Tải bản đầy đủ (.pdf) (127 trang)

tổ chức dạy học sinh học 11 chương sinh sản theo hướng sử dụng truyền thông đa phương tiện

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.42 MB, 127 trang )

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM






Trần Quang Minh




Tổ chức dạy học sinh học 11
Chương sinh sản theo hướng sử dụng
truyền thông đa phương tiện





Luận văn thạc sĩ khoa học giáo dục

















THÁI NGUYÊN - 2010
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM





Trần Quang Minh



Tổ chức dạy học sinh học 11
Chương sinh sản theo hướng sử dụng
truyền thông đa phương tiện



CHUYẤN NGÀNH: LL&PPDH SINH HỌC
MÃ SỐ: 60.14.10

Luận văn thạc sĩ khoa học giáo dục







NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. NGUYỄN VĂN HỒNG







THÁI NGUYÊN - 2010

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


DANH MỤC CÁC HÌNH

Hình
Trang
Hình 1.1: Mối quan hệ giữa các yếu tố cấu trúc trong QTDH
Hình 1.2: Mối quan hệ giữa PTTQ với các yếu tố cấu trúc của QTDH

Hình 1.3. Quá trình dạy học theo quan điểm truyền thông
Hình 1.4. Mô hình dạy học theo tiếp cận lý thuyết thông tin
Hình 1.5 . Mô hình truyền thông hai chiều dạy học.
Hình 3.1: So sánh kết quả học tập lớp ĐC và TN
Hình 3.2. Biểu đồ tần suất điểm các bài kiểm tra trong thực nghiệm
Hình 3.3. Đồ thị tần suất hội tụ lùi điểm các bài kiểm tra
Hình 3.4. Biểu đồ tần suất điểm các bài kiểm tra
Hình 3.5. Đồ thị tần suất hội tụ lùi điểm các bài kiểm tra
22
24
26
30
31
83
88
89
92
93

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng
Trang
Bảng 1.1: Đáp ứng của phần mềm với yêu cầu của GV
Bảng 2.1 : Quy trình thiết kế bài giảng theo hướng tích hợp TTĐPT
Bảng 2.2. Cấu trúc nội dung chương Sinh sản SGK 11 ban cơ bản
Bảng 2.3 : Quy trình tổ chức dạy học sử dụng TTĐPT
Bảng 2.4: Hình thức tổ chức nhóm học tập

Bảng 2.5: Phân công chủ đề bài học cho các nhóm học tập
Bảng 2.6: Phân công thực hiện chuyên đề cho các nhóm học tập
Bảng 3.1. Các bài dạy thực nghiệm
Bảng 3.2. Bảng thống kê điểm số các bài kiểm tra trong thực nghiệm
Bảng 3.3. Bảng tần suất điểm (%)
Bảng 3.4. Bảng tần suất hội tụ tiến (f%)
Bảng 3.5. Kiểm định
X
điểm trắc nghiệm
Bảng 3.6. Phân tích phương sai điểm trắc nghiệm
Bảng 3.7. Bảng thống kê điểm số các bài kiểm tra sau TN
Bảng 3.8. Bảng phân phối tần suất
Bảng 3.9. Bảng phân phối tần suất tích lũy hội tụ tiến (f%)
Bảng 3.10. Kiểm định
X
điểm trắc nghiệm
Bảng 3.11. Phân tích phương sai điểm trắc nghiệm
Bảng 3.12. Phân tích kết quả thăm dò ý kiến GV
Bảng 3.13. Phân tích kết quả thăm dò ý kiến HS
34
44
46
71
72
75
76
82
87
87
89

90
90
91
92
92
94
94
96
97

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN

CHỮ VIẾT TẮT
ĐƯỢC ĐỌC LÀ
CNTT
DH
ĐC
ĐV
GD&ĐT
GV
HS
PMCC
PMDH
PPDH
PTDH
PTĐTT
PTTQ
THPT

QTDH
QTTT
SGK
SGV
SS
SSVT
SSHT
TTĐPT
TN
TV
Công nghệ thông tin
Dạy học
Đối chứng
Động vật
Giáo dục và đào tạo
Giáo viên
Học sinh
Phần mềm công cụ
Phần mềm dạy học
Phương pháp dạy học
Phương tiện dạy học
Phương tiện đa truyền thông
Phương tiện trực quan
Trung học phổ thông
Quá trình dạy học
Quá trình truyền thông
Sách giáo khoa
Sách giáo viên
Sinh sản
Sinh sản vô tính

Sinh sản hữu tính
Truyền thông đa phương tiện
Thực nghiệm
Thực vật

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

MỤC LỤC

Trang
Danh mục chữ cái viết tắt
Danh mục các hình
Danh mục các bảng

MỞ ĐẦU
1
Chƣơng 1. TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1 Tình hình ứng dụng CNTT trong giáo dục trên thế giới
1.2 Tình hình ứng dụng CNTT trong dạy học ở Việt Nam
1.3 Những thuận lợi-khó khăn khi áp dụng giảng dạy tích hợp
truyền thông đa phương tiện ở Việt Nam
1.4 Yêu cầu sử dụng truyền thông đa phương tiện trong đổi mới dạy
học Sinh học tại Việt Nam

5
9
13

19
Chƣơng 2: THIẾT KẾ BÀI GIẢNG VÀ TỔ CHỨC DẠY HỌC SINH

HỌC 11 CHƢƠNG SINH SẢN SỬ DỤNG TTĐPT
2.1. Các nguyên tắc xây dựng bài giảng sử dụng TTĐPT
2.2. Quy trình xây dựng bài giảng tư liệu điện tử lớp 11 chương Sinh
sản theo hướng tích hợp TTĐPT
2.3. Tổ chức dạy học chương Sinh sản sử dụng TTĐPT


39

44


70
Chƣơng 3: THỰC NGHIỆM SƢ PHẠM
3.1. Mục đích thực nghiệm
3.2. Nội dung thực nghiệm
3.3 Phương pháp thực nghiệm
3.4 Kết quả thực nghiệm

82
82
82
87
KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ
1. Kết luận
2. Đề nghị

100
100
TÀI LIỆU THAM KHẢO

PHỤ LỤC


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1.1. Xuất phát từ định hướng đổi mới phương pháp dạy học đã được xác
định trong Nghị quyết Trung ương 2 khoá VIII (12-1996), được thể chế
hoá trong Luật giáo dục 2005 và cụ thể hoá trong các Chỉ thị của Bộ Giáo
dục và Đào tạo, đặc biệt là Chỉ thị số 14 (4-1999) với mục tiêu “Lấy người
học làm trung tâm”[33].
1.2. Xuất phát từ sự phát triển của công nghệ thông tin hiện nay và yêu
cầu cấp thiết của việc ứng dụng công nghệ thông tin trong giáo dục trong
giai đoạn mới đã được cụ thể hóa trong Chỉ thị số 55 (9-2008): “Đẩy mạnh
một cách hợp lý việc triển khai ứng dụng công nghệ thông tin trong đổi
mới phương pháp dạy và học ở từng cấp học” [2].
1.3. Xuất phát từ nguyên tắc vận dụng PPDH không thể tách rời PTDH.
Các loại PTDH hiện nay, đặc biệt là PTDH kĩ thuật số đã giúp người giáo
viên đạo diễn, thiết kế bài học theo hướng tích cực hóa hoạt động của học
sinh.
1.4. Xuất phát từ đặc thù kiến thức bộ môn Sinh học cần thiết được cập
nhật nguồn thông tin liên tục và nhu cầu sử dụng và khai thác mạng
Internet trong giảng dạy và học tập Sinh học ở trường phổ thông.
1.5. Xuấ t phá t từ thự c trạ ng nhậ n thứ c chưa đầ y đủ và hiể u biế t kiế n thứ c
Sinh sả n – Sinh họ c 11 của HS cn thấp . Kế t quả điề u tra khả năng họ c tậ p
kiế n thứ c Sinh s ản lớp 11 của 412 HS năm họ c 2008-2009 cho thấ y: tỷ lệ
đạt điểm dưới trung bình chiếm tới 23,8%, điểm trung bình 58%, điểm khá
15,8%, điểm giỏi chỉ chiếm 2,4%, điểm trung bình bài làm của HS là 5,4

điểm. Kiểm tra bài làm cụ thể của HS, chúng tôi nhận thấy đa số HS đã
nắm và trình bày được những kiến thức cơ bản nhất, nhưng khả năng so
sánh, phân tích và hệ thống hóa kiến thức cn chưa cao.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

2
Từ những lí do trên, chúng tôi chọn đề tài:
“Tổ chức dạy học Sinh học 11 chương Sinh sản theo hướng sử dụng
truyền thông đa phương tiện”
2. Mục tiêu nghiên cứu
 Xây dựng quy trình thiết kế bài giảng tích hợp TTĐPT
 Thiết kế bài giảng Sinh học lớp 11 chương Sinh sản theo hướng sử
dụng truyền thông đa phương tiện, đặc biệt là với sự hỗ trợ của mạng
Internet.
3. Khách thể nghiên cứu và đối tượng nghiên cứu
3.1. Khách thể nghiên cứu: Quá trình dạy học Sinh học lớp 11 ở trường
THPT tại địa bàn thành phố Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh.
3.2. Đối tượng nghiên cứu: Quy trình thiết kế bài giảng Sinh học 11
chương Sinh sản theo hướng sử dụng truyền thông đa phương tiện.
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
4.1. Tổng quan tài liệu tình hình sử dụng truyền thông đa phương tiện
trong dạy học trên thế giới và ở Việt Nam
4.2. Điều tra cơ bản về tình hình sử dụng truyền thông đa phương tiện
trong giảng dạy và học tập của giáo viên và học sinh tại các trường THPT
trên địa bàn thành phố Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh.
4.3. Xây dựng các bài giảng sử dụng truyền thông đa phương tiện cho học
sinh lớp 11 chương Sinh sản bằng phần mềm Lecture Maker và Blog
Violet.
4.4. Thực nghiệm sư phạm nhằm kiểm chứng hiệu quả của việc khai thác
và sử dụng truyền thông đa phương tiện trong thiết kế bài giảng sinh học

lớp 11.
5. Phương pháp nghiên cứu [16]
5.1. Phương pháp nghiên cứu lý thuyết
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

3
5.1.1. Nghiên cứu các tài liệu trong và ngoài nước có liên quan đến đề tài.
5.1.2. Nghiên cứu nội dung, chương trình SGK Sinh học 11 ban cơ bản,
chương Sinh sản làm cơ sở cho việc thiết kế bài giảng tích hợp truyền
thông đa phương tiện.
5.2. Phương pháp điều tra thực tiễn
5.2.1. Điều tra hiện trạng sử dụng CNTT trong giảng dạy và học tập bộ
môn Sinh học đối với giáo viên, học sinh một số trường THPT trên địa bàn
thành phố Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh.
5.2.2. Điều tra hiệu quả sử dụng truyền thông đa phương tiện trong thiết
kế bài giảng nâng cao tính tích cực học tập cho học sinh.
5.3. Phương pháp chuyên gia
5.4. Phương pháp thực nghiệm sư phạm
5.5. Phương pháp toán học thống kê
Phân tích và xử lý kết quả thực nghiệm bằng phần mềm Microsoft Excel
6. Giả thuyết khoa học
Nếu tổ chức dạy học Sinh học 11 chương Sinh sản theo hướng sử
dụng TTĐPT một cách hợp lý sẽ góp phần nâng cao kết quả học tập của
HS.
7. Giới hạn nghiên cứu
Đề tài chỉ đề cập tới vấn đề thiết kế bài giảng môn Sinh học lớp 11
chương Sinh sản có sử dụng truyền thông đa phương tiện, đặc biệt là mạng
Internet.
8. Những đóng góp mới của luận văn
8.1. Xây dựng các bài giảng tích hợp TTĐPT trong chương Sinh sản,

SGK Sinh học 11 ban cơ bản, bằng phần mềm Lecture Maker.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

4
8.2. Xây dựng Blog cá nhân ( để cung cấp tài liệu
và hướng dn học tập cho HS trong website của Công ty Tin học Bạch Kim
()
8.3. Tổ chức dạy học theo hình thức thảo luận có sử dụng các bài giảng
và Blog cá nhân.
8.4. Đánh giá được nhu cầu và triển vọng sử dụng bài giảng tích hợp
TTĐPT trong dạy học Sinh học 11, kiến thức chương Sinh sản ở trường
THPT.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

5
Chương 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU

1.1. Tình hình ứng dụng CNTT trong giáo dục trên thế giới
1.1.1. Lược sử phát triển và ứng dụng CNTT vào dạy học [27],[31],[35]
Máy tính được sử dụng trong giáo dục từ những năm 1970 và đã trở
thành công cụ không thể thay thế được trong sự phát triển không chỉ của giáo
dục mà còn của các ngành: kinh tế, an ninh quốc phòng và nghiên cứu khoa
học. Với sự phát triển nhanh của các cấu hình phần cứng và phần mềm tích
hợp mới, máy tính ngày càng trở nên mạnh mẽ và đa chức năng hơn, trợ giúp
được hầu hết những nhu cầu công việc từ đơn giản (ghi nhớ, tính toán) cho
đến phức tạp nhất (điều khiển tự động, dự báo). Nhiều nước phát triển như
Mỹ, Pháp, Anh, Nhật đã xác định chiến lược phát triển ứng dụng CNTT ở
tất cả các lĩnh vực của đời sống, trong đó một lĩnh vực quan trọng là giáo dục.
Vì vậy, họ đã đầu tư rất lớn để xây dựng các trung tâm máy tính, siêu máy

tính điện tử cho các viện nghiên cứu và cho các trường học.
Tuỳ từng điều kiện cụ thể, mỗi nước có cách đi và phương hướng phát
triển riêng. Tuy nhiên, các nước trên đều có xu hướng chung là từng bước đưa
nội dung tin học vào phổ thông nhằm nâng cao chất lượng giáo dục và sử
dụng máy tính điện tử như công cụ trợ giúp cho dạy - học. Việc đưa tin học
vào trường phổ thông trên thế giới hình thành hai xu hướng: Một là đưa tin
học vào nội dung dạy học, hai là sử dụng máy tính như công cụ dạy học. Nhật
Bản đã xác định vai trò của máy tính dùng để hỗ trợ quá trình giáo dục là rất
quan trọng và đã đầu tư theo hướng này với tốc độ phát triển nhanh chóng.
Cùng với sự tăng cường hỗ trợ máy tính vào dạy học, các nước có nền
giáo dục phát triển đều quan tâm đến phương pháp dạy học như thế nào để HS
nhanh chóng lĩnh hội được tri thức cơ bản và tự học để hoàn thiện kiến thức.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

6
Trong đó, hầu hết các nước đều phát triển phương pháp dạy cách tự học cho
HS.
Trong quá trình phát triển của máy tính điện tử không thể không kể đến
vai trò của các phần mềm hệ thống và ứng dụng. Có thể khẳng định rằng phần
mềm máy tính chính là yếu tố làm thay đổi hẳn một khối vật chất phần cứng
tầm thường, biến nó trở thành một công cụ có sức mạnh, hiệu quả trong mọi
công việc từ tính toán cho đến quản lý, điều khiển thay cho con người. Hầu
hết người sử dụng máy tính trên thế giới đã quen với các phần mềm nổi tiếng
như Microsoft Office, Internet Explorer, Yahoo, Google Từ nửa sau của thế
kỉ 20 sự phát triển của CNTT đã tiến những bước nhảy vọt. Các phần mềm
ứng dụng ngày càng được sử dụng nhiều hơn và ngày càng phát huy thế mạnh
của chúng trong lĩnh vực kinh tế, kĩ thuật, khoa học và giáo dục. Nhiều phần
mềm ứng dụng trong dạy học đã lần lượt ra đời.
Theo đị nh nghĩa củ a Monet thì “Phần mềm tin học là nội dung “thông
minh” trong máy tính, bao gồm toàn bộ những chỉ dẫn nhằm hướng dẫn hoạt

động chung (hệ thống khai thác) và riêng (ứng dụng) cho một cách sử dụng
chính xác hay đặc thù” [17].
Vớ i thế mạ nh về kinh tế và trình độ kĩ thuậ t , các nước tiên tiến trên thế
giớ i như Mỹ, Anh, Pháp, Đức, Australia, Ấn Độ đã đầ u tư nghiên cứu xây
dựng và đưa vào sử dụng nhiều phần mềm dạy học về mô phỏng, thí nghiệm
ảo trong dạy và học nhiều môn học ở trường phổ thông và cho kết quả tốt
như:
- Đề án: “ Tin học cho mọi người” năm 1970 do Pháp xây dựng.
- Chương trình MEP (Microelectronics Education Programe) năm 1980
do Anh xây dựng.
- Đề án: CLASS ( Computer Literacy And Studies in School ) của Ấn Độ
năm 1985.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

7
- Chương trình phần mềm các môn học ở trung học của Australia do tổ
chức NSCU ( National Software Cadination Unit ) thành lập năm 1985.
- Hội thảo xây dựng các PMDH của các nước khu vực Châu Á- Thái
Bình Dương (Trung Quốc, Nhật Bản, Triều Tiên, Thái Lan, Malaysia,
Srilanca) năm 1985 ở Malaysia.
Hiện nay, có phần mềm hỗ trợ dạy và học các môn học ở mọi cấp học,
trong đó có các phần mềm về lĩnh vực Sinh học như:
- Phần mềm Biology trong Encatra, Wikipedia (Từ điển Bách khoa toàn
thư) gồm các kiến thức về phân loại thực vật, phân loại động vật, giải phẫu
sinh lý, quá trình phát triển phôi sớm
- Phần mềm trong www.dnatb.org xây dựng một số một số cấu trúc, cơ
chế của sự di truyền như phiên mã, dịch mã, cấu trúc nhiễm sắc thể.
- Các phần mềm hình ảnh, phim mô phỏng sinh động, có giá trị khoa học
trong hầu hết các website chuyên ngành Sinh học của các trường đại học và
phổ thông trên thế giới.

Các phần mềm nói trên dùng để tham khảo và phổ biến kiến thức được
xây dựng khá công phu và có ứng dụng rộng rãi thông qua mạng Internet.
Sự ra đời Internet đã kết nối toàn cầu thành một hệ thống thông tin khổng
lồ làm cho việc trao đổi thông tin không chỉ là đơn lẻ một khu vực hay quốc
gia mà rộng khắp thế giới. Các thông tin thời sự và các kết quả nghiên cứu
khoa học được cập nhật nhanh nhất, trực tiếp từ phòng thí nghiệm đến khắp
thế giới. Các ngôn ngữ lập trình cũng được phát triển và hoàn thiện gần gũi
với ngôn ngữ tự nhiên hơn tạo điều kiện cho việc phát triển các ứng dụng trên
nền tảng phần cứng nhanh nhất và thuận tiện nhất. Các phần mềm có tính chất
mở (người sử dụng có thể phát triển thêm) như Open Office, Linux nhiều
hơn thuận tiện cho người sử dụng phát triển và ứng dụng vào mục đích ứng
dụng của cá nhân.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

8
1.1.2. Thành tựu áp dụng CNTT trong dạy học tại các nước [29]
Xu hướng ứng dụng CNTT trong dạy học hiện nay đã đạt được nhiều
thành tựu lớn, trong đó chiến lược đang được tập trung hàng đầu của các quốc
gia mạnh về CNTT trong dạy học là đào tạo từ xa – dạy học điện tử (E-
learning).
Tại Mỹ, dạy và học điện tử đã nhận được sự ủng hộ và các chính sách trợ
giúp của Chính phủ ngay từ cuối những năm 90. Theo số liệu thống kê của
Hội Phát triển và Đào tạo Mỹ (American Society for Training and
Development, ASTD), năm 2000 Mỹ có gần 47% các trường đã đưa ra các
dạng khác nhau của mô hình đào tạo từ xa, tạo nên 54.000 khoá học trực
tuyến. Theo các chuyên gia phân tích của Công ty Dữ liệu quốc tế
(International Data Corporation, IDC), cuối năm 2004 có khoảng 90% các
trường ở Mỹ đưa ra mô hình E-learning, số người tham gia học tăng 33%
hàng năm trong khoảng thời gian 1999 - 2004. E-learning không chỉ được
triển khai ở các trường học mà ngay ở các công ty việc xây dựng và triển khai

cũng diễn ra rất mạnh mẽ. Có rất nhiều công ty thực hiện việc triển khai E-
learning thay cho phương thức đào tạo truyền thống và đã mang lại hiệu quả
cao. Do thị trường rộng lớn và sức thu hút mạnh mẽ của E-learning nên hàng
loạt các công ty đã chuyển sang hướng chuyên nghiên cứu và xây dựng các
giải pháp về E-learning như: Click2Learn, Global Learning Systems, Smart
Force
Tại Châu Âu: Trong những năm gần đây, các nước châu Âu đã có thái độ
tích cực đối với việc phát triển công nghệ thông tin cũng như ứng dụng nó
trong mọi lĩnh vực kinh tế xã hội, đặc biệt là ứng dụng trong hệ thống giáo
dục.
Ngoài việc tích cực triển khai E-learning tại mỗi nước, giữa các nước
châu Âu có nhiều sự hợp tác đa quốc gia trong lĩnh vực E-learning. Điển hình
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

9
là dự án xây dựng mạng xuyên châu Âu Euro-SPACE. Đây là mạng E-
learning của 36 trường đại học hàng đầu châu Âu thuộc các quốc gia như Đan
Mạch, Hà Lan, Bỉ, Anh, Pháp cùng hợp tác với công ty E-learning của Mỹ -
Docent nhằm cung cấp các khoá học về các lĩnh vực như khoa học, con
người… phù hợp với nhu cầu học của sinh viên đại học, học viên sau đại học,
các nhà chuyên môn ở châu Âu.
Tại Châu Á, mặc dù vẫn còn một số các rào cản tạm thời về luật pháp,
cơ sở hạ tầng cũng như sự ưa chuộng đào tạo truyền thống của văn hóa châu
Á, E-learning đang dần khẳng định vai trò ngày càng quan trọng của mình.
Một số quốc gia, đặc biệt là các nước có nền kinh tế phát triển hơn tại
Châu Á cũng đang có những nỗ lực phát triển E-learning tại đất nước mình
như: Nhật Bản, Hàn Quốc, Singapore, Đài Loan,Trung Quốc
Nhật Bản là nước có ứng dụng E-learning nhiều nhất so với các nước
khác trong khu vực. Môi trường ứng dụng E-learning chủ yếu là trong các
công ty lớn, các hãng sản xuất, các doanh nghiệp và dùng để đào tạo nhân

viên.
Tuy nhiên việc ứng dụng E-learning trong giáo dục và đào tạo bậc phổ
thông hiện nay vẫn chưa phát triển mạnh, chưa khẳng định vai trò chủ đạo
trong dạy học do bị lầm lẫn với các hình thức dạy học khác có sự hỗ trợ của
máy vi tính.
1.2. Tình hình ứng dụng CNTT trong dạy học ở Việt Nam
1.2.1. Quá trình đưa CNTT vào dạy học tại Việt Nam [7], [20],[29]
Từ những năm 1960, nước ta đã bắt đầu sử dụng máy tính điện tử. Hội
đồng Chính phủ đã ra nghị quyết số 173- CP (1975) và 245- CP (1976) về
tăng cường ứng dụng toán học và máy tính điện tử trong cả nước. Sau đó
Viện CNTT được thành lập và bắt đầu triển khai những đề án nghiên cứu ứng
dụng CNTT, đưa tin học vào nhà trường.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

10
Ở Việt Nam, phong trào E-learning thực chất đã nhen nhóm từ những
năm 90 với hàng loạt phần mềm hỗ trợ đào tạo do các công ty tin học sản
xuất. Trong đó có thể kể đến là công ty Công nghệ tin học nhà trường
School@Net với các sản phẩm phục vụ đào tạo trong nhà trường.
Từ năm 2001, E – learning tại Việt Nam đã có bước tiến đáng kể. Mở
đầu là việc thành lập một nhà trường ảo “Fihou CyberSchool” đặt trên
website www.fithou.net.vn và bắt đầu tuyển sinh ngành CNTT.
Một số đơn vị khác như Đại học Mở Hà Nội, Học viện Bưu chính viễn
thông, Đại học Quốc gia Hà Nội cũng bắt đầu đào tạo trực tuyến về CNTT-
viễn thông.
Đến tháng 11/2004, ngành GD đã xây dựng một cổng E-learning chính
thức tại địa chỉ . Sự kiện này đã tạo một cú hích đối với
lĩnh vực E- learning còn khá mới mẻ tại Việt Nam. Cổng do Trung tâm Tin
học Bộ GD&ĐT tự thiết kế trên công nghệ Web Conferencing, sử dụng mã
nguồn mở. Cổng được xây dựng nhằm mục đích tuyên truyền phổ cập công

nghệ, nghiên cứu thử nghiệm và tuyển chọn các phần mềm E-learning thích
hợp, đã Việt hoá (phần mềm mã nguồn mở Moodle) và đến nay đã có khoảng
70 trường Đại học, Cao đẳng sử dụng. Cục CNTT sẽ tổ chức chuyển giao
các phần mềm công cụ tạo bài giảng đạt chuẩn quốc tế, phù hợp với yêu cầu
Việt Nam cho các Sở GD&ĐT.
Hiện nay tại Bộ GD&ĐT đã kết nối đường cáp quang 34 Mbps trong
nước và 2 Mbps đi quốc tế. Viettel cung cấp gói Net+ (gói chất lượng cao
nhất) tới các cơ sở giáo dục. Kết nối cáp quang từ Bộ về các Sở giáo dục và
đào tạo với băng thông 4 Mbps. Ba bên (Cục CNTT, các Sở GD&ĐT và
Viettel) sẽ phối hợp lên danh sách các cơ sở giáo dục khó khăn để có chính
sách hỗ trợ kết nối. Các cơ sở giáo dục hưởng lợi từ dịch vụ ưu đãi này sẽ
bao gồm các trường phổ thông và cả các trường mầm non, mẫu giáo, các
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

11
trung tâm giáo dục cộng đồng, trung tâm giáo dục thường xuyên, các trường
dạy nghề, các Phòng giáo dục.
1.2.2. Hiện trạng sử dụng CNTT trong dạy học tại Việt Nam hiện
nay [6]
Hiện nay, ở Việt Nam và trên thế giới, việc ứng dụng CNTT vào giảng
dạy được thực hiện theo những xu hướng sau đây:
a. Sử dụng CNTT như là một công cụ của người dạy: Đây có lẽ là
hình thức đang được sử dụng tương đối phổ biến ở nước ta. Người dạy thiết
kế bài giảng, các hoạt động dạy học thông qua các phần mềm như
PowerPoint, Frontpage, Acrobat và một số phần mềm thông dụng khác.
Các phần mềm này được sử dụng cho các bài giảng kiến thức đơn giản. Sự
tích hợp của các kiến thức là không cao, vai trò của người học rất thụ động,
vai trò của người dạy được chủ động và mang tính tích cực theo nghĩa một
chiều. Thật ra, thì xu hướng này thường dành cho các giáo viên không thuộc
giáo án, ngại viết bảng, thích thuyết trình. Xu hướng này không đánh giá đúng

kết quả học tập của người học và làm giảm độ tích cực của người học trong
quá trình lên lớp. Chỉ có một lợi thế của xu hướng này là hạ tầng cơ sở cũng
như các thiết bị công nghệ không đòi hỏi quá cao so với hiện nay. Xu hướng
này, theo chúng tôi người dạy nên tránh hoặc đừng quá lạm dụng.
b. Sử dụng CNTT như là một phương tiện cho giáo viên và học sinh
tương tác trong quá trình dạy và học: HS sử dụng CNTT như là một kênh
để phản hồi thông tin của bài giảng đến thầy giáo; đồng thời như là một sự
phản biện tích cực trong sự tương tác 2 chiều giữa thầy và trò. Giáo viên sử
dụng CNTT viết kịch bản bài giảng, thiết kế bài giảng và đạo diễn giờ giảng
với sự hợp tác của HS. Các phương pháp dạy học truyền thống và hiện đại
được phối hợp đồng bộ để đẩy cao trong tiến trình dạy và học. Đây là xu
hướng được một số giáo viên cải tiến phương pháp dạy học theo hướng tích
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

12
cực đang theo đuổi ở các trường. Đa số các trường có trang bị đầy đủ các
phòng máy chuyên đề với những trang bị phương tiện kỹ thuật tương đối hiện
đại thường đi theo xu hướng này. Nên chăng trong tình hình như hiện nay, xu
hướng này là một giải pháp tương đối hoàn thiện mà người thầy cần chọn lựa,
mặc dù xu hướng này ở một góc độ nào đó chưa thật sự cho phép người học
chủ động, tự chủ trong quá trình học tập.
c. Sử dụng CNTT để tạo ra một môi trường học tập mới mẻ, tạo
nên một sự đa dạng về hình thức, phong phú về mặt phương pháp: Xu
hướng này chuyển vai trò chủ động hầu như ở phía người học, người thầy chỉ
đóng vai trò cố vấn, hướng dẫn và trò chuyện. Người học chủ động trong học
tập về mặt thời gian, địa điểm, cách thức. Ta có thể hình dung đây là môi
trường xây dựng một trường ảo, lớp ảo phục vụ cho việc học thật. Xu hướng
này được áp dụng hầu hết ở các nước có nền giáo dục phát triển mạnh như
Hoa Kì, Nhật Bản, Anh, Úc, v.v… Ở nước ta hiện nay cũng đang manh nha
một số hình thức học tập lớp ảo, trường ảo, đào tạo qua mạng… Đa số các

trường vẫn chưa trang bị đầy đủ để đáp ứng cho nhu cầu dạy học kiểu này.
Nên chăng các giáo viên khai thác xu hướng này theo những hình thức gọn
gàng hơn như học tập qua mạng, thi cử, báo cáo qua mạng… cho lớp hoặc bộ
môn mình đang giảng dạy. Cấp lãnh đạo cũng cần phải quan tâm nhiều hơn
đến xu hướng mới mẻ này vì nó mở ra một vận hội lớn cho việc học tập của
mọi người và học tập suốt đời.
Trong môi trường giáo dục và đào tạo ở bậc THPT, xu hướng thứ 2 và
thứ 3 sẽ trở thành những hướng đi chính nhằm thay đổi hoàn toàn phương
thức dạy học hiện nay, đưa HS trở về đúng với vai trò “trung tâm” trong dạy
học mà các em đáng được thụ hưởng. Với mức độ ứng dụng CNTT vào dạy
học như hiện nay, hầu hết các trường THPT trên cả nước đều có khả năng thử
nghiệm và phổ biến 2 hình thức dạy và học này.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

13
1.3. Những thuận lợi-khó khăn khi áp dụng giảng dạy tích hợp
truyền thông đa phương tiện ở Việt Nam
1.3.1. Thuận lợi [19]
CNTT và truyền thông (Information and Communication Technology -
ICT) là một thành tựu lớn của cuộc cách mạng khoa học - kỹ thuật hiện nay;
nó thâm nhập và chi phối hầu hết các lĩnh vực nghiên cứu khoa học, ứng dụng
công nghệ trong sản xuất, giáo dục, đào tạo và các lĩnh vực hoạt động chính
trị xã hội khác. Trong giáo dục – đào tạo, ICT được sử dụng vào tất cả các
môn học tự nhiên, kỹ thuật, xã hội, nhân văn, các hoạt động nghiệp vụ và đào
tạo nghề. Hiệu quả rõ rệt là chất lượng giáo dục tăng lên cả về lý thuyết và
thực hành. Vì thế, nó là chủ đề lớn được Tổ chức Văn hoá giáo dục thế giới
UNESCO chính thức đưa ra chương trình hành động trước ngưỡng cửa của
thế kỷ 21 và dự đoán “sẽ có sự thay đổi nền giáo dục một cách căn bản vào
đầu thế kỷ 21 do ảnh hưởng của CNTT” [18]. Như vậy, ICT có ảnh hưởng
sâu sắc tới giáo dục đào tạo, đặc biệt là trong đổi mới PPDH. CNTT góp phần

tạo ra những thay đổi của một cuộc cách mạng trong giáo dục đào tạo. Nhờ có
cuộc cách mạng này mà giáo dục đã có thể thực hiện các tiêu chí mới: học
mọi lúc (any time), học mọi nơi (any where), học suốt đời (life long), dạy cho
mọi người (any one) và mọi trình độ tiếp thu khác nhau, thay đổi vai trò của
người dạy, người học, đổi mới cách dạy và cách học.
CNTT đã hỗ trợ nâng cao chất lượng và hiệu quả cũng như đổi mới
PPDH thể hiện ở các điểm:
a) Về nội dung: CNTT và truyền thông giúp GV đề cập và truy xuất
được nhiều nội dung trong quá trình dạy học, hỗ trợ giáo trình, tài liệu cho
GV, HS; đưa nội dung ổn định và phong phú lên mạng truyền dữ liệu, kết hợp
tư liệu cần thiết với nội dung chính thống đã có trong giáo trình.
b) Về phương pháp:
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

14
- Đối với GV: ICT tạo điều kiện cho GV tiếp cận nhiều phương pháp,
cách thức đưa nội dung đến với HS- HS như phát hiện vấn đề qua kết quả sử
dụng mô hình, biểu bảng, tính toán nhờ CNTT; chứng minh các kết luận trong
điều kiện thực hành thí nghiệm thực tế khó có thể tổ chức thông qua các thí
nghiệm ảo trên máy tính. CNTT giúp GV tích hợp nhiều nội dung trong DH
nhờ các kỹ thuật liên kết, kỹ thuật sử dụng các phần mềm cho phép hiện hoặc
ẩn các nội dung phù hợp trong quá trình DH. Việc sử dụng công nghệ DH
theo chương trình hoá hoặc Trung tâm học tập trực tuyến góp phần quan trọng
tạo môi trường giao tiếp thầy – trò, trò – trò, hoạt động nhóm trong quá trình
DH.
- Đối với HS, CNTT góp phần cá nhân hoá người học (thích hợp với
nhịp độ tiến bộ của từng cá nhân), giúp cho việc học tập liên môn, xuyên
môn, học cá nhân trên cơ sở “cầu” chứ không phải trên cơ sở “cung”, theo
hướng lấy người học làm trung tâm chứ không phải lấy GV làm trung tâm. Sử
dụng ICT trong DH giúp HS sống trong thế giới CNTT, nắm được những kỹ

năng làm việc trong tương lai, cũng như sử dụng phương tiện máy tính và các
phương tiện truyền thông khác trong đời sống gia đình và xã hội (làm việc và
học tập với máy tính, truy cập Internet, sử dụng hộp thư điện tử, tạo lập môi
trường và trao đổi thông tin qua mạng…).
- Sử dụng ICT, đa phương tiện (multimedia) trong DH góp phần thực
hiện đổi mới PPDH trên ba lĩnh vực then chốt: gia tăng đáng kể vai trò chủ
động của HS - HS trong việc tiếp cận kiến thức và do đó nhấn mạnh phương
pháp học để chiếm lĩnh tri thức; áp dụng sư phạm phân hoá để đáp ứng thực
tiễn không đồng nhất của HS - HS thông qua việc HS tự học; thực hiện liên
môn, liên ngành về nội dung thông qua việc thu thập thông tin có bản chất
khác nhau và xử lý nó bằng sự hỗ trợ đa phương tiện.
c) Về thái độ: ICT góp phần gây hứng thú cho HS-HS nhờ các mô hình,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

15
hình ảnh phong phú, đa dạng, thể hiện trạng thái động của sự vật, hiện tượng
mà trong thực tế về điều kiện không gian, thời gian khó có thể diễn tả được.
d) Về đánh giá: khách quan hoá quá trình đánh giá qua việc sử dụng
phương pháp trắc nghiệm khách quan, đặc biệt người học có thể tự đánh giá
qua các nội dung và bài tập do GV thiết kế trong từng học phần, qua sử dụng
trung tâm học tập trực tuyến, góp phần thực hiện đổi mới PPDH ở bậc phổ
thông.
Nhận thức được vai trò to lớn của việc áp dụng CNTT và truyền thông
trong DH, Đảng và Nhà nước đã rất coi trọng ứng dụng CNTT, coi yêu cầu
đổi mới PPDH có sự hỗ trợ của CNTT và các phương tiện kỹ thuật hiện đại là
điều hết sức cần thiết. Nghị quyết Trung ương II khoá VIII của Đảng đã
khẳng định tiêu chí đổi mới phương pháp giáo dục - đào tạo, khắc phục lối
truyền thụ một chiều, rèn luyện thành nếp tư duy sáng tạo cho người học,
từng bước áp dụng các phương pháp tiên tiến và phương pháp hiện đại vào
quá trình dạy học, đảm bảo thời gian tự học, tự nghiên cứu cho HS. Chiến

lược phát triển giáo dục đào tạo đến năm 2020 của Bộ Giáo dục – Đào tạo yêu
cầu ngành giáo dục phải phát triển giáo dục dựa trên CNTT, vì CNTT và đa
phương tiện sẽ tạo ra những thay đổi lớn trong quản lý hệ thống giáo dục,
trong chuyển tải nội dung chương trình đến người học, thúc đẩy cuộc cách
mạng về phương pháp dạy và học.
Hầu hết các trường THPT hiện nay đều có sự đầu tư mạnh về hệ thống
phòng học có trang bị máy vi tính, máy chiếu đa năng, thậm chí có những
trường có hẳn những phòng chuyên biệt được trang bị dàn máy tính cấu hình
cao. Tuy nhiên, phần lớn chúng chỉ mới được sử dụng như một công cụ trình
chiếu hay chỉ sử dụng dạy riêng cho môn Tin học. Mặt khác trong điều kiện ít
ỏi về đầu tư trang thiết bị thì vấn đề người quản lý và sử dụng tốt các trang
thiết bị hiện có cũng đòi hỏi phải có sự đầu tư thích đáng. Đây là điều mà các
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

16
trường hoàn toàn có thể khắc phục và chuyển đổi nhằm khai thác tối đa thế
mạnh CNTT của mình vào dạy học tất cả các môn học trong nhà trường.
1.3.2. Khó khăn
1.3.2.1. Vấn đề đầu tư cho công nghệ để xây dựng hệ thống thông tin
trong giáo dục phổ thông:
Các trường phổ thông cần quan tâm đầy đủ đến vấn đề thiết lập một hệ
thống thông tin thích ứng với chất lượng thông tin tốt và có thể sử dụng được.
Một cơ sở giáo dục phổ thông không thể đứng bên lề nguồn cung cấp thông
tin do Internet mang lại. Để giải quyết vấn đề này thì cần phải đầu tư vào các
sản phẩm của công nghệ thông tin, mua sắm đủ số lượng và đúng chất lượng
những thứ cần dùng, nhưng phải biết sử dụng chúng một cách chuyên nghiệp.
Trong thực tế, cũng có nhiều trường hợp người ta dễ dàng thay đổi các thiết bị
sau một thời gian ngắn sử dụng hoặc là ném tiền vào các sản phẩm được mua
sắm một cách sai lầm.
Nhìn chung, các trường phổ thông ở các quốc gia giàu có trang bị rất tốt

cho giáo viên và HS cả về phần cứng lẫn phần mềm. Hầu hết các nhân viên
làm việc trong lĩnh vực học thuật ở Hoa Kỳ được trang bị máy tính ở nơi
làm việc. Tương tự, các học giả ở Anh Quốc có tài khoản cá nhân trực tiếp để
sử dụng thiết bị phần cứng và các chương trình phần mềm (OECD 2001). Kết
quả này có thể có được từ mối quan hệ hợp tác tốt giữa trường phổ thông và
các cơ quan nghiên cứu, chuyên môn.
Việc cấp tài khoản để giáo viên và HS có thể tìm được sách điện tử và tài
liệu, tạp chí chuyên ngành trên mạng giúp tiết kiệm tiền bạc, thời gian, công
sức quản lý hơn là mua sách về xếp đầy các giá sách của thư viện, nhưng
chúng sẽ có ít hiệu quả hơn nếu họ không được tập huấn rõ về cách thức sử
dụng.
1.3.2.2. Vấn đề đầu tư cho công nghệ và định hướng sự phát triển
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

17
giáo dục phổ thông:
Việc thay đổi một cách căn bản cách thức quản lý tri thức đang tạo ra
một thách thức khác. Quản lý tri thức không chỉ đề cập đến việc thiết lập một
hệ thống thông tin và chuyển giao thông tin, mà là vấn đề thông tin đã được
tinh luyện thành kiến thức như thế nào và kiến thức đó được sử dụng như thế
nào để có hiệu quả tốt. Kiến thức thì phải cô đọng và khái quát hơn là thông
tin. Chẳng hạn như thông tin đã giúp đưa đến một phán đoán có giá trị, hay là
thông tin đã mang lại một lợi ích thực tế nào đó, hoặc một cách ứng dụng cụ
thể của thông tin, tất cả bao hàm trong vấn đề đang được nói đến. Nó có mối
liên quan với các câu hỏi như: Kiến thức là gì? Kiến thức được phát triển theo
cách thức như thế nào? Trong tương lai kiến thức nên được phát triển theo
cách thức như thế nào?
Quản lý tri thức đang chiếm vị trí là vấn đề trọng tâm trong hầu hết các
ngành học thuật và là vấn đề rất lớn đang tồn tại ở nhiều quốc gia. Mặc dù
vấn đề quản lý kiến thức đã có sự phát triển trong các nghiên cứu về kinh

doanh, nó vẫn là một nhiệm vụ trọng tâm của giáo dục phổ thông và sẽ luôn
luôn là vậy. Sử dụng hệ thống thông tin chỉ là một vấn đề thuộc về quản lý tri
thức mặc dù tầm quan trọng về mặt học thuật của vấn đề này không ngừng gia
tăng.
Chúng ta biết rằng kiến thức đã có thể được định hình và được vận dụng
mà không cần sử dụng công nghệ thông tin. Các trường phổ thông đã quản lý
tri thức hàng trăm năm mà không dùng công nghệ thông tin. Thế nhưng, trong
thập kỷ vừa qua, công nghệ thông tin đã chứng tỏ ưu thế vượt trội của mình
như là một công cụ hữu hiệu để quản lý tri thức. Vì thế, thách thức công nghệ
chủ yếu đối với giáo dục phổ thông là phải tập trung vào công nghệ mà không
xao lãng tri thức, không xao lãng việc tạo thành kiến thức, việc chọn lọc và
ứng dụng kiến thức (S. Bach 2006). Công nghệ thông tin phải được sử dụng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

18
theo hướng tăng thêm tiện ích phục vụ cho tiến trình này hơn là làm suy giảm
hay gây ra cản ngại. Việc tìm kiếm tri thức phải được đặt ra trước tiên, trước
vấn đề về công nghệ.
S. Brown và P. Duguid (2000) cho rằng vai trò trọng tâm của giáo dục
phổ thông trong thời đại thông tin là phê duyệt kiến thức. Trong khi Internet
đã làm tốt việc sắp xếp và chia sẻ thông tin, giáo dục phổ thông cũng không bị
tước mất đi vai trò định nghĩa và phân loại về mức độ quan trọng của các sản
phẩm thuộc về kiến thức. Hơn nữa, có thể nói vai trò của giáo dục phổ thông
trong việc quản lý tri thức sẽ trở nên khó khăn phức tạp hơn, đây là thách thức
rất quan trọng với tính chất là vấn đề tiên phong, dẫn đường cho sự phát triển
giáo dục phổ thông.
1.3.2.3. Vấn đề phát triển kỹ năng sử dụng công nghệ thông tin của
giáo viên và học sinh:
HS cần có kỹ năng sử dụng Internet để truy cập vào các website tốt, tìm
kiếm các thông tin có giá trị, và phát triển kỹ năng quản lý tri thức. Theo M.

Pettigrew và D. Elliott (1999) thì có một số nguyên tắc cần lưu ý trong việc
huấn luyện kỹ năng sử dụng công nghệ thông tin cho HS, đó là: linh hoạt, sử
dụng thường xuyên và tự tin, tài liệu học tập đa dạng và cập nhật.
Linh hoạt là khả năng xoay xở để thích nghi với sự khác biệt về phần
cứng hay các phiên bản phần mềm được trang bị khác nhau giữa học đường
và nơi làm việc. HS phải được chuẩn bị để có thể thích ứng nhanh với việc
nâng cấp các thiết bị. Việc sử dụng thường xuyên là rất quan trọng bởi vì kỹ
năng chỉ có thể hình thành và thuần thục khi được sử dụng thường xuyên. HS
cần được hỗ trợ bởi các phương pháp huấn luyện và tài liệu học tập đa dạng
để giúp họ học tập hiệu quả. Sách, các loại sổ tay hướng dẫn, làm mẫu và
hướng dẫn, trợ giúp kỹ thuật trực tiếp hoặc trực tuyến, hướng dẫn gián tiếp
qua băng hình, tất cả đều có ích để giúp HS lựa chọn phương pháp học tập tốt
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

19
nhất đáp ứng nhu cầu học tập của họ. Điều này rất quan trọng để giúp HS đạt
được bằng cấp phổ thông bất chấp kỹ năng công nghệ thông tin của họ đã
được trang bị ở mức độ nào từ các lớp ở cấp học phổ thông.
Các giáo viên cũng cần được huấn luyện về kỹ năng sử dụng công nghệ
thông tin. Một bộ phận lớn giáo viên đã không được học về các kỹ năng này
từ các trường lớp chính thức mà chỉ tự học là chính. Xu hướng tin học hoá
trong giáo dục cũng làm gia tăng thêm áp lực nghề nghiệp và khối lượng công
việc cho nhóm giáo viên này hơn là giúp tiết kiệm sức lao động của họ. Các
cơ sở giáo dục phổ thông cần có các chiến lược để trợ giúp đội ngũ giáo viên
và nhân viên về kỹ năng sử dụng công nghệ thông tin mà họ còn thiếu hụt.
Hạn chế về kỹ năng sử dụng công nghệ thông tin của đội ngũ giáo viên và
nhân viên cũng như thiếu sự hỗ trợ của giới chuyên môn về công nghệ thông
tin sẽ là một lý do làm thất bại các chiến lược thúc đẩy việc trực tuyến hoá các
tài nguyên học tập và phương pháp giảng dạy – trong khi các chiến lược này
được đánh giá là hữu ích để kéo giảm áp lực đại chúng hoá giáo dục phổ

thông.
1.4. Yêu cầu sử dụng truyền thông đa phương tiện trong đổi mới dạy
học Sinh học tại Việt Nam
1.4.1. Mối quan hệ giữa PTDH và QTDH
1.4.1.1 Khái niệm PTDH, QTDH
- Khái niệm phương tiện
Có rất nhiều định nghĩa về phương tiện. Mỗi định nghĩa có một cách tiếp cận
khác nhau. Trong số các định nghĩa đó, có một định nghĩa của Lotslinbo được
chúng tôi cho là phù hợp nhất: “ Phương tiện là những đối tượng vật chất
hoặc phi vật chất được sử dụng để thực hiện những hoạt động có mục đích.”
[28]
Ví dụ: Xe đạp là phương tiện giúp người di chuyển.

×