng hoá
đã bán ra hay dịch vụ đã cung ứng trong một thời kỳ nhất định. Nói cách
khác, doanh thu được xác địnhlà giá trị tài sản hoặc việc tiếp nhận nợ mà
doanh nghiệp có được từ việc cung cấp các sản phẩm hàng hoá hoặc thực hiện
dịch vụ. Điều quan trọng là xác định thời điểm ghi nhận doanh thu. Doanh thu
14
được xác định theo nguyên tắc khi xác định được hoặc có thể xác định được
và thực thu được. Doanh thu được xác đinh khi hàng hoá, dịch vụ được trao
đổi và nhận về một khoản tiền hoặc quyền được đòi tiền. Doanh thu thực thu
được khi doanh nghiệp về căn bản đã hoàn thành quá trình bán hàng và thu
được lợi ích. Tuy nhiên, do có sự đa dạng khác nhau của các nghiệp vụ doanh
thu nên doanh thu cũng có khi được ghi nhận tại các thời điểm khác nhau
trong quá trình bán hàng, đó là:
- Ghi nhận doanh thu tại thời điểm bán hàng( giao hàng)
- Ghi nhận doanh thu trước khi giao hàng
- Ghi nhận doanh thu sau khi giao hàng.
- Ghi nhận doanh thu đối với hàng gửi bán đại lý
b, Kế toán các khoản giảm trừ doanh thu:
- Chiết khấu thương mại: Là sự giảm giá so với giá được ghi trên danh
mục giá bán hàng hoá, được dùng để tính giá trên hoá đơn hay giá bán loại
hàng được hưởng chiết khấu. Chiết khấu thương mại thường được các nhà sản
xuất hay các nhà bán buôn dùng để tái xuất bản danh mục giá bán khi giá bán
biến đổi. Giá được đưa ra có phần chiết khấu thương mại chỉ sử dụng để
thuận tiện cho việc đạt đến một thoả thuận giá cả trên và không thể hiện trên
các ghi chép của kế toán.
- Giảm giá hàng bán và hàng bán bị trả lại: phát sinh khi bán hàng
không đúng quy cách, phẩm chất quy định trong hợp đồng. Khách hàng có thể
trả lại hàng hoặc doanh nghiệp có thể giảm giá bán cho khách hàng nếu khách
hàng chấp nhận mua. Hàng bị trả lại hay giảm giá được phản ánh vào tài
khoản “ Hàng bán bị trả lại và giảm giá”. Tài khoản này là tài khoản hiệu
chỉnh cho tài khoản danh thu.
- Chiết khấu thanh toán : Việc bán chịu hàng thường kèm theo các điều
khoản về tín dụng để làm tăng khả năng thanh toán của khách hàng. Có hai
15
phương pháp ghi nhận doanh thu được chấp nhận có liên quan đến chiết khấu
thanh toán, đó là những doanh thu gộp( doanh thu ghi nhận theo giá bán, tài
khoản chiết khấu bán hàng được xem là tài khoản hiệu chỉnh giảm trừ doanh
thu) và doanh thu ròng( doanh thu được ghi sổ theo giá bán đã trừ chiết khấu
cho khách hàng).
c, Nhận xét mô hình kế toán Mỹ:
- Ưu điểm:
+ Là hệ thông kế toán mở, việc đưa ra những thời điểm khác nhau để
ghi nhận doanh thu đã đáp ứng được thực tiễn đa dạng của các nghiệp vụ phát
sinh doanh thu, nhờ đó các doanh nghiệp có thể chủ động trong công tác hạch
toán.
+ Tại mỗi thời điểm ghi nhận doanh thu, quy định của kế toán lại đưa
ra nhiều phương pháp ghi nhận và hạch toán doanh thu, việc lựa chọn phương
pháp nào là tuỳ thuộc vào doanh nghiệp, nhưng nhìn chung đều dựa trên
nguyên tắc đảm bảo tính thận trọng tối đa cho doanh nghiệp.
+ Thông tin trình bày trên Báo cáo kết quả kinh doanh được công bố rõ
ràng để trình bày, dễ đọc và sử dụng.
- Nhược điểm:
+ Việc đưa ra hai phương pháp ghi nhận doanh thu sau khi bán hàng đã
không đáp ứng yêu cầu của nguyên tắc phù hợp và nguyên tắc dồn tích của kế
toán.
+ Khoản chiết khấu thanh toán được xử lý ghi giảm trừ doanh thu bán
hàng là không hợp lý, không đúng với bản chất của nghiệp vụ.
+ Hạch toán khoản chiết khấu thanh toán theo phương pháp doanh thu
ròng là không hợp lý, vì tại thời điểm bán hàng chưa đủ bằng chứng pháp lý
cần thiết để kế toán khấu trừ vào doanh thu bán hàng của doanh nghiệp trong
khi thực tế khoản chiết khấu thanh toán này chưa phát sinh.
16
3.2, Theo chế độ kế toán Pháp:
Với mô hình kế toán thuế, kế toán được xem là một công cụ để kiểm
soát thuế của Nhà nước nên kế toán Pháp quy định rất cụ thể, chi tiết cho các
loại hình doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế.
a, Nguyên tắc ghi nhận doanh thu:
- Giá bán hàng hoá được hạch toán là giá thực tế, tức là tổng số tiền ghi
trên hoá đơn trừ đi các khoản giảm giá, bớt giá, hồi khấu chấp thuận cho
người mua.
- Giá bán không bao gồm các khoản thuế đã thu của người mua và phảI
nộp cho nhà nước sau này.
- Nếu có chiết khấu chấp thuận cho người mua đã trừ bớt đi trên tổng
trị giá hoá đơn bán hàngcũng phải kể vào giá bán. Khoản chiết khấu này được
hạch toán vào chi phí tài chính.
b, Thời điểm ghi nhận doanh thu:
Kế toán Pháp chỉ đề cập là thời điểm khi việc bán hàng đã thực sự xảy
ra và kế toán đã có trong tay kết quả của ngiệp vụ để ghi nhận vào sổ sách.
- Khi hàng được bán xong, doanh nghiệp đã thưc hiện hầu hết tất cả các
công việc cần thiết trong việc bán hàng và mọi công việc còn lại sẽ không
đáng kể.
- Vào thời điểm bán hàng giá bán đã được người bán và người mua
thoả thuận là một sự đo lường khách quan của thu nhập.
- Vào thời điểm bán hàng, xảy ra một sự trao đổi tài sản, hàng hoá được
trao đổi để lấy khoản sẽ thu hoặc tiền mặt.
c, Kế toán các khoản giảm trừ doanh thu:
Các khoản giảm trừ doanh thu bao gồm giảm giá, bớt giá, hồi khấu và
chiết khấu thanh toán.
17
- Nếu các khoản giảm giá, bớt giá, hồi khấu và chiết khấu thanh toán
được ghi trên hoá đơn bán hàng, các khoản này được trừ vào tổng số tiền ghi
trên hoá đơn. Kế toán chỉ ghi nhận doanh thu theo giá bán thực thu.
- Nếu các khoản giảm giá, bớt giá, hồi khấu được chấp thuận ngoài hoá
đơn bán hàng thì người bán phải lập hoá đơn báo có gửi cho khách hàng và
khoản giảm trừ này được ghi giảm trừ doanh thu bán hàng vào cuối kỳ. Nếu
nghiệp vụ xảy ra vào cuối năm và doanh nghiệp chưa lập hoá đơn báo có gửi
cho khách hàng thì kế toán tạm thời ghi nhận khoản giảm giá, bớt giá, hồi
khấu sẽ trả cho khách hàng và kết chuyển các khoản giảm trừ này vào doanh
thu bán hàng trong kỳ. Sang năm sau, ghi bút toán đảo ngược để xoá bỏ bút
toán đã điều chỉnh ở cuối năm trứơc. Sau đó khi lập hoá đơn thì kế toán ghi
nhận bình thường như đã nêu.
Các khoản chiết khấu được hạch toán như một khoản chi phí tài chính
của doanh nghiệp.
d, Nhận xét mô hình kế toán Pháp:
- Ưu điểm:
+ Hệ thống kế toán được quy định rất cụ thể, chặt chẽ nên thuận tiện
cho việc kiểm tra, kiểm soát hoạt động kinh tế doanh nghiệp của nhà nước.
+ Quy định chặt chẽ, chi tiết từng phần hành kế toán cụ thể đã tạo ra
được tính thống nhất trong kế toán nghiệp vụ kinh tế phát sinh, do đó số liệu
ghi chép của kế toán được tổng hợp trên các báo cáo đảm bảo tinh so sánh
được giữa các kỳ, và giữa các doanh nghiệp với nhau.
- Nhược điểm:
+ Do hệ thống kế toán được quy định quá chi tiết, cụ thể và cứng nhắc
nên việc hạch toán một số nghiệp vụ kinh tế trở nên phức tạp, không cần thiết,
làm hạn chế tài năng của kế toán.
18