Tải bản đầy đủ (.pdf) (145 trang)

TỔ CHỨC DẠY HỌC CHO HỌC SINH DÂN TỌC, MIỀN NÚI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.77 MB, 145 trang )

TS. PHẠM HỒNG QUANG

TỔ CHỨC DẠY HỌC CHO
HỌC SINH DÂN TỌC, MIỀN NÚI

NHÀ XUẤT BẢN ĐẠI HỌC SƯ PHẠM

1


LỜI GIỚI THIỆU
Nâng cao chất lượng giáo dục là một nhiệm vụ quan
trọng của ngành Giáo dục và Đào tạo. Đặc biệt hơn nữa là
phải đẩy nhanh chất lượng giáo dục miền núi nhằm đáp ứng
yêu cầu đào tạo nguồn nhân lực để phát triển kinh tế - văn
hoá ở khu vực chiến lược này. Tuy nhiên thực trạng giáo dục
miền núi có nhiều bất cập, khó khăn do tính đặc thù cần
được tháo gỡ. Phục vụ cho mục đích trên, TS. Phạm Hồng
Quang - Trưởng phòng Đào tạo - Nghiên cứu khoa học Quan hệ quốc tế, Trường Đại học Sư phạm - Đại học Thái
Nguyên biên soạn tài liệu "Tổ chức dạy học cho học sinh
dân tộc, miền núi" phục vụ cho đối tượng bạn đọc là sinh
viên các trường sư phạm, giáo viên đang giảng dạy ở các
trường miền núi.
Tác giả đã phân tích khá sâu sắc đặc điểm tâm lý của học
sinh miền núi, những nét đặc thù về lịch sử, địa lý, kinh tế,
truyền thống văn hoá, giáo dục miền núi, từ đó để trình bày
phương pháp và các hình thức tổ chức học tập phù hợp với
học sinh các dân tộc miền núi và điều kiện dạy học ở miền
núi. Đây là một tài liệu quý được tác giả nghiên cứu nghiêm
túc, đưa ra nhiều ý kiến thiết thực cho những ai quan tâm
đến chất lượng dạy học và giáo dục đối với học sinh các dân


tộc miền núi. Nội dung cuốn sách thể hiện sự am hiểu sâu
sắc của tác giả về lý luận dạy học và thực tiễn giáo dục miền
núi, cũng như những yêu cầu cấp thiết của sự phát triển kinh
tế văn hoá miền núi đối với sự nghiệp giáo dục miền núi
hiện nay.
Cuốn sách dày 138 trang với văn phong chân thực, sinh
động, có những chỉ dẫn cụ thể, dễ hiểu, dễ vận dụng đối với

2


độc giả đang học tập và công tác ở những vùng đặc biệt khó
khăn này của đất nước.
Chúng tôi xin trân trọng giới thiệu cùng bạn đọc tài liệu
quý này.
PGS. TS. Phạm Viết Vượng
Viện trưởng Viện Nghiên cứu Sư phạm
Trường Đại học Sư phạm Hà Nội

3


MỤC LỤC
Trang
LỜI GIỚI THIỆU.................................................................................. 2
Chương 1. ĐẶC ĐIỂM TÂM LÝ HỌC SINH DÂN TỘC................... 8
1. Đặc điểm điều kiện tự nhiên - xã hội - văn hoá ở miền núi phía Bắc
...................................................................................................... 10
2. Đặc điểm tâm lý của học sinh dân tộc trong quá trình học tập........ 24
3. Đặc điểm nhu cầu của học sinh dân tộc .......................................... 31

4. Đặc điểm giao tiếp của học sinh dân tộc ......................................... 37
CÂU HỎI ÔN TẬP............................................................................. 43
BÀI TẬP ............................................................................................. 43
Chương 2. TỔ CHỨC DẬY HỌC CHO HỌC SINH DÂN TỘC,
MIỀN NÚI.................................................................................... 44
1. Khái niệm học tập ........................................................................... 45
2. Tổ chức dạy học .............................................................................. 49
3. Các biện pháp tổ chức dạy học cho học sinh................................... 60
4. Một số biện pháp cụ thể trong việc tổ chức dạy học cho học sinh dân
tộc, miền núi................................................................................. 69
5. Vấn đề tối ưu hoá dạy học............................................................... 71
CÂU HỎI ÔN TẬP............................................................................. 75
BÀI TẬP ............................................................................................. 75
Chương 3. HOẠT ĐỘNG TỰ HỌC Ở TRƯỜNG PHỔ THÔNG DÂN
TỘC, MIỀN NÚI.......................................................................... 77
1. Khái niệm tự học............................................................................. 77
2. Nội dung và yêu cầu của tự học ...................................................... 89
3. Các hình thức tổ chức tự học ở trường phổ thông miền núi............ 95
4. Hình thành kỹ năng tự tổ chức học tập cho học sinh....................... 99
CÂU HỎI ÔN TẬP........................................................................... 110
BÀI TẬP ........................................................................................... 110
Chương 4. PHƯƠNG HƯƠNG VÀ BIỆN PHÁP TỔ CHỨC TỰ HỌC
CHO HỌC SINH DÂN TỘC, MIỀN NÚI NHẰM NÂNG CAO
CHẤT LƯỢNG GIÁO DỤC...................................................... 112
1. Hình thành và phát triển vững chắc kỹ năng tự học cho học sinh dân
tộc miền núi................................................................................ 114
2. Xây dựng hệ thống bài tập nhằm nâng cao chất lượng tự học cho học
sinh dân tộc, miền núi................................................................. 125
U


4


3. Cải tiến cách thức kiểm tra và đánh giá hoạt động tự học của học
sinh ............................................................................................. 131
4. Các điều kiện để có thể tổ chức tự học tốt cho học sinh dân tộc miền
núi............................................................................................... 137
CÂU HỎI ÔN TẬP........................................................................... 141
BÀI TẬP ........................................................................................... 141
TÀI LIỆU THAM KHẢO................................................................. 142

5


LỜI NÓI ĐẦU
Lí luận dạy học là hệ thống lí luận về hoạt động dạy và
học được tiến hành trong sự thống nhất biện chứng. Từ
những nội dung cơ bản của lí luận dạy học, chúng ta có lí
luận dạy học phổ thông, lí luận dạy học đại học... Tiếp cận
đối tượng học tập, cần thiết phải có các hình thức tổ chức
dạy học và học tập phù hợp với đặc điểm của đối tượng.
Không có chuẩn riêng về dạy học cho học sinh miền núi, chỉ
có sự dạy học thích hợp với từng đối tượng và người học
thấy được ý nghĩa của việc học.
Thực tiễn dạy học miền núi đang đòi hỏi phải có cách tổ
chức dạy học riêng, thích hợp. Người giáo viên miền núi
cũng đang phải đối mặt với thực tế dạy học ~ còn tồn tại
mâu thuẫn giữa yêu cầu nâng cao chất lượng với thực tiễn,
điều kiện học tập ở miền núi còn nhiều hạn chế.
Mục đích của tài liệu này nhằm cung cấp cho các giáo

sinh sư phạm, các giáo viên đang dạy học ở miền núi tham
khảo hệ thống tri thức về lí luận dạy học với các hình thức tổ
chức dạy học theo hướng hoạt động hoá người học, trong đó
hình thức tự học được đề cao. Nội dung giáo trình này được
trình bày trong 4 chương: Chuơng 1 : Đặc điểm tâm lý học
sinh dân tộc; Chương 2: Hình thức tổ chức dạy học cho học
sinh dân tộc, miền núi; Chương 3: Hoạt động tự học ở
trường phổ thông dân tộc miền núi; Chương 4: Phương
hướng và biện pháp tổ chức tự học cho học sinh dân tộc,
miền núi nhằm nâng cao chất lượng giáo dục.
Trong quá trình biên soạn, chúng tôi đế hệ thống hoá từ
nguồn tài liệu của các tác giả đi trước, đồng thời cố gắng
trình bày những nội dung có ý nghĩa thực tiễn đối với các

6


giáo sinh sư phạm sẽ dạy học ở miền núi và đối với các giáo
viên đang dạy ở trung học phổ thông.
Trong quá trình hoàn thiện giáo trình này, tác giả mong
nhận được sự góp ý của các đồng nghiệp và bạn đọc.
Thái Nguyên, 10-2002
Tác giả

7


Chương 1
ĐẶC ĐIỂM TÂM LÝ HỌC SINH DÂN TỘC
Mục tiêu của chương

Nhăm cung cấp cho các giáo sinh sư phạm, các giáo viên
trung học phổ thông:
* Hệ thông tri thức về tâm lí học sinh dân tộc với những
đặc điểm cơ bản về nhận thức, nhu cầu, giao tiếp trong điều
kiện nhất định.
* Phát triển kĩ năng vận dụng những tri thức tâm lí học
vào hoạt động dạy học có hiệu quả ở miền núi.
* Định hướng thái độ đúng đắn cho người học về quan
điểm dạy học, đánh giá học sinh dân tộc miền núi theo quan
điểm phát triển, đảm bảo nguyên tắc bình đẳng đoàn kết
giữa các dân tộc.
Chúng ta đều biết rằng: đặc trưng tâm lý dân tộc là một
hình thái đặc biệt của tâm lý xã hội và có tính bền vững.
Theo X M. Aruchiunhian: đặc trưng tâm lý dân tộc là những
sắc thái dân tộc độc đáo của tình cảm và xúc cảm, là cách
nghĩ và hành động, là những nét tâm lý bền vững của thói
quen, là truyền thông được hình thành dưới ảnh hưởng
những điều kiện của đời sông vật chất, những đặc điểm của
con đường phát triển lịch sử của một dân tộc nhất định và
được biểu hiện trong đặc trưng văn hoá và sinh hoạt của
dân tộc đó. Theo tác giả, trong đặc điểm tâm lý dân tộc nên
chia làm hai mặt, mặt tương đối bền vững được truyền từ thế
hệ này sang thế hệ khác, được phong phú thêm trong mỗi

8


giai đoạn lịch sử mới và mặt thứ hai tương đối “động” hơn.
Tìm hiểu những kết quả nghiên cứu của các tác giả đi
trước đã khiến chúng ta nhận ra một quy luật quan trọng

rằng: cấu trúc tâm lý biểu hiện trọng cộng đồng văn hoá là
một đặc trưng quan trọng để hình thành dân tộc. Tiến trình
phát triển một cộng đồng người được hình thành trong quá
trình lịch sử đã hình thành nên những đặc điểm văn hoá
tương đối ổn định..và một số đặc điểm tâm lý tương ứng.
Điều này có nghĩa là mỗi dân tộc có một đặc điểm tâm lý
riêng, mang tính chất xã hội - lịch sử. Do đó, một trong
những nhiệm vụ quan trọng của dạy học và giáo dục hiện
nay là làm phong phú thêm, phát triển những giá trị, sắc thái
riêng tốt đẹp của các dân tộc để lưu giữ, để bảo tồn và phát
triển, mặt khác cũng cần khắc phục những hạn chế, nhằm
phát triển toàn diện con người trong sự nghiệp công nghiệp
hoá, hiện đại hoá đất nước.
Nghiên cứu, tìm hiểu đặc điểm tâm lý học sinh dân tộc là
một nhiệm vụ quan trọng của công tác giáo dục, dạy học ở
miền núi. Tuy nhiên, đây cũng là một công việc khó khăn
đòi hỏi phải có quá trình nghiên cứu công phu với các cách
nghiên cứu đặc trưng. Những năm qua, đã có nhiều tác giả
quan tâm nghiên cứu và đem lại những kết quả đáng trân
trọng. Một trong những nguyên tắc cơ bản đã được thống
nhất trong các công trình nghiên cứu về vấn đề này là: tìm
hiểu cái đặc thù trong cái phổ biến, cái riêng trong quan hệ
với cái chung; quan điểm bình đẳng, đoàn kết giữa các dân
tộc, đồng thời đảm bảo nguyên tắc cơ bản của phép biện
chứng duy vật khi nghiên cứu và lý giải hiện tượng tâm lý
người.
Như vậy, từ những kết quả nghiên cứu đúng đắn về

9



những đặc điểm tâm lí cơ bản của đối tượng sẽ xây dựng và
thực hiện các định hướng tổ chức học tập hợp lí, có hiệu quả
trong dạy và học ở miền núi. Đây cũng là vấn đề cơ bản của
lí luận dạy học khi triển khai áp dụng trên các đối tượng cụ
thể. Do đó, trong chương này sẽ đề cập đến các nội dung
sau: một số đặc điểm về điều kiện tự nhiên - xã hội - văn
hoá; đặc điểm giáo dục ở miền nín phía Bắc Việt Nam; đặc
điểm quá trình nhận thức, đặc điểm nhu cầu, đặc điểm giao
tiếp của học sinh dân tộc để làm cơ sở cho việc thực hiện các
biện pháp tổ chức học tập có hiệu quả.
1. Đặc điểm điều kiện tự nhiên - xã hội - văn hoá ở
miền núi phía Bắc
Miền núi phía Bắc nước ta gồm các tỉnh: Quảng Ninh,
Lạng Sơn, Cao Bằng, Bắc Kim, Bắc Giang, Hà Giang,
Tuyên Quang, Yên Bái, Lào Cai, Lai Châu, Sơn La, Thái
Nguyên, Hoà Bình,. .. chưa kể một số huyện, xã miền núi ở
các tỉnh Hải Dương, Hà Tây, Ninh Bình. Đây là nơi cư trú
của nhiều đồng bào dân tộc thiểu số (Tày, Nùng, Cao Lan...)
hoặc sống xen kẽ với người Kinh hoặc cư trú biệt lập theo
vùng như: H'mông, Mường, Thái, Giấy, Hà Nhì... Phần lớn
khu vực miền núi phía Bắc nước ta, điều kiện tự nhiên
không thuận lợi, cư trú của đồng bào dân tộc thiểu số chủ
yếu ở vùng núi cao, trung du, khí hậu khắc nghiệt, giao
thông chưa phát triển. Nền kinh tế thị trường tuy đã khởi sắc
ít nhiều ở miền núi song mới chỉ tập trung ở những vùng đất
màu mỡ, các thị trấn, thị xã, ven đường quốc lộ. .. kinh tế
miền núi chủ yếu vẫn mang tính chất tự cung tự cấp, quảng
canh trên nương rẫy, thu nhập thấp, nạn đói vẫn là nỗi lo của
nhiều đồng bào dân tộc thiểu số. Ngày nay, cuộc sống du

canh du cư tuy đã được dần dần xoá bỏ, sự chuyển dịch cơ

10


cấu đang có ý nghĩa tích cực đối với đời sống nhân dân miền
núi, song chất lượng cuộc sống của nhiều dân tộc thiểu số
vẫn còn ở mức rất thấp. Nhiều dân tộc như H'mông, Dao...cư
trú ở vùng cao khắc nghiệt khô cằn với thói quen đốt nương
làm rẫy, chọc lỗ tra hạt vẫn còn phổ biến. Chỉ tính riêng vấn
đề thời gian lao động đã chiếm phần lớn trong đời sống của
họ: "Từ tháng 2 đến tháng 10 là làm nương, canh tác, chăn
nuôi, thời gian còn lại là lễ hội, ma chay, cưới xin.. . trẻ em
13 tuổi đã là lao động chính trong gia đình (thời gian tù 10
giở/ngày), nạn thiêu đói từ 1 đến 6 tháng vẫn
cònphổbiến..." 1 .
Cuộc sống gắn bó với thiên nhiên, với lao động thủ công
là chủ yếu làm nảy sinh tư duy cụ thể, cho nên một số dân
tộc chưa có nhu cầu, truyền thông học khoa học, kỹ thuật.
Tâm lý không có lúa ngô thì đói, không có cái chữ thì đã
chết ai đâu" vẫn tồn tại, ảnh hưởng xấu đến công tác giáo
dục ở miền núi hiện nay. Trong chiến lược phát triển giáo
dục ở các vùng núi khó khăn đã cho thấy: hình thức vận
động để trẻ em đến trường và duy trì sĩ số học sinh là một
nhiệm vụ và chỉ tiêu quan trọng phải phấn đấu, đã nói lên
mức độ khó khăn của công tác giáo dục miền núi. Trong
điều kiện ấy, ở nhiều nơi, yếu tố chất lượng dạy học còn
được xem xét từ một phương diện khác là đánh giá mức độ
tích cực và nhiệt tình của giáo viên là đủ.
ở phương diện lịch sử - xã hội, trong quá trình phát triển


1. Phạm Hồng Quang - Về điều kiện môi trường của học sinh
H’Mông trong quá trình học tiếng Việt. Tạp chí NCGD, 1992.
tr.32

11


cách mạng, miền núi Bắc Việt Nam là nơi chứng kiến những
chiến thắng: vĩ đại như chiến thắng Biên giới, Sông Lô, Điện
Biên Phủ.. . Chiến khu Việt Bắc là căn cứ địa cách mạng, cơ
quan đầu não của Đảng. Trong hơn 30 năm, trải qua các
cuộc kháng chiến, nơi này đã có vai trò quyết định đến thắng
lợi của của cách mạng Việt Nam. Nhờ vào sự che chở, đùm
bọc, cống
hiến sức người sức của của các dân tộc anh em, cuộc
kháng chiến chống Pháp đã thắng lợi hoàn toàn. Sau 1954,
cùng với cả nước, miền núi phía Bắc Việt Nam cùng miền
xuôi là hậu phương lớn cho miền Nam. Miền núi phía Bắc
Việt Nam là cửa ngõ giao tế với Liên Xô, Trung Quốc, là
nơi hậu thuẫn cho các cơ quan, nhà máy, trường học sơ tán
suốt cuộc chiến tranh phá hoại ở miền Bắc. Cho đến nay, về
phương diện tâm lí - xã hội, các dân tộc anh em đã kết tụ
được nhiều giá trị quý báu. Có thể kể đến các phẩm chất: yêu
nước nồng nàn; đoàn kết yêu thương đùm bọc nhau; trung
thực, dũng cảm; có niềm tin sắt đá với những tên gọi đậm đà
chất "miền núi" rất đỗi thân thương đã in đậm vào tâm trí
nhiều thế hệ, như Việt Bắc, Tây Bắc, Trung du, Chiến khu...,
những hình ảnh ấy đã được khắc họa sâu đậm và trở thành
hình tượng tiêu biểu cho văn học nghệ thuật giai đoạn kháng

chiến, phản ánh những giá trị tinh thần quý báu của đồng
bào các dân tộc dành cho cách mạng: "Bát cơm sẻ nửa, chăn
sui đắp cùng" (Tố Hữu).
Những giá trị này được biểu hiện trong lối sống văn hoá,
trong giao lưu, trong đời sống tinh thần của các dân tộc và
điều quan trọng là nó đã trở thành tự nhiên, như sự vốn có,
đã in đậm vào lối sống, đời sống tình cảm và được xem như
là cốt cách của các dân tộc miền núi, là giá tri vĩnh cửu của

12


cộng đồng các dân tộc thiểu số.
Mỗi dân tộc, mỗi vùng đều gắn với điều kiện tự nhiên và
có đặc trưng sản xuất riêng. Người Kinh cư trú chủ yếu ở
đồng bằng, vùng núi thấp, gắn với nền sản xuất lúa nước.
Người Tày, Nùng, Thái cư trú chủ yếu vùng núi trung du,
ven đường cái quan hoặc quần cư theo cụm làng - xã. Mặc
dầu xen kẽ trong vùng núi trung du vẫn có chuyên canh lúa
nước, song phương thức trồng lúa nước của đồng bào cũng
khác người Kinh. Người Cao Lan, Sán Chỉ, Mường cũng cư
trú rải rác khắp vùng Đông
Bắc và Tây Bắc sống xen kẽ ở vùng núi - trung du - đồng
bằng.
Người Dao, người H' Mông, Lô Lô sống chủ yếu ở vùng
núi cao với phương thức quảng canh trên nương rẫy là chủ
yếu. Mặc dầu với các chương trình khuyến nông, khuyến
lâm, chương trình 135 của Chính phủ, chương trình dành
cho các xã đặc biệt khó khăn, đời sống của đồng bào các dân
tộc thiểu số miền Bắc Việt Nam đã có tăng lên, song nhìn

chung năng suất lao động còn thấp. Do lối suy nghĩ, cách
sống và sản xuất gắn bó mật thiết với tự nhiên, với thiên
nhiên phần nào ảnh hưởng đến phương thức canh tác của
đồng bào chủ yếu là lao động giản đơn, công cụ lao động lạc
hậu. Hiện tại, ở nhiều vùng sâu khó khăn, dân trí chưa được
nâng cao, tỷ lệ mù chữ và tái mù chữ còn cao, trẻ em thất
học còn nhiều ở miền núi... đã và đang là một trong các vấn
đề bức xúc của giáo dục miền núi hiện nay. Truyền thống
văn hoá, phong tục tập quán của đồng bào dân tộc thiểu số
đã được hình thành lâu đời, trở thành cách nghĩ, nếp sống,
thói quen sinh hoạt ổn định. Đồng bào các dân tộc thiểu số
có rất nhiều truyền thống tốt đẹp như: truyền thông đấu

13


tranh cách mạng, đoàn, kết, lòng thương người, tinh thần
cần cù, dũng cảm, đức tính trung thực, chất phác, thật thà. .
Đặc biệt, tinh thần quý trọng người đem "cái chữ", ánh sáng
văn minh đến cho mình, sông tình nghĩa, quý sự chân thành,
tuân thủ người đứng đầu. .. là những giá trị quý báu đang
tồn tại vững chắc trong tâm lý đồng bào miền núi. Tuy
nhiên, còn một số phong tục tập quán lạc hậu - có nơi trở
thành luật tục do quá suy tôn sùng bái, đã trở thành yếu tố
cản trở cho sự phát triển kinh tế - văn hoá ở miền núi, như:
tục tảo hôn, tục ma chay cưới xin tôn kém, các lễ nghi cúng
bái quanh năm, tục nối dây. .. Những tập tục này nhiều khi
có sức cuốn hút lớn đối với con người miền núi, nhiều khi
trở thành nhu cầu tinh thần, một nét điển hình trong nếp
sống văn hoá khó thay đổi. Đây cũng là một đặc điểm cần

chú ý khi tiếp cận nghiên cứu các vấn đề về tâm lí học dân
tộc. Người miền núi, trong quan hệ gia đình, dòng tộc có sự
ràng buộc gắn bó, do vậy, học sinh đi học xa, họ sợ mất
gốc". Điều này có thể lý giải cho hiện tượng: học sinh miền
núi từ các trường phổ thông dân tộc nội trú, từ các trường
đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp bỏ học trở về
quê lấy vớ, lấy chồng, hoặc đi làm... một cách tự nhiên.
Hơn mười năm trở lại đây, do sự tác động của kinh tế thị
trường, bên cạnh mặt tích cực là nâng lên một bước chất
lượng cuộc sống cho các dân tộc thiểu số và đây là điều kiện
quan trọng để phát triển kinh tế, văn hoá cho miền núi, song
cũng nảy sinh nhiều tác động tiêu cực. Việc mở cửa biên
giới, cùng với sự xuất hiện các tệ nạn xã hội như: buôn lậu,
ma tuý, bạo lực đang làm cho đời sống tinh thần ở một số
nơi biến dạng. Từ bình diện tâm lý - xã hội, dễ nhận thấy:
học sinh, thanh niên miền núi đã có sự biến chuyển tích cực

14


trong nhận thức, trong lối sống dưới tác động của môi
trường, điều kiện mới do ảnh hưởng của kinh tế thị trường,
ảnh hưởng của hệ thống các trường đại học, trung học
chuyên nghiệp, dạy nghề, hệ thống trường phổ thông dân tộc
nội trú... Tuy nhiên, sự tiếp nhận này có phân hoá theo chiều
hưởng đối ngược nhau: một bộ phận thanh niên miền núi
hấp thụ nhanh chóng nền văn minh của giáo dục, của môi
trường, điều kiện mới, đã tạo ra sinh. khí mới tết đẹp trong
lối sống, tự lực tự cường, phát triển truyền thống tốt đẹp của
dân tộc mình. Một bộ phận khác, tập trung ở lứa tuổi thanh

niên do "hẫng hụt" và "choáng ngợp" trước sự đổi thay, tiếp
thu không chọn lọc lối sống thực dụng, đua đòi, ham vật
chất trong khi còn những hạn chế cố hữu của cộng đồng đã
ngấm sâu khó xoá bỏ của họ. Nét tâm lý này tuy không đặc
trưng, song gây trở ngại cho công tác giáo dục hiện nay ở
miền núi, vấn đề này cũng cần lưu ý trong công tác giáo dục
học sinh dân tộc miền núi hiện nay.
Một nét điển hình về văn hoá - xã hội miền núi là quan hệ
dân tộc (quan hệ tộc người). Theo các nhà dân tộc học 1 , ở
miền Bắc Việt Nam, trong quan hệ dân tộc có thể xét đến
những mối quan hệ cơ bản như sau (những quan hệ này ảnh
hưởng đến toàn bộ đời sống văn hoá, tinh thần của nhân dân
và- tác động đến đặc trưng văn hoá, tâm lý của cá nhân).
Quan hệ dân tộc về pkương diện ngôn ngữ
Ngôn ngữ là công cụ giao tiếp quan trọng của các dân tộc
trên thế giới. Việc lựa chọn ngôn ngữ nào làm công cụ giao
1. Lê Sĩ Giáo - Quan hệ dân tộc ở miền Bắc Việt Nam, Tạp chí
Dân tộc học, 2/1996. tr.27-34.

15


tiếp chung đều có những cơ sở thực tiễn của nó. Vùng Đông
Bắc, tiếng Tày - Nùng được coi là ngôn ngữ khu vực, với
Tây Bắc, vị trí đó là tiếng Thái. ở các địa bàn còn lại của
miền Bắc Việt Nam, tiếng Việt đã trở thành ngôn ngữ chung
được lựa chọn của các dân tộc, bao trùm lên các khu vực
trên địa bàn cả nước và con đường ảnh hưởng của nó từ
vùng đô thị đến vùng phụ cận, các làng bản, dựa trên các
quan hệ kinh tế - xã hội của cộng đồng và cá nhân. Từ thực

tiễn này, theo quan điểm của tác giả Lê Sỹ Giáo: Phải coi
việc giáo dục ngôn ngữ phổ thông là điều kiện bắt buộc cho
các cấp tiểu học, không loại trừ một vùng nào, vì đây là
công cụ giao tiếp cho cả 54 tộc người sinh sống trên lãnh
thổ của đất nước, chúng ta cần coi đây là một quan điểm hết
sức quan trọng trong việc phát triển ngôn ngữ phổ thông cho
học sinh dân tộc trong chiến lược giáo dục.

Quan hệ dân tộc trên các lĩnh vực sinh hoạt - văn
hoá
Đây là một trong ba ltiêu chí để xác định tộc người: ngôn
ngữ chung; các đặc trưng sinh hoạt - văn hoá; ý thức tự giác
tộc người. Do cư trú xen kẽ, có sự giao lưu văn hoá từ lâu
nên văn hoá Kinh (kể cả yếu tố ngoại Kinh) bị "kinh hoá",
đã khuếch tán ảnh hưởng của nó đến đời sống của hầu hết
các cư dân trên lãnh thổ Việt Nam. Nếp sinh hoạt văn hoá ở
Đông Bắc có tính chất khác với vùng Tây Bắc, song có
những giá trị tinh thần, đạo đức đã trở thành hằng số văn
hoá như lòng chung thuỷ, đức thương người tính vị tha, kính
già, yêu trẻ... các giá trị này được thể hiện ở các tộc người
theo đặc thù và sắc thái riêng của nó.


16

Quan hệ dân tộc dựa trên lãnh thổ


Các tỉnh miền núi phía Bắc nước ta có kết cấu thành phần
tộc người phong phú (cao nhất ở Lai Châu 27 dân tộc, Sơn

La 12 dân tộc. ..). Do cư trú xen kẽ giữa các cư dân làm nẩy
sinh hai khuynh hướng đối lập: đoàn kết, đùm bọc, che chở
và hiểm khích, xung đột, xích mích. Trong quan hệ nội bộ
tộc người có những điểm sau cần chú ý: trưởng tộc (người
H'mông); yếu tố dòng họ (người Tày, Mường, Thái...). Quan
hệ tộc người hiện nay trong nhiều trường hợp còn đồng
nghĩa với quan hệ công dân, nảy sinh những quan hệ tốt đẹp.
Ví dụ như quan hệ giữa nhân dân với đồn biên phòng, với
các cơ quan Nhà nước. ..

Hiện trạng giáo dục ở miền núi phía Bắc và phương
hướng giải quyết
Về tình hình giáo dục Việt Nam hiện nay, theo Quyết
định số 201/20011QĐ - TTg ngày 28-12-2001 của Thủ
tướng Chính phủ về việc phê duyệt "Chiến lược phát triển
giáo dục 2001- 2010", trong đó đã nêu lên những yếu kém
của giáo dục nước ta:. .. yếu về chất lượng, mất cân đối về
cơ cấu, hiệu quả giáo dục chưa cao, giáo dục chưa gắn bó
chặt chẽ với thực tiễn, đào tạo chưa gắn với sử dụng, đội
ngu giáo viên còn yếu, cơ sở vật chất còn thiếu; chương
trình giáo trình, phương pháp giáo dục và công tác quản lí
chậm đổi mới,.... Giáo dục miền núi cũng nằm trong tình
trạng trên đây. Có thể kể đến những đặc điểm nổi bật sau
đây:.
- Nạn mù chữ chưa giảm, nhiều dân tộc thiểu số có tỷ lệ
mù chữ quá cao như: người H'mông, Lô Lô, Dao... Trong
tổng số người mù chữ ở độ tuổi 15 - 35 là 2 triệu người thì
miền núi phía Bắc chiếm tỉ lệ 47 % (1995). Nhiều tỉnh còn
tỷ lệ người mù chữ ở độ tuổi trên là khá cao như: Hà Giang,


17


Lai Châu... Mặt bằng dân trí còn thấp, chưa đủ tiềm lực trí
tuệ để tăng trưởng kinh tế xã hội. Mặc dầu nhiều tỉnh' đã
hoàn thành phổ cập giáo dục tiểu học và xoá mù chữ, song
để giữ vững được thành quả của công tác này là một nhiệm
vụ khó khăn.
Trình độ văn hoá của đội ngũ cán bộ quản lý rất thấp,
thiếu về số lượng và yếu về chất lượng, phân bố trình độ lại
không đều giữa các dân tộc, cơ cấu các ngành mất cân đối.
Nhiều dân tộc chưa có người đạt trình độ đại học, nhiều
ngành kinh tế - xã hội ở miền núi không có cán bộ nòng cốt.
Nhiều huyện ở miền núi cao hàng năm không có học sinh thi
đỗ đại học qua kì thi tuyển quốc gia.
Hiện trạng học sinh lưu ban bỏ học vẫn còn nhiều, chất
lượng học tập của học sinh miền núi thấp kém, tỷ lệ đạt
trung bình, yếu kém còn cao, động cơ, mục đích học tập
giảm sút.
- Đồng thời, nội dung chương trình, phương pháp giảng
dạy, cách đánh giá và điều kiện tổ chức trường lớp còn
nhiều bất cập và khó khăn. Hiện tượng dập khuôn máy móc
trong công tác giáo dục, hoặc nặng về "mềm hoá', "ưu tiên"
từ đầu vào đến đầu ra càng làm cho giáo dục miền núi thêm
khó khăn. Quan điểm chung của chúng ta là tạo điều kiện tốt
nhất cho học sinh học tập để đảm bảo chuẩn chung về trình
độ đào tạo. Sự ưu tiên của nhà nước cho giáo dục miền núi
là tập trung ưutiên về điều kiện cho giáo dục, cho học tập;
việc ưu tiên bằng việc hạ thấp điểm chuẩn đầu vào; việc hạ
thấp yêu cầu không phải là có căn cứ khoa học.


18


Theo tác giả Nông Thị Quyên 1 giáo dục miền núi còn nổi
cộm các vấn đề sau: cơ sở vật chất nghèo nàn và xuống cấp
nghiêm trọng,. nhiều nơi còn đến 80 - 90% lớp học tranh tre
nứa lá không có thư viện, xưởng trường, bàn ghế... chất
lượng giảng dạy còn thấp, thiếu nhiều giáo viên địa phương,
hiện chỉ chiếm từ 8,6 - 50,9% là người dân tộc (số liệu
1995); tỷ lệ giáo viên chưa chuẩn hoá khá cao. Nội dung,
chương trình giảng dạy cho học sinh dân tộc còn nặng, ít bổ
sung kiến thức địa phương mang tính đặc thù miền núi, dân
tộc.
Đặc biệt là theo Chiến lược phát triển giáo dục 20012010, quá trình thực hiện mục tiêu phổ cập Trung học cơ sở
vào năm 2005, năm 2010 còn nhiều khó khăn ở miền núi.
Tuy nhiên, bộ mặt của giáo dục miền núi đã có nhiều khởi
sắc: hệ thống trường sư phạm, trường phổ thông dân tộc nội
trú, bán trú đã được nhà nước đầu tư lớn, cơ sở vật chất
khang trang, đội ngũ giáo viên ở nhiều vùng đã tương đối
đạt chuẩn, nhiều tỉnh khó khăn như Tuyên Quang, Hà Giang
đã có sự đột phá mạnh mẽ về vấn đề nâng cao chất lượng đội
ngũ giáo viên.
Như vậy, sự phát triển- chênh lệch giữa các dân tộc về
mặt kinh tế, văn hoá, giáo dục là đặc điểm cơ bản ở miền
núi. Sau gần 5 thập kỷ đấu tranh cho sự bình đẳng dân tộc,
chúng ta đã giành được nhiều thành tựu lớn song còn không
ít khó khăn. Theo cách phân loại phân vùng văn hoá của GS
Trần Quốc Vượng, trong lãnh thổ Việt Nam hiện tại được
1


. Dẫn theo "Vài nết về thực trạng giáo dục ở một sô' cộng
đồng DTTS" Tạp chí Phát triển giáo dục, 5/1995. Tr.18 - 14.

19


phân thành 6
vùng: Vùng văn hoá Tây Bắc; Việt Bắc; Bắc Bộ; Trung
Bộ; Tây Nguyên; Nam Bộ. ở mỗi vùng có những tộc người
tiêu biểu, có biểu tượng văn hoá riêng, có các loại hình nghệ
thuật tiêu biểu, ngôn ngữ riêng, và đặc biệt là vai trò trong
lịch sử phát triển văn hoá dân tộc cũng khác nhau.
Từ khía cạnh giáo dục học, vấn đề chúng ta quan tâm đến
là: liệu mỗi dân tộc ít người ở miền núi phía Bắc Việt Nam
có còn giữ được bản sắc văn hoá của dân tộc mình hay
không? Sứ mạng của giáo dục như thế nào trước vấn đề
trọng đại này, bởi không giữ được bản sắc văn hoá dân tộc
thì sẽ không còn Tổ quốc. Nếu còn lưu giữ được bản sắc văn
hoá thì những nội dung nào cần phát triển, yếu tố nào cần
đưa vào giáo dục cho thế hệ trẻ.
Trong quá trình phát triển kinh tế xã hội ở miền núi, bên
cạnh những thuận lợi và kết quả tốt đẹp xuất hiện những
mâu thuẫn và khó khăn. Ví dụ: giữa sự phát triển và ảnh
hưởng mạnh của kinh tế thị trường có tính chất đòi hỏi
nhanh, lợi ích rõ ràng, mâu thuẫn với sự chậm chạp trong
phát triển kinh tế xã hội ở miền núi. Đặc biệt là tác động
mạnh và hết sức năng động của nền văn hoá đa dạng (do
kinh tế thị trường đem lại; do hội nhập, do giao lưu) đã mâu
thuẫn với tính chất ổn định tương đối về văn hoá - xã hội

miền núi. Điều này đã làm thay đổi xã hội theo hướng tích
cực, đồng thời xuất hiện các tệ nạn xã hội, xuất hiện những
tiêu cực ảnh hướng xấu đến văn hoá, giáo dục miền núi.
Sự di chuyển dân số của con người từ vùng chậm phát
triển đến vùng phát triển cùng với lối sống ở hai vùng đã
làm tăng cơ hội giao lưu song cũng xuất hiện những vấn đề

20


đan xen phức tạp. Việc mở cửa biên giới hơn 10 năm qua đã
làm thay đổi tích cực về đời sống nhân dân, góp phần tàng
trưởng kinh tế địa phương, song cũng xuất hiện các tệ nạn
như: buôn lậu, ma tuý, kéo theo đó là hiện tượng thương
trường hoá đời sống văn hoá tinh thần trong khi phần lớn
dân cư chưa có sự chuẩn bị tiếp nhận. Đặc biệt là hiện tượng
bùng nổ các mỏ đào đãi vàng, đá quý, quặng hiếm với cách
khai thác tài nguyên bừa bãi, một bộ phận dân cư có thu
nhập rất cao, một bộ phận thương lái và dịch vụ đi kèm với
món lợi nhuận lớn ảnh hưởng tiêu cực đến đời sống khó
khăn của đồng bào các dân tộc.
Sống trong bối cảnh phức tạp, có nhiều mâu thuẫn ở trên,
thanh niên miền núi chịu tác động mạnh. Đặc biệt ngay từ
khi còn nhỏ, học sinh dân tộc chủ yếu sống ở quê hương, về
cơ bản là họ sinh sống ở các vùng chậm phát triển, đến khi
học tập ở vùng phát triển hơn thì cũng gặp những khó khăn
nhất định. Trong đó phải kể đến sự thay đổi lớn về các giá
trị, mức sống, điều kiện sống và học tập cũng như các loại
hình van hoá nghệ thuật. Phát triển mạnh mẽ kinh tế xã hội
ở miền núi hiện nay là tiền đề căn bản đê phát triển văn hoá,

giáo dục. Mối quan hệ giữa kinh tế và giáo dục là mối quan
hệ tương hỗ, đặc biệt ở miền núi thì vai trò của phát triển
kinh tế trong đó mục tiêu cơ bản là nâng cao chất lượng cuộc
sống của đồng bào cùng với sự phát triển giáo dục và văn
hoá phải được coi là mục tiêu then chốt. Theo các nhà
nghiên cứu, nơi nào còn chậm phát triển thì càng phải đẩy
nhanh tốc độ phát triển giáo dục, và chỉ có nhờ vào yếu tố
này mới hy vọng đưa nền kinh tế thoát khỏi nghèo nàn lạc
hậu. Trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường theo định
hướng xã hội chủ nghĩa, kinh tế miền núi bên cạnh những

21


thuận lợi, còn phải chịu sự tác động tiêu cực của mặt trái do
kinh tế thị trường đem lại. Những tác động này làm thay đổi
các giá trị xã hội. Có thể kể đến các yếu tố sau đây đang tồn
tại trong xã hội:
• Lối sống thực dụng, quay lưng với quá khứ, vọng
ngoại.
• Mưu cầu lợi ích riêng, chà đạp lên chuẩn mực xã hội.
• Sùng bái đồng tiền, tự ti mặc cảm, tiếp thu thiếu chọn
lọc.
• Tính tự phát trong khi trở về cái cũ, khôi phục tập tục
xấu.
• Tồn tại các loại hình phản van hoá.
Phát triển giáo dục, nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực,
bồi dưỡng nhân tài. Chiến lược này là tiền đề quyết định cho
phát triển kinh tế, xã hội, văn hoá. Sau hơn nửa thế kỉ phát
triển giáo dục, giáo dục miền núi đã đạt được nhiều thành

tựu quan trọng, góp phần tăng trưởng kinh tế - xã hội của địa
phương và đất nước. Song hiện nay giáo dục miền núi còn
rất nhiều khó khăn, có thể hình dung qua vài chỉ số. 2 dân
tộc có 90 % dân số mù chữ; có 41 dân tộc có 50 - 90% dân
số mù chữ; có 10 dân tộc có 17 - 50 % dân số mù chữ; học
vấn Cao đẳng, Đại học nhiều dân tộc chưa có; có 25 dân tộc
có 0,01 - 0,09% người có trình độ Cao đẳng, Đại học; có 18
dân tộc có 0,09 - 0,1% người có trình độ Cao đẳng, Đại học;
nạn mù chữ, bỏ học với tỉ lệ cao.
Chất lượng học tập của học sinh miền núi còn thấp, tỉ lệ
ra lớp thấp; điều kiện học tập của học sinh miền nín còn khó
khăn...Giáo dục miền núi còn nhiều vấn đề phải giải quyết

22


đòi hỏi các giải pháp đồng bộ. Kinh tế miền núi chậm phát
triển, sụ phân hoá giàu nghèo có xu hướng gia tăng. Nghiên
cứu các số liệu điều tra qua 5 tỉnh: "Chênh lệch giàu nghèo
6,82 lần; hộ nghèo, đời sống khó khăn ở các vùng nông
thôn, miền núi chiếm 45 - 50%; tỉ lệ đầu tư của nước ngoài ở
khu vực miền núi chiếm tỉ lệ thấp nhất so với toàn quốc; thu
nhập bình quân đầu người thấp nhất cả nước". (Đến thời
điểm này, các con số trên có thể đã giảm, song tốc độ còn
chậm, chưa có sự chuyển biến căn bản) 1
Những con số trên phản ánh chất lượng cuộc sống của
đồng bào các dân tộc còn thấp, nhiều dân tộc còn gặp khó
khăn. Phần lớn học sinh miền núi sống trong hoàn cảnh đó
chịu nhiều thiệt thòi. Mặc dầu Nhà nước có nhiều chính sách
quan tâm đến đời sống kinh tế, văn hoá, giáo dục cho miền

núi, song do điều kiện kinh tế quá thấp, tiền cho vay để phát
triển kinh tế chủ yếu lại chi dùng cho tiền ăn; chỉ tiêu đi học
chủ yếu dành cho người miền xuôi lên công tác ở miền núi,
mọi sự ưu đãi chưa trở thành động lực để phát triển. Với những đặc điểm kinh tế xã hội và văn hoá ở miền núi
vốn đã có những khó khăn, song lại phải tính đến các vấn đề
bức xúc sau đây của giáo dục nước nhà, và nó đang len lỏi
vào giáo dục ở khu vực miền núi:
• Hiệu quả giáo dục đạo đức trong nhà trường giảm sút,
nhất là lí tưởng của học sinh. "Một bộ phận đáng kể học
sinh yếu kém về nhận thức chính trị, đạo đức, lối sống. "
1. Dẫn theo Đỗ Nguyên Phương - Thực trạng và xu thê phát
triển cơ cấu xã hội nước ta trong giai đoạn hiện Tuzy- Tài liệu đề
tài KX., 07. 05, H, 1995

23


(Hội nghị BCH TW lần IV khoá 7).
• Dường như có một khoảng cách đáng kể giữa trình độ
học vấn và lối sống có văn hoá, đáng chú ý là ngay trong
giới trẻ có học thức.
• Sự thiếu định hướng trong lí tưởng của một bộ phận
thanh niên sinh viên, sự mơ hồ về nhận thức bản sắc văn
hoá dân tộc trong điều kiện hiện nay.
• Sự biến đổi trong giá trị nghề nghiệp có xu hướng
thực dụng, trước mắt, trong khi công tác giáo dục hướng
nghiệp ở phổ thông ít được chú ý.
• Xuất hiện mâu thuẫn giữa nhu cầu vượt ra khỏi các
quan niệm giá trị truyền thống của sinh viên với yêu cầu
giữ gìn phát huy bản sắc văn hoá dân tộc.

Từ những nét khái quát về đặc điểm tự nhiên, xã hội, văn
hoá, giáo dục miền núi đã cho thấy: sự tác động, ảnh hưởng
tất
yếu của môi trường, điều kiện sống tới sự hình thành và
phát triển nhân cách, những đặc điểm tâm lý con người miền
núi có những đặc trưng riêng cần chú ý trong công tác giáo
dục, dạy học hiện nay. Nhiệm vụ giáo dục, dạy học ở miền
núi hiện nay yêu cầu phải có cách làm phù hợp, đặc biệt là
quá trình đổi mới chương trình giáo dục phổ thông đang diễn
ra đòi hỏi phải có định hướng và giải pháp cụ thể để giáo
dục miền núi hoà nhập với mặt bằng chung của cả nước về
chất lượng giáo dục.
2. Đặc điểm tâm lý của học sinh dân tộc trong quá
trình học tập
Theo quan điểm của chúng tôi, nghiên cứu quá trình nhận

24


thức của học sinh dân tộc là nghiên cứu sự vận động và phát
triển của các biểu hiện tâm lý người dưới tác động của hoàn
cảnh tự nhiên và xã hội, trong sự tiếp nhận và thích ứng của
cá nhân. Trong quá trình học tập, sự biến đổi nhận thức của
người học chịu sự tác động của các lực lượng giáo dục, của
nội dung, phương pháp và các hình thức dạy học, trong điều
kiện dạy và học cụ thể, dưới ảnh hưởng của điều kiện kinh tế
- xã hội, phong tục tập quán, lối sống đã được hình thành ở
học sinh. Như vậy, đặc điểm quá trình nhận thức của học
sinh dân tộc bao gồm những yếu tố đã ổn định và những yếu
tố mới hình thành và phát triển trong quá trình dạy học và

giáo dục. Trước hết là sự chuẩn bị tâm lý đến trường: có thể
coi sự chuẩn bị này là tiền đề, thế năng quan trọng cho quá
trình nhận thức trước khi đi học của học sinh. ở miền núi,
các tổ chức xã hội, gia đình, trường học chưa tạo ra một
bước chuyển tiếp rõ nét về mặt tâm lý đến trường cho học
sinh cũng như việc tạo ra nhu cầu, hứng thú thích đi học.
Đặc biệt là môi trường học tập, môi trường giáo dục trước
tuổi học của các em hầu như chưa có. Việc huy động trẻ em
đến trường trong độ tuổi là một sự cố gắng lớn của giáo dục
miền núi. Các nét tâm lý như ý chí rèn luyện, óc quan sát, trí
nhớ, tính kiên trì, tính kỷ luật. .. của học sinh dân tộc chưa
được chuẩn bị chu đáo. Việc học chưa được coi trọng vì
thiếu động cơ thúc đẩy, hay nói cách khác, quá trình chuyển
hoá nhiệm vụ, yêu cầu học tập, ctvlg như cơ chế chuyển vào
bản thân học sinh diễn ra chậm chạp. Đối với học sinh dân
tộc, từ hoạt động chủ đạo "chơi", "làm" hoặc "học" (trong
điều kiện khó khăn, thiếu động cơ học tập) chuyển sang
trạng thái 'học" với những yêu cầu cao về tri thức, tính kỷ
luật chặt chẽ của nhà trường là một khó khăn không dễ khắc

25


×