Tải bản đầy đủ (.docx) (9 trang)

HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ TÍN NGƯỠNG TÔN GIÁO

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (96.14 KB, 9 trang )

HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ TÍN NGƯỠNG, TÔN GIÁO
Nguyễn Khắc Huy
Vụ trưởng Vụ Pháp chế
Ban Tôn giáo Chính phủ

1. Khái quát về tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam
Theo ước tính hiện nay 95% dân số Việt Nam có đời sống tín ngưỡng, tôn
giáo. Theo thống kê chưa đầy đủ cả nước hiện có gần 8.000 lễ hội, trong đó có trên
7000 lễ hội dân gian, trên 500 lễ hội tôn giáo với gần 50 ngàn cơ sở tín ngưỡng.
Riêng tôn giáo có 38 tổ chức và 01 pháp môn tu học đã được Nhà nước công
nhận và cấp đăng ký hoạt động với khoảng 24 triệu tín đồ (chiếm khoảng 27% dân
số cả nước), hơn 80.000 chức sắc, 46 cơ sở đào tạo chức sắc tôn giáo, hơn 25 ngàn
cơ sở thờ tự.
Có thể nói Việt Nam là một quốc gia đa tôn giáo, có cả tôn giáo nội sinh và
tôn giáo du nhập từ nước ngoài vào; có tôn giáo đã du nhập vào Việt Nam hàng
ngàn năm, có tôn giáo mới được Nhà nước công nhận về tổ chức; có tôn giáo có số
lượng tín đồ đông (hơn 10 triệu), nhưng cũng có tôn giáo chỉ có vài trăm đến vài
ngàn tín đồ. Sự đa dạng về tín ngưỡng, tôn giáo đã góp phần làm đa dạng nền văn
hóa Việt Nam nhưng cũng đặt ra vấn đề cần quan tâm trong công tác quản lý nhà
nước đối với hoạt động tôn giáo.
2. Yêu cầu khách quan của quản lý nhà nước đối với hoạt động tín
ngưỡng, tôn giáo
Tín ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân, tồn tại
khách quan, lâu dài cùng với sự phát triển của xã hội. Quá trình tồn tại, phát triển
của tín ngưỡng, tôn giáo có ảnh hưởng không nhỏ đối với sự phát triển của mỗi
quốc gia, mỗi dân tộc.
Tín ngưỡng, tôn giáo tồn tại vừa mang những ưu điểm vừa mang những hạn
chế tiêu cực. Để phát huy những ưu điểm, hạn chế những tiêu cực do hoạt động tín


ngưỡng, tôn giáo mang lại, quản lý nhà nước đối với các hoạt động này là cần


thiết, khách quan.
Trong công cuộc đổi mới ở nước ta hiện nay, không những cần thiết phải
quản lý nhà nước đối với hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo mà còn cần phải tăng
cường quản lý nhà nước đối với lĩnh vực này, vì:
Một là: Quan điểm của Đảng và Nhà nước về tín ngưỡng, tôn giáo có nhiều
đổi mới, bởi vậy công tác quản lý nhà nước cũng cần phải có những đổi mới cho
phù hợp.
Hai là: Thực tiễn quản lý nhà nước vừa qua cho thấy, một số nơi chủ quan,
nóng vội khi giải quyết vấn đề liên quan đến tín ngưỡng, tôn giáo; có nơi lại thụ
động, buông lỏng quản lý. Đây là một trong những lý do cơ bản đòi hỏi phải tăng
cường quản lý nhà nước đối với hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo.
Ba là: Yêu cầu của cải cách hành chính nhà nước nói chung và quản lý hành
chính nhà nước đối với hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo nói riêng đặt ra nhiều vấn
đề về hệ thống pháp luật điều chỉnh các hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo; về tổ chức
bộ máy quản lý nhà nước về tín ngưỡng, tôn giáo đáp ứng yêu cầu của tình hình
mới.
Bốn là: Trong công cuộc đổi mới ở nước ta, bên cạnh những điểm tích cực,
phù hợp, tín ngưỡng, tôn giáo vẫn là một trong những đối tượng để các thế lực thù
địch lợi dụng thực hiện âm mưu diễn biến hoà bình, can thiệp vào công việc nội bộ
của nước ta.
3. Mục tiêu quản lý
Một là: Đảm bảo các hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo bình thường được diễn
ra trong khuôn khổ của pháp luật.
Hai là: Phát huy được những mặt tích cực, khắc phục được những hạn chế,
tiêu cực trong hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo đối với quá trình phát triển xã hội.
Ba là: Góp phần củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc trong xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc.


Bốn là: Xác định trách nhiệm của Nhà nước trong việc tôn trọng và bảo hộ

quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo. Nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước
đối với hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo.
4. Hoàn thiện pháp luật về tôn giáo
4.1. Sự cần thiết
Cụ thể hoá quy định của Hiến pháp năm 1992 về quyền tự do tín ngưỡng,
tôn giáo của công dân, các quan điểm, chủ trương của Đảng tại Hội nghị lần thứ
bảy Ban chấp hành Trung ương Đảng (khoá IX) về công tác tôn giáo (Nghị quyết
số 25/NQTW ngày 12/3/2003), Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo đã được Ủy ban
Thường vụ Quốc hội ban hành, tạo hành lang pháp lý để ghi nhận, bảo đảm thực
hiện quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của công dân cũng như chính sách của Nhà
nước về tín ngưỡng, tôn giáo, công tác quản lý nhà nước đối với các hoạt động tín
ngưỡng, tôn giáo. Pháp lệnh đã quán triệt, thể chế hóa cơ bản những quan điểm,
chủ trương, chính sách về tín ngưỡng, tôn giáo của Đảng và Nhà nước được ghi
nhận trong các kỳ Đại hội; bảo đảm tính tương thích với luật pháp quốc tế điều
chỉnh về quyền con người trong đó có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo đặc biệt là
những Điều ước quốc tế mà Việt Nam đã ký kết hoặc gia nhập. Pháp lệnh cũng thể
hiện chính sách dân chủ, tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của công dân;
xác định rõ quyền và nghĩa vụ của các cá nhân, tổ chức tôn giáo, trách nhiệm của
các cơ quan quản lý nhà nước trong việc bảo đảm quyền và nghĩa vụ của các cá
nhân, tổ chức trong hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo; tôn trọng và bảo đảm nguyên
tắc những việc thuộc nội bộ của các tổ chức tôn giáo do các tôn giáo tự giải quyết
theo hiến chương, điều lệ đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền chấp thuận.
Điều đó đã làm lành mạnh hoá các quan hệ tôn giáo và hoạt động tôn giáo vì lợi
ích chính đáng của tín đồ và tổ chức tôn giáo, vì lợi ích chung của toàn xã hội
trong bối cảnh Việt Nam đang đẩy mạnh hội nhập và giao lưu quốc tế. Khích lệ
đồng bào các tôn giáo có những đóng góp tích cực vào công cuộc xây dựng đất
nước và bảo vệ Tổ quốc, xây dựng đường hướng hành đạo gắn bó với dân tộc, thực
hiện đại đoàn kết toàn dân, xây dựng cuộc sống "tốt đời, đẹp đạo".



Tuy nhiên, qua tổng kết 10 năm thực hiện Pháp lệnh và các văn bản quy định
chi tiết thi hành, có thể thấy vẫn còn những bất cập trong các quy định của Pháp
lệnh chưa phù hợp thực tiễn hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo và có những vấn đề
phức tạp phát sinh, cụ thể:
Một là: Một số quy định của Pháp lệnh còn thiếu cụ thể, chưa phù hợp với
thực tiễn hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo làm ảnh hưởng đến việc thực hiện quyền
tự do tín ngưỡng, tôn giáo của mọi người như quy định về hoạt động tín ngưỡng,
đăng ký hoạt động tôn giáo, công nhận tổ chức tôn giáo, phong chức, phong phẩm,
bổ nhiệm, bầu cử, suy cử, hoạt động xã hội của tổ chức tôn giáo, hoạt động quốc
tế, sinh hoạt tôn giáo của người nước ngoài tại Việt Nam...
Hai là: Một số vấn đề phát sinh trong thực tiễn chưa được quy định trong
Pháp lệnh như: Vấn đề tổ chức tôn giáo ở Việt Nam gia nhập tổ chức tôn giáo quốc
tế; việc phong chức, phong phẩm, bổ nhiệm, bầu cử, suy cử cho người có quốc tịch
nước ngoài hoạt động cho tổ chức tôn giáo ở Việt Nam; việc người nước ngoài vào
tu tại cơ sở tôn giáo ở Việt Nam,… chưa được quy định, gây ảnh hưởng đến tổ
chức, cá nhân tôn giáo trong thực hiện quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo như quy
định tại Điều 24 của Hiến pháp năm 2013.
Về trách nhiệm của cơ quan quản lý nhà nước về tín ngưỡng, tôn giáo chưa
được quy định cụ thể trong Pháp lệnh, ảnh hưởng đến hiệu lực, hiệu quả quản lý
nhà nước đối với lĩnh vực này và hoạt động của tổ chức, cá nhân tôn giáo.
Những hạn chế, bất cập nêu trên đặt ra yêu cầu cấp thiết phải xây dựng một
văn bản có giá trị pháp lý cao hơn thay thế Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo để đáp
ứng yêu cầu của thực tiễn về tín ngưỡng, tôn giáo cũng như nâng cao hiệu quả
quản lý của Nhà nước, thực hiện đúng chủ trương của Đảng tại Đại hội Đảng toàn
quốc lần thứ XI là: “tiếp tục hoàn thiện chính sách, pháp luật về tín ngưỡng, tôn
giáo phù hợp với quan điểm của Đảng”.
Cùng với đó, Hiến pháp năm 2013 đã có những sửa đổi rất quan trọng về
chủ thể của quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo không chỉ là của “công dân” Việt
Nam mà là của “mọi người”, ghi nhận quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo là một
trong những quyền cơ bản của con người, được Nhà nước tôn trọng và bảo đảm, bổ



sung nguyên tắc về việc hạn chế quyền con người trong các trường hợp nhất định
phải do luật định, theo đó, quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo là quyền con người,
nên việc quy định hạn chế quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo phải được quy định cụ
thể bằng luật. Hiến pháp cũng đã phân định thẩm quyền của Quốc hội, Chính phủ
trong quyết định các chính sách tôn giáo, quản lý nhà nước về tôn giáo vì vậy việc
ban hành luật để cụ thể hoá đầy đủ nội dung, quy định và tinh thần của Hiến pháp
năm 2013 về quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo càng trở nên cần thiết và cấp bách.
Trong xu hướng hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng, hoạt động tôn
giáo trên thế giới rất đa dạng, có nhiều biến động phức tạp cũng như tác động từ
các tổ chức quốc tế, các quốc gia về vấn đề nhân quyền, dân chủ đã ảnh hưởng
không nhỏ tới hoạt động tôn giáo cũng như công tác quản lý nhà nước về tôn giáo
ở Việt Nam.
Bên cạnh những tôn giáo hoạt động ổn định, có đủ điều kiện theo luật định
đã được Nhà nước chấp thuận cấp đăng ký hoạt động, công nhận tổ chức thì còn
hàng chục hiện tượng tôn giáo mới tồn tại. Một số hiện tượng tôn giáo mới nặng
tính mê tín dị đoan, giáo lý, giáo luật không có hoặc vay mượn từ các tôn giáo
khác hoặc thể hiện lối sống lệch chuẩn, trái với các giá trị đạo đức, văn hóa của
dân tộc;... cũng đặt ra yêu cầu cần sớm sửa đổi, bổ sung và ban hành Luật để hoàn
thiện cơ sở pháp lý, giải quyết các vấn đề phát sinh trong công tác quản lý nhà
nước về tín ngưỡng, tôn giáo.
Từ những căn cứ nêu trên, việc xây dựng một đạo luật để tạo cơ sở pháp lý
đầy đủ hơn, phù hợp Hiến pháp, tương thích với các điều ước quốc tế nhằm bảo
đảm quyền hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo cho mọi người ở Việt Nam, đồng thời
đáp ứng đòi hỏi của thực tiễn công tác quản lý nhà nước về tín ngưỡng, tôn giáo là
yêu cầu cấp thiết hiện nay.
4.2. Các nội dung cần quy định trong Luật tín ngưỡng, tôn giáo
Luật tín ngưỡng, tôn giáo là văn bản Luật có đối tượng điều chỉnh đặc thù,
đa dạng; phạm vi điều chỉnh rộng, phức tạp liên quan đến quyền con người, quyền

tự do tín ngưỡng, tôn giáo (liên quan đến đời sống tâm linh, tinh thần) của mọi
người, đặc biệt của các tổ chức, cá nhân tôn giáo. Quá trình xây dựng Luật cần


phải đáp ứng được nguyên tắc vừa đảm bảo quyền con người, quyền tự do tín
ngưỡng, tôn giáo của mọi người phù hợp với các công ước quốc tế về lĩnh vực này
mà Việt Nam đã ký kết hoặc gia nhập lại vừa đáp ứng yêu cầu quản lý nhà nước về
tín ngưỡng, tôn giáo và phù hợp với hệ thống pháp luật chung của Việt Nam.
Luật tín ngưỡng, tôn giáo được ban hành sẽ thay thế Pháp lệnh tín ngưỡng,
tôn giáo, vì vậy, để góp phần hoàn thiện pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo, trên cơ
sở các quy định của Pháp lệnh còn phù hợp với thực tiễn, dự thảo Luật cần bổ sung
một số quy định cụ thể sau:
a) Những quy định chung, quy định về phạm vi điều chỉnh, đối tượng áp
dụng; quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo; trách nhiệm của tổ chức, cá nhân trong
việc thực hiện quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo; trách nhiệm của cơ quan nhà nước
trong việc tôn trọng và bảo hộ quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo; giải thích các từ
ngữ có liên quan; quyền và nghĩa vụ của người có tín ngưỡng, tín đồ tôn giáo;
quyền và nghĩa vụ của tổ chức tôn giáo, tổ chức tôn giáo trực thuộc và các hành vi
bị nghiêm cấm.
Các quy định này nhằm cụ thể hoá chủ thể của quyền tự do tín ngưỡng, tôn
giáo là "mọi người" theo Hiến pháp 2013 chứ không chỉ là "công dân" như quy
định trong Hiến pháp 1992. Đồng thời khẳng định rõ quyền theo hoặc không theo
một tôn giáo nào của cá nhân, không ai được xâm phạm tới quyền tự do tín
ngưỡng, tôn giáo và nghiêm cấm ép buộc theo đạo, bỏ đạo hoặc lợi dụng quyền tự
do tín ngưỡng, tôn giáo để xâm hại tới quyền và lợi ích hợp pháp của Nhà nước, tổ
chức tôn giáo, cá nhân tôn giáo.
Dự thảo cần quy định cụ thể quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo bị giới hạn
trong những trường hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an
toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng. Quy định này là cần thiết để
Nhà nước bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của mọi người trong một tổng

thể chung về an ninh, trật tự, an toàn xã hội, bảo vệ các quyền và tự do cơ bản của
người khác.
b) Quy định về hoạt động tín ngưỡng, bao gồm hoạt động tín ngưỡng, lễ hội
tín ngưỡng; người đại diện, ban quản lý cơ sở tín ngưỡng; đăng ký hoạt động tín


ngưỡng hằng năm; hoạt động tín ngưỡng tại cơ sở tín ngưỡng; tổ chức lễ hội tín
ngưỡng. Đây là quy định nhằm đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng của người dân và
hoạt động của cơ sở tín ngưỡng.
c) Quy định về điều kiện đăng ký sinh hoạt tôn giáo; đăng ký hoạt động tôn
giáo, thẩm quyền cấp đăng ký hoạt động tôn giáo, hoạt động của tổ chức sau khi
được cấp đăng ký và thu hồi đăng ký nếu tổ chức vi phạm các quy định pháp luật.
Các quy định này một mặt giúp các tổ chức, cá nhân khi có nhu cầu hoạt động tôn
giáo, đáp ứng các điều kiện theo quy định được thực hiện một cách thuận lợi, mặt
khác các cơ quan nhà nước cũng có căn cứ để thực hiện tốt chức năng của mình.
Thu hồi đăng ký là một quy định mang tính khuyến cáo, ngăn ngừa để bất cứ
tổ chức nào khi đã được cấp đăng ký hoạt động tôn giáo cần hoạt động đúng tôn
chỉ, mục đích đã đăng ký và không vi phạm các điều cấm.
d) Quy định về điều kiện, thẩm quyền công nhận tổ chức tôn giáo; điều kiện,
thẩm quyền chấp thuận thành lập, chia, tách, sáp nhập, hợp nhất tổ chức tôn giáo
trực thuộc; điều kiện, thẩm quyền chấp thuận thành lập cơ sở đào tạo tôn giáo,
thông báo hoạt động của cơ sở đào tạo tôn giáo. Dự thảo Luật cần đưa ra các biện
pháp từ tạm đình chỉ đến giải thể sẽ được áp dụng khi tổ chức tôn giáo, tổ chức tôn
giáo trực thuộc, cơ sở đào tạo tôn giáo vi phạm các quy định pháp luật.
đ) Quy định một cách hợp lý về các hoạt động tôn giáo như tổ chức như hội
nghị thường niên, đại hội (phân cấp thẩm quyền cho nhiều cơ quan trong việc chấp
thuận đối với các hội nghị, đại hội tùy thuộc vào phạm vi hoạt động của tổ chức
tôn giáo, tổ chức tôn giáo trực thuộc); phong chức, phong phẩm, bổ nhiệm, bầu cử,
suy cử, cách chức, bãi nhiệm trong tổ chức tôn giáo, tổ chức tôn giáo trực thuộc
(kể cả người có quốc tịch nước ngoài hoạt động cho tổ chức tôn giáo ở Việt Nam);

thông báo thuyên chuyển nơi hoạt động tôn giáo của chức sắc, chức việc, nhà tu
hành; giảng đạo, truyền đạo, tạm đình chỉ hoạt động tôn giáo của chức sắc, chức
việc, nhà tu hành; đăng ký người vào tu, đăng ký hoạt động tôn giáo hằng năm của
tổ chức tôn giáo, tổ chức tôn giáo trực thuộc.
e) Bổ sung các quy định về quan hệ quốc tế của tổ chức tôn giáo, tổ chức tôn
giáo trực thuộc, chức sắc, chức việc, nhà tu hành, tín đồ. Khẳng định nguyên tắc


quyền được thực hiện các hoạt động quốc tế liên quan đến tôn giáo, quyền được
mời tổ chức, cá nhân là người nước ngoài vào Việt Nam để thực hiện các hoạt
động tôn giáo, hoạt động quốc tế liên quan đến tôn giáo, quyền được tham gia hoạt
động tôn giáo, đào tạo tôn giáo ở nước ngoài, quyền tham gia các tổ chức tôn giáo
quốc tế. Trách nhiệm của cơ quan nhà nước có thẩm quyền đối với việc thực hiện
các quyền trên của tổ chức, cá nhân tôn giáo.
g) Quy định cụ thể các hoạt động nhằm khẳng định chủ trương của Nhà
nước khuyến khích và tạo điều kiện bảo đảm cho các hoạt động tín ngưỡng, tôn
giáo vì lợi ích công cộng, lợi ích cộng đồng, lợi ích quốc gia; bảo hộ tài sản hợp
pháp của cơ sở tín ngưỡng, tổ chức tôn giáo, cơ sở tôn giáo và các cơ sở khác
của tổ chức tôn giáo được Nhà nước cho phép hoạt động.
h) Quy định quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của người nước ngoài sinh
sống, làm việc tại Việt Nam được Nhà nước Việt Nam tôn trọng và bảo đảm. Các
quyền này bao gồm quyền sinh hoạt tôn giáo của người nước ngoài tại cơ sở tôn
giáo hoặc các địa điểm hợp pháp khác; vào tu tại cơ sở tôn giáo; giảng đạo của
chức sắc, nhà tu hành là người nước ngoài tại cơ sở tôn giáo ở Việt Nam hoặc các
địa điểm hợp pháp khác; theo học tại cơ sở đào tạo những người chuyên hoạt động
tôn giáo ở Việt Nam.
i) Quy định về nguyên tắc quản lý, cơ quan quản lý nhà nước đối với hoạt
động tín ngưỡng, tôn giáo; về thanh tra, khiếu nại, tố cáo và giải quyết khiếu nại, tố
cáo; xử lý vi phạm pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo.
Đây chính là các quy định về trách nhiệm của nhà nước trong việc đảm bảo

quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của mọi người.
Kết luận
Tự do tín ngưỡng, tôn giáo là một trong những quyền tự do cơ bản của con
người, có liên quan, ảnh hưởng trực tiếp tới đời sống tinh thần của người dân.
Những nội dung cần quy định nêu trên nhằm bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn
giáo được thực hiện theo pháp luật, phát huy truyền thống, văn hóa tốt đẹp của dân
tộc, góp phần vào công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước.


Nâng cao năng lực, hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước là một đòi hỏi tất
yếu của quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Xây dựng và
hoàn thiện hệ thống pháp luật điều chỉnh lĩnh vực tín ngưỡng, tôn giáo trong đó
xây dựng Luật tín ngưỡng, tôn giáo nhằm bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn
giáo của mọi người, xác định trách nhiệm của Nhà nước trong việc bảo hộ quyền
tự do ấy, đồng thời nâng cao năng lực, hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước đối với
hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo chính là đáp ứng yêu cầu trên và góp phần thực
hiện thắng lợi một trong những mục tiêu mà Đại hội Đảng lần thứ XI đã đề ra là:
“Tiếp tục hoàn thiện chính sách, pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo phù hợp với
quan điểm của Đảng. Phát huy những giá trị văn hoá, đạo đức tốt đẹp của các tôn
giáo; động viên các tổ chức tôn giáo, chức sắc, tín đồ sống tốt đời, đẹp đạo, tham
gia đóng góp tích cực cho công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.”./.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
- Nghị quyết của Đảng về công tác tôn giáo;
- Dự án Luật tín ngưỡng, tôn giáo;
- Thống kê về tín ngưỡng, tôn giáo của Ban TGCP;
- Tài liệu bồi dưỡng cán bộ làm công tác tôn giáo của Ban TGCP.





×