Tải bản đầy đủ (.docx) (8 trang)

TIẾP CẬN VĂN HÓA TRONG XÂY DỰNG CHÍNH SÁCH CHƯƠNG TRÌNH DỰ ÁN PHÁT TRIỂN KINH TẾ XÃ HỘI VÙNG ĐỒNG BÀO DÂN TỘC THIỂU SỐ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (83.11 KB, 8 trang )

TIẾP CẬN VĂN HÓA TRONG XÂY DỰNG
CHÍNH SÁCH, CHƯƠNG TRÌNH DỰ ÁN PHÁT TRIỂN
KINH TẾ - XÃ HỘI VÙNG ĐỒNG BÀO
DÂN TỘC THIỂU SỐ
TS. Nguyễn Lâm Thành,
Phó Chủ tịch Hội đồng Dân tộc của Quốc hội
1. Đặt vấn đề
Trên thế giới, có hơn 400 khái niệm về văn hóa theo những cách tiếp cận
khác nhau. Năm 2002, Tổ chức văn hóa, khoa học và giáo dục Liên hiệp quốc
(UNESCO) đã đưa ra định nghĩa: “Văn hóa nên được đề cập đến như là một tập
hợp những đặc trưng về tâm hồn, vật chất, tri thức và xúc cảm của một xã hội hay
một nhóm người trong xã hội và nó chứa đựng ngoài văn học và nghệ thuật, cả
cách sống, phương thức chung sống, hệ thống giá trị, truyền thống và đức tin”(1).
Dưới góc độ xã hội học, văn hóa không chỉ là sản phẩm sáng tạo của con người,
mà luôn xem xét với tư cách là một quá trình, một trạng thái động, tiếp biến.
Trên cơ sở chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, các thành tựu
chung về nhận thức văn hóa, Đảng, Nhà nước ta đã xây dựng chính sách văn hóa
trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, hội nhập quốc tế.
Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ VIII và Nghị quyết Hội nghị Ban Chấp hành
Trung ương 5, Khóa VIII (tháng 7-1998) đã xác định quan điểm, phương hướng,
nhiệm vụ và chính sách nhằm triển khai xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến,
đậm đà bản sắc dân tộc. Tinh thần này luôn được khẳng định trong các văn kiện
Đại hội Đảng IX, X, XI.
Việt Nam là một quốc gia có nhiều dân tộc thiểu số nên chính sách dân tộc
luôn được quan tâm, chú trọng. Chính sách dân tộc là hệ thống những quyết sách
của Đảng, Nhà nước được thực thi thông qua bộ máy hành pháp nhằm quản lý và
phát triển kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội đối với các dân tộc và vùng đồng bào


dân tộc nhằm thiết lập sự bình đẳng và hòa nhập phát triển, củng cố, tăng cường sự
đoàn kết thống nhất của cộng đồng các dân tộc Việt Nam.


Chính sách dân tộc được quy định bởi quan điểm về vấn đề dân tộc, xử lý
vấn đề dân tộc và cách thức thực hiện công tác dân tộc. Nó cũng bao hàm nhiều
lĩnh vực, nhiều nội dung trên tất cả các mặt của đời sống kinh tế - chính trị, văn
hoá.
Chính sách văn hóa dân tộc là một bộ phận cấu thành trong hệ thống chính
sách dân tộc, một trong những mục tiêu, nội dung phát triển kinh tế - xã hội ở vùng
đồng bào dân tộc và đối với các dân tộc thiểu số. Việc xây dựng và tổ chức thực
hiện chính sách dân tộc, để bảo đảm hiệu lực, hiệu quả cần bám sát đặc điểm tình
hình thực tiễn cụ thể, như Nghị quyết 22 - NQ/TW ngày 29-11-1989 của Bộ Chính
trị, Khóa VI đã yêu cầu: “phải tính đầy đủ đến những đặc điểm về tự nhiên, lịch sử,
kinh tế, xã hội, văn hoá, phong tục, tập quán của miền núi nói chung và riêng của
từng vùng, từng dân tộc”(2).
Rõ ràng, yếu tố đặc điểm xã hội, văn hóa, phong tục, tập quán được nhấn
mạnh, bên cạnh đó là yếu tố đặc điểm tự nhiên, lịch sử và kinh tế đặt trong bối
cảnh miền núi nói chung và từng vùng, từng dân tộc nói riêng. Việc xây dựng
chính sách dân tộc và các chương trình dự án phát triển vùng dân tộc thiểu số cần
thiết phải được xem xét, tính tới các yếu tố, đặc điểm văn hóa vốn có của nó, như
một điều kiện để bảo đảm cho tính phù hợp của chính sách.
2. Một số khía cạnh về tiếp cận văn hóa trong xây dựng chính sách, chương
trình dự án phát triển vùng dân tộc thiểu số
Xây dựng chính sách, chương trình, dự án phát triển vùng dân tộc thiểu số
tiếp cận dưới góc độ “văn hóa” được xem xét ở một số khía cạnh sau:
Từ nội hàm của khái niệm văn hóa
- Văn hóa trong cách nhìn hệ thống văn hóa là phản ảnh “điểm nhìn” của
một cộng đồng dân tộc về thế giới vật chất, nhận thức điều kiện tự nhiên, môi
trường sống xung quanh và những quy tắc ứng xử của cộng đồng tương ứng với
nó. Trong một không gian sinh tồn, các dân tộc, các cộng đồng người phải vượt
qua sự cản trở của các thế lực tự nhiên và cả xã hội để tồn tại và phát triển, có cả



những thích ứng, thích nghi, biến đổi để hòa nhập. Chính quá trình thích nghi này
tạo nên những nét đặc thù, điểm khác biệt, hình thành bản sắc của cộng đồng, tổ
chức xã hội ở phạm vi hẹp hay ở phạm vi quốc gia dân tộc.
- Tín ngưỡng tâm linh của cộng đồng các dân tộc bắt nguồn từ thế giới quan
về trời đất, vũ trụ, thần lửa, quan niệm về rừng ma, rừng thiêng, với nhiều dạng
biểu đạt khác nhau. Văn hóa còn tồn tại trong tri thức bản địa về sản xuất, đời
sống, ứng xử với môi trường tự nhiên, môi trường xã hội cộng đồng. Đó là những
kinh nghiệm được thử thách và đúc rút qua nhiều thế hệ ở các cộng đồng cư dân
qua thực tiễn đời sống, trở thành giá trị phổ biến. Nhiều giá trị đã trở thành văn hóa
tồn tại trong tập quán, lối sống hoặc cao hơn là loại hình như dân ca, dân vũ, sử thi
và âm nhạc. Từ nhận thức về thế giới quan tạo nên nhân sinh quan trong đời sống
cộng đồng các dân tộc, mà nó chính là chiến lược thích nghi của các cộng đồng
này.
- Văn hóa trở thành tâm lý xã hội của một cộng đồng, ý thức hệ của một dân
tộc. Văn hóa tạo nên sự cấu kết giữa các cá nhân và cộng đồng xã hội chính vì tính
thống nhất và phổ biến của nó. Từ nhận thức chung về thế giới quan, và chịu ràng
buộc bởi các quy định của luật tục, phong tục, tập quán đã ảnh hưởng sâu sắc đến
suy nghĩ, hành vi của mỗi con người, quy định lại những suy nghĩ, hành vi của họ.
Từ đó, tạo nên tâm lý xã hội cộng đồng và chuyển hóa cao hơn thành ý thức hệ của
một dân tộc, thành thượng tầng kiến trúc của một dân tộc, đó là tư tưởng. Trong
một cộng đồng xã hội mà cấp độ và quy mô hẹp như ở các vùng dân tộc thiểu số
miền núi nước ta với nhiều yếu tố biệt lập thì tính liên kết nội tại và sự khác biệt
với cái chung của quốc gia càng lớn. Một cộng đồng quốc gia 54 dân tộc anh em
với hàng trăm phân loại ngành khác nhau, cư trú ở những vùng điều kiện sinh thái
khác nhau thì tính đa dạng càng nổi trội. Chính vì vậy, mỗi chính sách can thiệp
phải phù hợp với thực tiễn đời sống và tình cảm, tâm lý người dân và cộng đồng,
định hướng và chuyển hóa từng bước những yếu tố văn hóa đó trong từng bối cảnh
cụ thể.
Tiếp cận từ sự thay đổi, tiếp biến văn hóa trong sự phát triển đương đại



Quá trình phát triển của quốc gia và thế giới hiện nay đã tạo ra sự thay đổi
hết sức quan trọng trong đời sống văn hóa như một sự vận động tất yếu, nhất là văn
hóa các dân tộc thiểu số. Thứ nhất, phải kể đến các dòng văn hóa vật chất lan tỏa
trong quá trình toàn cầu hóa làm thay đổi quan niệm, ý thức của người dân, từ tập
quán tiêu dùng đến lối sống, từ suy nghĩ đến hành động, từ phạm vi cá nhân đến
cộng đồng. Sự đan xen của giá trị, bản sắc văn hóa với sự mất mát vốn di sản văn
hóa có thể diễn ra từng ngày trong nếp nghĩ, ứng xử. Rõ ràng, nếu ý thức tộc người
không được củng cố thì văn hóa vật chất sẽ làm thay đổi hoặc biến dạng văn hóa
tinh thần, dễ mất đi cái văn hóa gốc căn bản. Thứ hai, quá trình chuyển dịch dân
cư, đan xen ngày càng trở nên phổ biến, ngày càng hình thành nhiều các cộng đồng
dân cư hỗn hợp nhiều dân tộc nảy sinh nhiều thứ bậc và cấp độ quan hệ giữa các
dân tộc. Thực tế này dẫn đến quá trình hòa trộn, giao thoa văn hóa, tiếp biến văn
hóa. Thường thì một cộng đồng có số dân đông hơn và kinh tế phát triển hơn sẽ
chiếm ưu thế trội, ảnh hưởng đến văn hóa các cộng đồng còn lại. Sự hòa trộn đó
tạo nên một bức tranh đa sắc màu. Chính sách dân tộc phải được xử lý làm sao để
không làm mất đi những yếu tố chủ đạo đó là tính “thống nhất trong đa dạng”,
được quy định bởi mối quan hệ giữa các dân tộc dựa trên nguyên tắc bình đẳng.
Tiếp cận từ thực tiễn đặc điểm của các dân tộc Việt Nam
Nước ta có 53 dân tộc thiểu số với trên 12,5 triệu người, chiếm khoảng 14%
dân số, phân bố trên địa bàn 58/64 tỉnh, thành cả nước. Các dân tộc có số dân
không đồng đều, quần cư xen kẽ và cũng không đồng đều cả về trình độ phát triển
kinh tế - xã hội. Sự cách biệt về không gian địa lý làm giảm khả năng tiếp cận các
nguồn lực phát triển của quốc gia. Kết cấu hạ tầng kinh tế kỹ thuật nghèo nàn, thấp
kém hơn các vùng khác. Kinh tế nông nghiệp mang nặng tính tự nhiên, tự túc, tự
cấp với sức sản xuất thấp, nhiều nơi sản xuất hàng hoá chưa phát triển, một số
nhóm dân tộc ít người còn sử dụng loại hình kinh tế “chiếm đoạt” là chủ yếu với
phương thức canh tác còn sơ khai.
Lịch sử tồn tại và phát triển đã tạo nên sự đan xen nhiều chiều trong quan hệ
giữa các dân tộc. Quan hệ kinh tế là nền tảng chi phối quan hệ xã hội và thúc đẩy

giao lưu văn hoá. Quan hệ giao lưu văn hoá thúc đẩy quan hệ kinh tế, quan hệ dân


tộc. Một số dân tộc có mối quan hệ quốc tế về cộng đồng dân tộc do lịch sử quá
trình tồn tại và phát triển. Sự đa dạng về văn hoá và các sắc thái văn hoá thể hiện
rõ nét trong từng dân tộc, nhóm dân tộc và vùng, miền. Sự phát triển kinh tế tạo
nên “sự giao thoa văn hoá” giữa các cộng đồng dân tộc, làm phong phú hơn giá trị
văn hoá mà các dân tộc vốn có.
Tiếp cận từ chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước
Chính sách dân tộc ở Việt Nam mang tính chính trị sâu sắc, là sự thể chế hóa
chủ trương, đường lối của Đảng và Nhà n¬ước. Nguyên tắc bao trùm lớn nhất là
thể hiện một cách đầy đủ các quyền bình đẳng về chính trị, kinh tế, văn hoá - xã
hội và đoàn kết giữa các dân tộc, giúp đỡ lẫn nhau cùng phát triển. Tại Điều 5,
Hiếp pháp Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013 có ghi:
“1. Nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là quốc gia thống nhất của các dân
tộc cùng sinh sống trên đất nước Việt Nam.
2. Các dân tộc bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp nhau cùng phát triển; nghiêm
cấm mọi hành vi kỳ thị, chia rẽ dân tộc.
3. Ngôn ngữ quốc gia là tiếng Việt. Các dân tộc có quyền dùng tiếng nói, chữ viết,
giữ gìn bản sắc dân tộc, phát huy phong tục, tập quán, truyền thống và văn hoá tốt
đẹp của mình.
4. Nhà nước thực hiện chính sách phát triển toàn diện và tạo điều kiện để các dân
tộc thiểu số phát huy nội lực, cùng phát triển với đất nước”(3).
Có thể nhận thấy, quy luật phát triển không đồng đều, làm cho đời sống kinh
tế - xã hội giữa các dân tộc chênh lệch nhau cũng gây nên sự mặc cảm, tự ti, làm
giảm yếu tố động lực phát triển ở các cộng đồng dân tộc. Điều này gây bất lợi
trong việc xây dựng đoàn kết các dân tộc, nhất là khi mối quan hệ dân tộc trở nên
phức tạp và dễ vượt ra khỏi phạm vi dân tộc trở thành quan hệ quốc gia và quốc tế
khi bị các thế lực thù địch lợi dụng. Phát triển kinh tế - xã hội, từng bước cải thiện
và nâng cao mọi mặt đời sống nhân dân, thu hẹp dần khoảng cách phát triển giữa

các vùng, các dân tộc là một mục tiêu lớn đặt ra cho công tác dân tộc nói riêng và
công tác quản lý nhà nước quốc gia nói chung. Đây cũng là cơ sở quan trọng để


thực hiện các hoạt động văn hóa và chính sách bình đẳng về văn hóa, bảo tồn và
phát huy bản sắc văn hóa các dân tộc thiểu số.
3. Một số kiến nghị về tiếp cận văn hóa trong xây dựng chính sách phát triển
kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số
Những năm vừa qua, văn hoá ở vùng dân tộc thiểu số nước ta đã được quan
tâm và đầu tư đáng kể nhằm nâng cao mức độ hưởng thụ cho người dân. Cụ thể
như Chương trình phủ sóng phát thanh, truyền hình cho vùng đồng bào dân tộc,
biên giới, hải đảo; Chương trình bảo tồn văn hoá các dân tộc thiểu số Tây Nguyên
và gần đây là Chương trình mục tiêu quốc gia “Đưa thông tin về cơ sở miền núi,
vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo” theo Quyết định số 2331/QĐ-TTg ngày 2012-2011 và Đề án “Bảo tồn, phát triển văn hoá các dân tộc thiểu số Việt Nam đến
năm 2020” theo Quyết định số 1270/QĐ-TTg ngày 27-7-2011 của Thủ tướng
Chính phủ. Trong quá trình triển khai, nhiều hoạt động đã lồng ghép các nội dung
phổ biến khoa học kỹ thuật, hướng dẫn cách làm ăn, kế hoạch hoá gia đình, xóa bỏ
các hủ tục lạc hậu, để xoá đói giảm nghèo và đã có những tác động tích cực. Thiết
chế văn hoá ở vùng dân tộc được tăng cường một cách đáng kể, nâng cao khả năng
tiếp cận thông tin cho người dân trên nhiều mặt, nắm bắt được sự phát triển chung
của đất nước và đường lối chủ trương, chính sách của Đảng.
Để góp phần hoàn thiện hơn hệ thống chính sách phát triển vùng miền núi và
đồng bào dân tộc, các nội dung chính sách cần được xem xét và bảo đảm các khía
cạnh sau:
(i). Bảo đảm sự phù hợp một cách tương đối với điều kiện, hoàn cảnh, môi trường
sống của khu vực miền núi, dân tộc, cộng đồng các dân tộc thiểu số, nơi cái gốc để
sản sinh văn hóa và nuôi dưỡng văn hóa truyền thống.
(ii). Bảo đảm phù hợp với trình độ hiểu biết, nhận thức của người dân hay chính là
điểm thực tại của bối cảnh văn hóa của một cộng đồng và nó được quy định bởi
yếu tố nền tảng là mặt bằng trình độ phát triển, nhất là về giáo dục và kết cấu hạ

tầng kinh tế - kỹ thuật hiện có, cũng như quá trình giao lưu, tiếp biến văn hóa đang
diễn ra.


(iii). Đánh giá, phát hiện các vấn đề thuận lợi để khai thác, hạn chế để điều chỉnh,
khắc phục, tránh trở ngại, hoặc định hướng, dẫn dắt sự phát triển kinh tế, văn hóa,
xã hội theo chiều thuận mà không tạo nên những xung đột văn hóa, tâm lý xã hội.
Xử lý, loại trừ những tập tục không phù hợp trong đời sống cũng như tiếp nhận
những yếu tố văn minh của văn hóa mới.
(iv). Tôn trọng tính đa dạng văn hóa, đồng nghĩa với việc phải tăng cường quảng
bá, giới thiệu đầy đủ hơn bản sắc của từng dân tộc, đồng thời khắc phục tâm lý tự ti
dân tộc, khắc phục tư tưởng định kiến dân tộc từ quá trình giao lưu văn hóa. Vấn
đề bảo tồn và phát huy bản sắc văn hoá, suy cho cùng là giải quyết một cách hài
hoà mối quan hệ giữa con người với văn hóa, bao gồm cả văn hóa bên trong và văn
hóa bên ngoài. Đề cao chủ thể văn hóa các dân tộc, đẩy mạnh việc khai thác và sử
dụng tri thức địa phương trong các hoạt động phát triển. Xử lý hài hoà các nhu cầu
và lợi ích, giữa yếu tố truyền thống và hiện đại, giữa kinh tế và văn hoá trong sự
biến đổi kinh tế - văn hoá, quan hệ dân tộc đang là nhu cầu bức thiết, đòi hỏi khả
năng giải quyết tình hình thực tiễn nhạy bén, linh hoạt đang là thách thức đối với
các cấp, các ngành, địa phương vùng dân tộc thiểu số nước ta hiện nay./.
(1 ) Tuyên bố chung của UNESCO về tính đa dạng của văn hóa
(2) Văn kiện Nghị quyết 22 - NQ/TW, Bộ Chính trị ngày 29-11-1989
(3) Hiến pháp Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, 1992


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ Chính trị, Nghị quyết 22/TW ngày 29.11.1989 về phát triển kinh tế, xã hội
vùng miền núi và đồng bào dân tộc.
2. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Hội nghị lần thứ 5, Ban chấp hành Trung
ương (Khóa VIII), Nxb CTQG, Hà Nội, 1998

3. Hoàng Văn Nghĩa, Tiếp cận văn hóa với tính cách là một quyền cơ bản của con
người, Tạp chí lý luận chính trị, số 6/2011.
4. Hoàng Thị Hương, Một số vấn đề lý luận về bản sắc văn hóa dân tộc, TC Văn
hóa học, 2011
5. Ngô Đức Thịnh, Một số vấn đề phương pháp luận nghiên cứu vă nhoácho phát
triển, Nxb KHXH, Hà Nội, 2006
6.Trần Văn Bình, Đời sống văn hoá các dân tộc thiểu số trong quá trình công
nghiệp hóa, hiện đại hóa, Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội, 2006
7. Trung tâm nghiên cứu phát triển vùng, Kỷ yếu hội thảo, Nghiên cứu chính sách
đối với các dân tộc thiểu số thuộc địa bàn có điều kiện kinh tế- xã hội đặc biệt khó
khăn ở nước ta, Bộ Khoa học và công nghệ, 2/2011.
8. Uỷ ban Dân tộc, Cơ hội và thách thức đối với vùng dân tộc thiểu số khi Việt
Nam gia nhập WTO, Nxb Lý luận chính trị, Hà nội, 2008 .



×