Tải bản đầy đủ (.docx) (85 trang)

BIỆN PHÁP GIÁO dục sức KHOẺ SINH sản vị THÀNH NIÊN CHO học SINH THCS dựa vào CỘNG ĐỒNG THÀNH PHỐ hải DƯƠNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (316.76 KB, 85 trang )

BIỆN PHÁP GIÁO DỤC SỨC KHOẺ
SINH SẢN VỊ THÀNH NIÊN CHO
HỌC SINH THCS DỰA VÀO CỘNG
ĐỒNG THÀNH PHỐ HẢI DƯƠNG


- Nguyên tắc đề xuất các biện pháp
- Đảm bảo tính pháp lí
Trong những năm qua, cùng với sự phát triển mạnh mẽ
của tình hình kinh tế - xã hội của đất nước, Đảng và Nhà
nước luôn có các chính sách tích cực đặc biệt quan tâm tới
công tác dân số mà mới đây tại buổi bế mạc Hội nghị lần thứ
6 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII ngày
04/10/2017, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nhấn mạnh công
tác dân số là vấn đề rất lớn và khó, có ý nghĩa đặc biệt quan
trọng, liên quan đến việc bảo vệ, phát triển giống nòi, quốc
gia, dân tộc và đã chuyển trọng tâm từ dân số kế hoạch hóa
gia đình sang thời kỳ dân số và phát triển. Bên cạnh đó Đảng
và Nhà nước đã chỉ đạo các Ban, Ngành, đoàn thể quan tâm
tới công tác giáo dục dân số và giáo dục SKSS đối với Vị
thành niên được thể hiện ở nhiều Nghị quyết quan trọng
* Nghị quyết Hội nghị lần thứ tư Ban chấp hành
Trung ương Đảng khoá VII đã khẳng định: "..., thực hiện
giáo dục dân số với nội dung thích hợp, hình thức đa dạng, có
sự tham gia của toàn xã hội...". Tư tưởng đó đã được quán
triệt tại Chiến lược dân số kế hoạch hóa đến năm 2000:


"Giáo dục dân số trong và ngoài nhà trường với nội dung
thích hợp cho từng nhóm đối tượng, làm cho thế hệ trẻ chấp
nhận gia đình ít con là một chuẩn mực xã hội. Nghị quyết


Hội nghị lần thứ 2 Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá
VIII đã khẳng định vai trò của chiến lược con người, của
việc phát huy nguồn lực con người, yếu tố cơ bản của sự phát
triển nhanh và bền vững mọi mặt của xã hội. Đồng thời Đảng
ta cũng đặc biệt đề cao vai trò của giáo dục - đào tạo trong
việc xây dựng những con người đáp ứng yêu cầu công nghiệp
hoá, hiện đại hoá đất nước. Thực hiện và đẩy mạnh giáo dục
dân số và SKSS trong nhà trường phổ thông chính là thực
hiện tư tưởng chỉ đạo của Đảng trong Nghị quyết trung ương
2 (Khoá VIII) đó là tăng cường các nội dung giáo dục có tính
xã hội và nhân văn.
Năm 2001 với sự đồng ý của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và
Đào tạo, ngày 19/6/2001 Bộ trưởng, Chủ nhiệm Uỷ ban quốc
gia Dân số và Kế hoạch hoá gia đình (nay là Uỷ ban Dân số,
Gia đình và Trẻ em) đã có quyết định 174/QĐ-UB thành lập
Tiểu dự án giáo dục dân số thuộc Dự án Dân số - Sức khoẻ
gia đình nhằm tăng cường chất lượng giáo dục dân số - SKSS
trong trường trung học phổ thông; tập huấn nâng cao năng


lực giảng dạy giáo dục dân số - SKSS cho giáo viên dạy các
môn Sinh học, Địa lý, Giáo dục công dân; tập huấn cho cán
bộ quản lý trường THPT và cán bộ quản lý các Sở Giáo dục
và Đào tạo; .
Nghị định số 104/2003/NĐ-CP ngày 16/9/2003 của
Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số
điều của Pháp lệnh Dân số tại Điều 29 đã giao trách nhiệm:
"Bộ Giáo dục và Đào tạo chủ trì, phối hợp với Uỷ ban Dân
số, Gia đình và Trẻ em, Bộ Y tế và các Bộ, ngành có liên quan
xây dựng chương trình, nội dung giáo dục về dân số, sức

khoẻ sinh sản, kế hoạch hoá gia đình, bình đẳng giới; chỉ đạo
và tổ chức công tác giảng dạy về dân số, SKSS, kế hoạch hoá
gia đình, bình đẳng giới; đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ giáo
viên về nội dung giáo dục dân số, sức khoẻ sinh sản, kế hoạch
hoá gia đình, bình đẳng giới phù hợp với yêu cầu sư phạm
của từng ngành học, cấp học, bậc học".
Chiến lược Giáo dục và Đào tạo 2001-2010, khẳng
định giáo dục giới tính - SKSS phải được coi là nội dung giáo
dục bắt buộc và phổ cập trong tất cả các trường học; phải
đầu tư nguồn lực trong nước và tận dụng các nguồn tài trợ
quốc tế để thực hiện lĩnh vực giáo dục này.


Cơ sở pháp lý hết sức quan trọng của việc thực hiện
giáo dục dân số đã được quy định tại Pháp lệnh Dân số [24],
theo quy định của Pháp lệnh Dân số, việc giáo dục dân số SKSS chính thức thực hiện trong hệ thống giáo dục quốc dân
với chương trình, nội dung giáo trình phù hợp với từng cấp
học, bậc học. Biện pháp này bảo đảm cho mỗi công dân Việt
Nam, ngay từ khi còn là học sinh, được trang bị một hệ thống
kiến thức cơ bản, chính thống về các vấn đề quan trọng liên
quan đến dân số, tránh những cách hiểu không đúng, không
đầy đủ dẫn tới việc xử sự thiếu trách nhiệm của cá nhân trong
vấn đề này.
Quyết định 2013/QĐ-TTg năm 2011 phê duyệt chiến
lược Dân số và sức khỏe sinh sản Việt Nam giai đoạn 2011
-2020 do Thủ tướng chính phủ ban hành đã nêu rõ trong Mục
tiêu 8: cải thiện SKSS của người chưa thành niên và thanh
niên, tăng tỉ lệ điểm cung cấp dịch vụ chăm sóc SKSS thân
thiện với người chưa thành niên và thanh niên lên 50% tổng
số điểm cung cấp dịch vụ chăm sóc SKSS vào năm 2015 và

75% vào năm 2020. Mở rộng và nâng cao chất lượng giáo
dục về dân số, SKSS, bao gồm cả giáo dục về phòng ngừa


nhiễm HIV, bình đẳng giới và sức khỏe tình dục trong nhà
trường.
Như vậy, nhà nước đã quan tâm đến vấn đề GD SKSS
trong nhà trường và đã đưa ra các văn bản pháp quy để
hướng dẫn, yêu cầu thực hiện nội dung này, nhưng nhìn
chung chương trình giáo dục SKSS trong nhà trường không
phải là mục tiêu hàng đầu và được triển khai hết sức chậm
chạp, chưa có nhiều hiệu quả.
- Đảm bảo phù hợp với đặc điểm địa phương
Khi đề xuất nguyên tắc này cần đặc biệt chú ý tới tính
phù hợp với điều kiện KT-XH của địa phương để có các biện
pháp hợp lý. Thành phố Hải Dương là trung tâm hành chính
của tỉnh Hải Dương, thành phố Hải Dương có điều kiện kinh
tế - xã hội phát triển, hệ thống dịch vụ về cơ bản đảm bảo
được các yêu cầu của đời sống xã hội, vì vậy tạo điều kiện
thuận lợi cho sự phát triển của ngành giáo dục tỉnh nhà. Tuy
nhiên bên cạnh những thuận lợi cơ bản thì cũng còn khá nhiều
những khó khăn đan xen như: việc thường xuyên tiếp xúc với
các loại hình dịch vụ nên làm cho trẻ có xu hướng phát triển
về tâm lý sớm hơn so với lứa tuổi của các em, các loại hình


dịch vụ mạng Internet, việc các em được cha mẹ cho sử dụng
các loại điện thoại từ sớm đã vô hình chung đẩy các em vào
với mặt trái của sự phát triển công nghệ như: nghiện Game, tò
mò tìm hiểu các trang “Web đen”…do đó ảnh hướng tới sự

phát triển tâm lý nói chung và ảnh hưởng không nhỏ tới công
tác giáo dục SKSSVTN và những hệ lụy không thể lường
trước. Do đó mà cần phải có các biện pháp phù hợp của cộng
đồng để một mặt hạn chế những hệ lụy mặt khác phát huy
được hiệu quả của công tác giáo dục SKSSVTN.
-Đảm bảo tính phù hợp với đối tượng học sinh THCS.
Nguyên tắc này đòi hỏi nhà giáo dục khi lựa chọn nội
dung, phương pháp, phương tiện, hình thức tổ chức quá trình
giáo dục phải tính đến những đặc điểm sinh lý, tâm lý ở từng
lứa tuổi, từng cá nhân, nghĩa là phải chú ý đến đặc điểm của
quá trình nhận thức, xúc cảm, tình cảm, ý chí, hành động của
từng lứa tuổi học sinh. Đồng thời cũng phải chú ý đến nhu
cầu, động cơ, nguyện vọng, vốn kinh nghiệm, trình độ được
giáo dục, sự trưởng thành về mặt xã hội, trình độ phát triển
của tập thể học sinh và từng học sinh. Do đó mới phát huy
được tính hiệu quả của công tác giáo dục SKSSVTN,như:


- Phải dựa vào các khối lớp tương ứng với các lứa tuổi
khác nhau để có các hình thức, biện pháp giáo dục khác nhau.
Ví dụ: đối với học sinh khối lớp 8,9 căn cứ vào kiến thức đã
được học trên lớp ở các bộ môn khác nhau để sự dụng các
hình thức như: đóng kịch, sắm vai, tọa đàm…còn đối với khối
6,7 khi các em còn qúa nhỏ thì cần phải lựa chọn các hình
thức phù hợp. Tránh việc dập khuôn, máy móc sẽ dẫn tới hệ
lụy khó lường và phản tác dụng.
- Ngoài ra cũng cần nghiên cứu đặc điểm của từng đối
tượng giáo dục thông qua các hoạt động thường ngày, thông
qua tập thể, bạn bè và gia đình. Trên cơ sở đó mà đề ra các
biện pháp giáo dục phù hợp…

- Đảm bảo mục tiêu giáo dục nhân cách
Nguyên tắc này đòi hỏi phải có sự toàn vẹn về các mặt
nhân cách của học sinh nghĩa là khi tiến hành các hoạt động
giáo dục SKSSVTN chúng ta cầ phải hiểu được mục đích, ý
nghĩa của công tác này là đảm bảo cho các em nắm được
những kiến thức cơ bản về giới tính, hôn nhân, các biện pháp
tránh thai, quan hệ tình dục và nhiều vấn đề tế nhị khác đồng
thời cũng cung cấp cho các em những biện pháp phòng, tránh


nhất là các cách thức tự chăm sóc, bảo vệ bản thân. Đây là các
vấn đề nhạy cảm nhất là đối với lứa tuổi của VTN, vì thế mà
thực hiện công tác giáo dục SKSSVTN cộng đồng cần lựa
chọn các tuyên truyền, giáo dục đảm bảo tính trong sáng, phù
hợp với lứa tuổi của các em để một mặt giúp các em nắm
được kiến thức mặt khác không làm ảnh hưởng tới sự phát
triển tâm sinh lý của các em. Tránh những biện pháp mang
tính thô thiển, thái quá các từ ngữ hoặc hành động không
được chọn lọc sẽ làm ảnh hưởng lớn tới sự phát triển nhân
cách của các em. Cần sử dụng kết hợp các phương pháp,
phương tiện và các hình thức tổ chức giáo dục phù hợp với
nội dung giáo dục. Kết hợp chặt chẽ quá trình dạy học và quá
trình giáo dục, quá trình giáo dục trên lớp và ngoài lớp, ngoài
trường, quá trình giáo dục, tự giáo dục, các lực lượng giáo
dục trong và ngoài nhà trường.
- Đảm bảo tính hệ thống.
Giáo dục SKSSVTN là công tác không phải chỉ làm trong
một thời điểm nhất định mà đòi hỏi phải tiến hành một cách lâu
dài, có hệ thống nghĩa là cần phải cung cấp cho các em từ
những kiến thức ban đầu về giới tính, sự phát triển của giới tính

qua từng giai đoạn, tuổi dậy thì và các đặc điểm, tình yêu, hôn


nhân, mang thai, sinh nở…phải đảm bảo tính liên tục và kế thừa
mà không được tách rời. Trong qua trình thực hiện các biện
pháp cộng đồng cần lựa chọn các biện pháp tuyên truyền mang
tính tự nhiên, không gượng ép để các em chủ động tiếp nhận
kiến thức một cách tốt nhất. Ngoài ra cũng cần phải thực hiện
giáo dục công tác giáo dục SKSSVTN một cách thường xuyên
ở mọi nơi, mọi lúc và qua mọi việc, kết hợp chặt chẽ giữa
những kiến thức được học thông qua các bộ môn trong chương
trình giáo dục chính khóa và ngoại khóa, trong trường và ngoài
trường, gia đình và xã hội…
- Một số biện pháp giáo dục sức khoẻ sinh sản vị
thành niên cho học sinh THCS dựa vào cộng đồng.
- Bồi dưỡng, nâng cao nhận thức của cộng đồng về tầm
quan trọng của công tác giáo dục sức khoẻ sinh sản vị thành
niên cho học sinh THCS dựa vào cộng đồng.
- Mục tiêu của biện pháp
Mỗi một vùng, lãnh thổ, quốc gia khác nhau với những
nền văn hóa đặc trưng thì có những thái độ khác nhau về giáo
dục giới tính.


Ngày nay giáo dục giới tính đã trở nên cần thiết cho con
người nên một số quốc gia như Tiệp Khắc, Hung-ga-ri, Ba
Lan đã đưa chương trình giáo dục giới tính vào trong nhà
trường bằng những chương trình bắt buộc. Còn các nước
phương Tây như: Anh, Đan Mạch, Thụy Điển đã tiến hành
giáo dục học sinh khá sớm (1966). Ở Pháp chương trình giáo

dục nội dung này thực hiện từ năm 1973. Đặc biệt một số
nước ở Châu Á, châu Phi và Mỹ Latinh cũng đưa chương
trình giới tính vào trường phổ thông và đạt kết quả tốt.
Ở Trung Quốc, từ năm 1974 đã tiến hành giáo dục giới
tính cho học sinh và hiện nay là một trong những nước có
công trình nghiên cứu phát triển cao về khoa học về giới tính,
nhằm cung cấp cho các em những kiến thức và kỹ năng liên
quan đến sự phát triển về tâm sinh lý của bản thân.
Theo kết quả nghiên cứu, thống kê gần đây của Google 17
thì Việt Nam là một trong những nước gõ câu lệnh “Sex”
nhiều nhất thế giới. Từ đó có thể cho thấy những mối đe dọa e
ngại tới vấn đề giáo dục giới tính. Thực tế cho thấy thì tình
trạng giáo dục giới tính ở Việt Nam còn khá yếu và kém. Giáo
dục giới tính chủ yếu chỉ được đưa vào một số phần nhỏ trong
sách giáo khoa nhưng nội dung kiến thức còn sơ sài, tập


trung chủ yếu ở những nội dung có tính chất giải phẫu sinh lý
cơ thể, chưa đề cập tới quan hệ giữa hai giới, vấn đề tình dục
và quan hệ tình dục. Trong xã hội truyền thống của Việt Nam
vấn đề giới tính, tình dục căn bản là vấn đề tế nhị, thầm kín.
Sự bùng nổ thông tin các mạng xã hội Internet và sự phát triển
của nền kinh tế thị trường, nhất là ở đô thị, thông tin đến với
mỗi cá nhân rất đa dạng, khiến các yếu tố tiêu cực như: văn
hóa đồi trụy, sách báo, video đen…đã làm ảnh hưởng, tác
động mạnh đến quan hệ giữa hai giới, làm các em có cái nhìn
sai lệch về vấn đề giới tính cùng sự né tránh của các bậc phụ
huynh làm các em tìm đến các trang mạng để tìm hiểu mà
không biết rằng các trang mạng đó đúng hay sai, tốt hay xấu
để rồi dẫn tới nhiều hậu quả khôn lường mà chính các em

cũng không biết nguyên nhân vì sao.
- Nội dung của biện pháp
Theo từ điển Bách khoa Việt Nam về vấn đề Giáo dục giới
tính thì: Giáo dục giới tính là một thuật ngữ rộng miêu tả việc
giáo dục về giải phẫu sinh dục, sinh sản, quan hệ tình dục, sức
khỏe sinh sản, các quan hệ tình cảm, quyền sinh sản, và các
trách nhiệm, việc tránh thai và các khía cạnh của thái độ tình
dục loài người. Giáo dục giới tính, SKSS có thể được dạy một


cách không chính thức, như nhận được thông tin từ ai đó từ một
cuộc trò chuyện với bạn bè, anh chị em, các buổi vấn đàm, hội
thảo….hay qua truyền thông, các trang mạng chính thức hay
không chính thức.
Ngày nay, hầu hết các quốc gia nhất là ở những nước
phát triển đã thấy rõ được tầm quan trọng của vấn đề giới tính
nên đã đưa vào trong các chương trình học tại các trường
trung học hay trung học cơ sở. Còn ở Việt Nam thì vấn đề đưa
chương trình giáo dục giới tính, SKSS cho học sinh nói chung
và học sinh THCS nói riêng vào chính khóa đã được đề cập
khoảng hơn 20 năm qua, nhưng vì nhiều lý do mà vẫn chưa
được đưa vào giảng dạy trong các trường phổ thông, có thể là
do truyền thống Việt Nam còn xem vấn đề giáo dục giới tính,
SKSSVTN là vấn đề tế nhị và không nên nói ra hay giảng dạy
nhiều. Do đó mà chúng ta cần có những biện pháp đẩy mạnh
hơn về vấn đề này.
- Cách thức thực hiện biện pháp
- Đưa nội dung, mục tiêu giáo dục SKSSVTN trong nhà
trường THCS và coi đó là một nội dung bắt buộc phải thực
hiện từ lớp 6 vào các tổ chức xã hội trong địa phương như:



Đoàn thanh niên, Hội phụ nữ, Hội nông dân, Hội chữ thập đỏ,
uỷ ban dân số GĐ& TE ,…nhằm thống nhất định hướng tác
động đối với quá trình hình thành và phát triển nhân cách của
trẻ.
- Phát huy vai trò nhà trường là trung tâm văn hóa giáo
dục của địa phương, tổ chức việc phổ biến các tri thức khoa
học kỹ thuật, văn hóa xã hội…đặc biệt là những kiến thức
biện pháp giáo dục trẻ trong điều kiện xã hội phát triển theo
cơ chế thị trường đang rất phức tạp cho các bậc cha mẹ, giúp
họ hiểu được đặc điểm trong đời sống, tâm sinh lý của trẻ
hiện nay. Tăng cường vai trò của nhà trường và thông qua các
hình thức giáo dục phù hợp với các đối tượng học sinh để
trang bị những kiến thức, kỹ năng cơ bản nhất cho các em
nhất là thông qua hình thức ngoại khóa của HĐNGLL do tổ
chức đoàn thanh niên thực hiện. Trong các trường học cần
thiết phải thực hiện các nội dung giáo dục giới tính một cách
khoa học và nhìn nhận thẳng vào xu thế phát triển của xã hội.
- Phối hợp với địa phương ( các xã, phường của thành
phố) tổ chức cho học sinh tham gia tích cực vào các hoạt động
văn hóa xã hội như: xóa đói giảm nghèo, dân số kế hoạch hóa
gia đình, đền ơn đáp nghĩa, xây dựng gia đình văn hóa mới,…


nhằm góp phần cải tạo môi trường gia đình và xã hội ngày
càng tốt đẹp, tạo ra các hoạt động để gắn kết, hướng học sinh
tới những mục tiêu tốt đẹp. Thực hiện công tác bồi dưỡng,
nâng cao nhận thức của cộng đồng về tầm quan trọng của
công tác giáo dục sức khoẻ sinh sản vị thành niên cho học sinh

THCS nghĩa là thống qua hệ thống các phương pháp phù hợp để
các lực lượng hiểu được tính tất yếu phải thực hiện công tác giáo
dục SKSS cho VTN vì thực tế công tác này đã và đang rất thiếu và
yếu ở nước ta nói chung và ở thành phố Hải Dương nói riêng
- Đề cao vai trò của các bậc cha mẹ học sinh trong công
tác giáo dục SKSSVTN vì gia đình chính là môi trường đầu
tiên, nơi các em phát triển các yếu tố cả về thể chất lẫn tinh
thần, nơi mà các bậc phụ huynh học sinh là những người gần
gũi với các em nhất, thông qua đó để từng bước hình thành
nhận thức và giáo dục những kiến thức về giới tính và SKSS
cho các em.
- Điều kiện thực hiện biện pháp
* Về phía nhà trường: muốn thực hiện tốt công tác giáo
dục SKSS cho VTN nhà trường cần căn cứ vào chương trình,
kế hoạch và biên chế thời gian của các cấp quản lý để chủ


động xây dựng các nội dung giáo dục SKSS đặc biệt là thông
qua hoạt động NGLL, giao cho tổ chức Đoàn căn cứ vào các
chủ điểm để tổ chức các hoạt động giáo dục dưới nhiều hình
thức, thông qua đó để cung cấp những kiến thức và kỹ năng
về giáo dục giới tính cho học sinh.
* Về phía cộng đồng: mỗi lực lượng, tổ chức đoàn thể cần
chủ động xây dựng kế hoạch để thực hiện công tác giáo dục
SKSS trong khuôn khổ chức năng nhiệm vụ của mình ở cộng
đồng, ngoài ra cần tích cực phối hợp lẫn nhau giữa các tổ chức,
đoàn thể ở khu dân cư để tổ chức tốt công tác tuyên truyền, vận
động nhân dân thực hiện các chính sách về dân số, công tác nuôi
dạy giáo dục con em, tổ chức các hoạt động có ý nghĩa ở cộng
đồng, khu dân cư nhằm hướng các em tới các mục tiêu, việc làm

mang tính nhân đạo mà không ỷ lại hoặc phó mặc cho nhà
trường về mọi mặt.
* Về phía Hội cha mẹ học sinh: cần thiết phải xóa bỏ
cách nghĩ và tư duy lỗi thời, không cấm đoán các con tìm hiểu
về giới tính, tích cực học tập để trau dồi kiến thức khoa học
về giới tính, SKSS để sẵn sàng là những người bạn, người cố
vấn tin cậy cho các em.


- Xây dựng cơ chế phối hợp các lực lượng xã hội, các
ban ngành đoàn thể, các tổ chức xã hội cùng tham gia đóng
góp với nhà trường trong giáo dục sức khỏe sinh sản vị
thành niên cho học sinh THCS.
- Mục tiêu của biện pháp
- Xây dựng mối liên hệ mật thiết và thường xuyên giữa
Nhà trường, Phụ huynh và Cộng đồng trong công tác giáo dục
SKSSVTN, đồng thời Nhà trường chia sẻ trách nhiệm với gia
đình và cộng đồng, các tổ chức đoàn thể, các cơ quan chức
năng để thúc đẩy và tạo điều kiện tối ưu cho việc chăm sóc và
giáo dục SKSSVTN cho học sinh;
- Công tác phối hợp giữa gia đình, nhà trường và cộng
đồng có tác động phát huy được sức mạnh tổng hợp và huy
động được các nguồn lực trong xã hội tham gia ngày càng tích
cực vào sự nghiệp giáo dục và đào tạo nói chung và công tác
giáo dục SKSSVTN cho học sinh THCS ở thành phố Hải
Dương nói riêng đạt hiệu quả tốt nhất;
- Tạo ra mối quan hệ hai chiều giữa nhà trường và gia
đình đó là: Nhà trường có thêm hiểu biết về học sinh từ đó có
phương pháp giáo dục phù hợp, toàn diện và có định hướng



đúng để quan tâm giúp đỡ được nhiều hơn đối với từng em
trong các hoàn cảnh khác nhau; Phụ huynh thường xuyên nắm
bắt được tình hình ở trường, lớp của con trên cơ sở đó có biện
pháp hỗ trợ con em phát huy các điểm tốt hoặc kịp thời giáo
dục và dạy dỗ các em một cách tốt nhất;
- Nội dung của biện pháp
Việc giáo dục, bồi dưỡng, rèn luyện các phẩm chất và
năng lực nhằm giúp trẻ phát triển nhân cách một cách toàn
diện là một quá trình lâu dài liên tục, diễn ra ở nhiều môi
trường khác nhau, liên quan rất nhiều đến các mối quan hệ xã
hội phức tạp. Vì thế, việc giáo dục nói chung và giáo dục trẻ
em nói riêng luôn luôn đòi hỏi sự phối hợp, kết hợp chặt chẽ
của nhiều lực lượng xã hội và nhất là đòi hỏi sự quan tâm
đúng cách của nhà trường, gia đình và mọi người trong xã
hội.
Ý nghĩa sâu sắc của việc phối hợp các lực lượng giáo
dục đã được Bác Hồ chỉ ra từ lâu: "Giáo dục trong nhà
trường chỉ là một phần, còn cần có sự giáo dục ngoài xã hội
và trong gia đình để giúp cho việc giáo dục trong nhà trường
được tốt hơn. Giáo dục trong nhà trường dù tốt đến mấy,


nhưng thiếu giáo dục trong gia đình và ngoài xã hội thì kết
quả cũng không hoàn toàn ” ( Trích bài nói tại Hội nghị cán
bộ Đảng trong ngành giáo dục tháng 6/1957).
Chúng ta đều biết rằng trong thực tế, trong môi trường
xã hội mà trẻ sống, học tập và phát triển; bên cạnh các mặt tác
động tốt thì luôn hàm chứa các yếu tố có thể gây nguy hại đến
sự phát triển nhân cách của trẻ và với đặc điểm hiếu động và

ít vốn sống lại trẻ dễ bắt chước theo, dần dần trở thành thói
quen xấu, tác động tiêu cực đến sự phát triển nhân cách của
trẻ. Nhất là khi thiếu sự phối hợp đúng đắn, thiếu sự thống
nhất tác động giáo dục giữa nhà trường và gia đình thì hậu
quả xấu trong giáo dục sẽ xuất hiện, nếu không kịp thời khắc
phục hậu quả sẽ rất tai hại.
Trong việc tổ chức kết hợp các lực lượng làm công tác
giáo dục SKSSVTN, gia đình có vai trò và tác động vô cùng
quan trọng, là trọng tâm của các hoạt động kết hợp. Gia đình
là nơi các em được sinh ra, lớn lên và hình thành nhân cách
của mình. Ảnh hưởng giáo dục của gia đình đến với trẻ là
đầu tiên và sớm nhất. Giáo dục con cái trong gia đình không
phải chỉ là việc riêng tư của bố mẹ, mà còn là trách nhiệm đạo
đức và nghĩa vụ công dân của những người làm cha mẹ. Nó


được xác định trong nhiều văn bản pháp luật ở nước ta hiện
nay như trong Hiến pháp, Luật Hôn nhân và gia đình, Luật
Bảo vệ chăm sóc và giáo dục trẻ em, …gắn với quan hệ máu
mủ ruột thịt và tình yêu thương sâu sắc của ông bà, cha mẹ
với con cái nên giáo dục gia đình mang tính xúc cảm mạnh
mẽ, có khả năng cảm hóa lớn nhất. Tùy vào điều kiện kinh tế,
đời sống của mỗi gia đình mà việc tiến hành giáo dục trong
các giai đoạn phát triển của trẻ có các nội dung, hình thức,
nhiệm vụ khác nhau từ khi các em còn năm nôi cho tới khi
các em chập chững và khi ở tuổi vị thành niên nhiệm vụ học
tập càng nặng nề, thời gian đầu tư cho việc học tăng thêm,
đồng thời quan hệ bè bạn, quan hệ xã hội phức tạp hơn. Ngoài
việc quan tâm đến việc học tập của các em, cha mẹ nên dành
thời gian chú ý đến các mối quan hệ của con cái với bạn bè để

kịp thời phát hiện những lệch lạc do bạn xấu rủ rê, chú ý đến
sự phát triển năng khiếu, định hướng việc lựa chọn nghề
nghiệp phù hợp với năng lực của con mình.
Để việc giáo dục gia đình có hiệu quả tốt, các bậc cha mẹ
cần quan tâm xây dựng một gia đình đầy đủ toàn vẹn, trong đó
mọi thành viên có nghĩa vụ và trách nhiệm với nhau, xây dựng
một phong cách sinh hoạt có nề nếp, phù hợp nhu cầu hứng thú


nhằm phát huy những mặt tích cực của vị thành niên. Đặc biệt
cha mẹ, người lớn phải giữ uy tín vai trò gương mẫu của mình
trong gia đình và ngoài xã hội.
Có được những con người đảm bảo yêu cầu của đổi mới
xã hội cần có sự kết hợp nhịp nhàng đồng bộ và hỗ trợ giữa ba
môi trường giáo dục: gia đình - nhà trường và xã hội, tác động
mạnh vào việc phát triển nhân cách toàn diện cho trẻ em. Nhà
trường sẽ là vai trò trung tâm, tổ chức phối hợp dẫn dắt nội
dung, phương pháp giáo dục của gia đình và các lực lượng
trong xã hội. Bởi lẽ nhà trường là một tổ chức chuyên biệt đối
với công tác giáo dục, được sự lãnh đạo trực tiếp của Đảng và
nhà nước, nắm vững quan điểm, đường lối, mục tiêu bồi
dưỡng đào tạo con người xã hội chủ nghĩa. Mặt khác, nhà
trường luôn luôn có đội ngũ thầy cô giáo có trình độ, năng
lực, nhiệt tình, tâm huyết và yêu nghề mến trẻ, đã được đào
tạo có hệ thống. Giáo dục nhà trường trong mọi thời đại có
chức năng cơ bản là truyền thụ tri thức văn hóa đã được rút
kết từ các tinh hoa của nhân loại, mở mang trí tuệ cho học
sinh. Tóm lại, việc phối hợp giữa nhà trường, gia đình và xã
hội đối với việc chăm sóc giáo dục trẻ là một nguyên tắc cơ
bản nếu muốn có sự thành công.



Bên cạnh đó muốn thực hiện tốt công tác giáo dục
SKSSVTN cộng đồng cũng thể hiện rõ trách nhiệm của từng
bộ phận từ cơ quan chuyên môn như: Trung tâm y tế thành
phố, Trung tâm KHHGĐ, bệnh viên đa khao thành phố đến
các tổ chức đoàn thể: Đoàn thanh niên, Hội phụ nữ, Hội Cựu
chiến binh…tùy theo chức năng nhiệm vụ mà thực hiện các
biện pháp giáo dục khác nhau như: tổ chức các buổi tọa đàm
của Hội phụ nữ, tổ chức các sân chơi, sân khấu hóa của Đoàn
thanh niên và công tác vận động tuyên truyền của Hội Cựu
chiến binh… Sự phối hợp chặt chẽ ba môi trường giáo dục
trên, trước là để đảm bảo sự thống nhất trong nhận thức cũng
như hoạt động giáo dục cùng một hướng, một mục đích, một
tác động tổ hợp, đồng tâm tạo sức mạnh kích thích, thúc đẩy
quá trình phát triển nhân cách của trẻ, tránh sự tách rời mâu
thuẫn, bài xích lẫn nhau gây cho các em tâm trạng nghi ngờ,
hoang mang, dao động trong việc lựa chọn, định hướng các
giá trị tốt đẹp của nhân cách. Sự phối hợp gia đình, nhà
trường, xã hội có thể diễn ra dưới nhiều hình thức, vấn đề cơ
bản hàng đầu là tất cả các lực lượng giáo dục phải phát huy
tinh thần trách nhiệm, chủ động tạo ra những mối quan hệ
phối hợp vì mục tiêu giáo dục SKSSVTN thành những người


công dân khỏe mạnh, có tri thức và hữu ích cho đất nước
trong tương lai.
- Cách thức thực hiện biện pháp
a. Tham mưu với cấp ủy Đảng, Chính quyền địa
phương

- Nhà trường tích cực tham mưu với cấp ủy, chính quyền
địa phương nơi trường đóng để tranh thủ sự chỉ đạo đồng bộ
các cấp, các ngành phối hợp thực hiện công tác giáo dục
SKSSVTN nhằm tạo ra thế hệ thanh niên khỏa về thể trạng,
giỏi về trình độ năng lực phục vụ tốt nhất cho sự phát triển
của địa phương, đất nước trong tương lai.
- Tích cực tham mưu với cấp ủy chính quyền địa phương
bố trí các nguồn kinh phí cho nhà trường để thực hiện các
biện pháp giáo dục SKSSVTN như: thực hiện công tác tuyên
truyền, tổ chức các hoạt động…
Ngoài ra cũng cần sự chỉ đạo trực tiếp của chính quyền
của thành phố trong việc chỉ đạo Trung tâm y tế,
UBDSKHHGĐ-TE thành phố, bệnh viên đa khoa thành phố,
các tổ chức, đoàn thể phối hợp cùng với nhà trường thực hiện


các biện pháp tuyên truyền, giáo dục những kiến thức, kỹ
năng về SKSS cho VTN ở nhà trường cũng như ở cộng đồng
khu dân cư để công tác này đạt hiệu quả cao.
b. Phối hợp với hội khuyến học
- Xây dựng quỹ khen thưởng nhằm khuyến khích và hỗ
trợ công tác giáo dục SKSSVTN ở các trường THCS trên địa
bàn thành phố, những học sinh đạt được thành tích cao trong
các hoạt động tuyên truyền, hỗ trợ những thầy cô giáo có
trách nhiệm trong việc thực hiện nhiệm vụ giáo dục SKSS cho
học sinh
- Vận động các doanh nghiệp và các tổ chức hỗ trợ
nguồn kinh phí cho các trường THCS để tổ chức các hoạt
động tuyên truyền, giáo dục đối với học sinh
c. Phối hợp với Hội phụ nữ

- Nâng cao nhận thức và năng lực của phụ nữ, đồng thời
huy động sự tham gia của các tầng lớp phụ nữ vào các hoạt
động lập kế hoạch phối hợp với các nhà trường THCS trên địa
bàn, hoặc tổ chức các hoạt động trong công tác giáo dục
SKSSVTN ở khu dân cư một cách hiệu quả.


- Hội phụ nữ của thành phố cần chủ động ời các chuyên
gia đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ tuyên truyền viên của hội liên
hiệp phụ nữ qua đó trang bị cho hội viên phụ nữ những kiến
thức nuôi dạy con theo khoa học, biết cách làm bạn, tư vấn
cho con em mình những kiến thức về giới tính, về mang thai,
thụ tinh để đạt được hiệu quả trong công tác giáo dục
SKSSVTN;
d. Phối hợp với cơ quan y tế - ủy ban Dân số -Gia đình
và trẻ em
- Nhà trường cần chủ động phối hợp với cơ quan y tế tổ
chức khám sức khỏe định kì cho các em (2 lần/năm) thông
qua đó kịp thời phát hiện những em học sinh mắc các bệnh
bẩm sinh hoặc các em có các triệu chứng khác thường để có
biện pháp điều trị
- Sử dụng các hình thức tuyên truyền trực quan như treo
các khẩu hiệu, pa nô, áp phích có các nội dung giáo dục
SKSSVTN để các em hiểu rõ mục đích, ý nghĩa của công tác
này qua đó mà biết cách tự chăm sóc và bảo vệ bản thân.
-Tổ chức hướng dẫn, tập huấn cho cán bộ, giáo viên và
các bậc cha mẹ học sinh những kiến thức khoa học về giới



×