Tải bản đầy đủ (.docx) (17 trang)

Thông báo tìm kiếm người vắng mặt, tuyên bố mất tích, tuyên bố chết theo quy định của Bộ luật dân sự 2015

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (105.73 KB, 17 trang )

MỤC LỤC

A.MỞ BÀI.................................................................................................................1
B.NỘI DUNG:...........................................................................................................1
I. Điều kiện và hậu quả pháp lý của việc tuyên bố cá nhân chết, hậu quả pháp lý của việc
tuyên bố hủy bỏ quyết định cá nhân chết theo quy định của BLDS 2015:................1
1. Cơ sở pháp lí của việc tuyên bố chết:................................................................1
2. Phân tích làm rõ điều kiện tuyên bố cá nhân đã chết:........................................4
3. Hậu quả pháp lý của việc tuyên bố cá nhân chết:..............................................7
4. Hủy bỏ quyết định tuyên bố chết và hậu quả pháp lý theo quy định của BLDS 2015:
9
II. Các quy định pháp luật có liên quan:................................................................11
III. Nhận xét về những quy định của pháp luật hiện hành quy định về tuyên bố chết và
một số hạn chế, giải pháp hoàn thiện những quy định trong việc tuyên bố cá nhân chết: 14
IV. So sánh và nêu ra một số điểm mới của BLDS 2015 so với BLDS 2005:.......15
C. KẾT LUẬN:........................................................................................................17
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.................................................................18


A.

MỞ BÀI
“Thông báo tìm kiếm người vắng mặt, tuyên bố mất tích, tuyên bố chết” trong bộ

Luật dân sự có ý nghĩa quan trọng, vì trong quan hệ dân sự, mối quan hệ về quyền và
nghĩa vụ dân sự giữa các cá nhân gắn bó chặt chẽ với nhau, việc một người vắng mặt ở
nơi cư trú trong một thời gian dài mà không có tin tức chứng minh rằng người dó còn
sống hay đã chết sẽ ảnh hưởng trực tiếp tới các chủ thể liên quan khác. Các quy định trong
chế định này nhằm giúp cho các giao dịch dân sự được diễn ra thông suốt, bảo vệ được
quyền, lợi ích của những người liên quan và của chính người vắng mặt. Khi một người
biệt tích quá lâu khỏi nơi cư trú đã làm gián đoạn các quan hệ xã hội mà họ đã tham gia,


làm ảnh hưởng tới quyền, lợi ích hợp pháp của những người có liên quan đến họ trong các
quan hệ dân sự, hôn nhân và gia đình, lao động, kinh doanh, thương mại. Vì vậy, để bảo
vệ quyền và lợi ích hợp pháp của những người có liên quan đến người biệt tích trong các
quan hệ dân sự, hôn nhân gia đình, lao động, kinh doanh, thương mại pháp luật quy định
các chủ thể này có quyền yêu cầu Tòa án tuyên bố một người mất tích hoặc là đã chết.
Trong bài viết này, chúng ta sẽ cùng tìm hiểu những điều kiện và quy định về việc
tuyên bố một cá nhân chết và khi cá nhân bị tuyên bố đó trở về trong BLDS 2015. Đồng
thời tìm hiểu một số nội dung có liên quan, làm rõ những quy định và giải quyết một số
bất cập trong việc tuyên bố một cá nhân chết cũng như hậu quả pháp lý kéo theo khi tuyên
bố một người là đã chết.
B.

NỘI DUNG:

I. Điều kiện và hậu quả pháp lý của việc tuyên bố cá nhân chết, hậu quả pháp lý của
việc tuyên bố hủy bỏ quyết định cá nhân chết theo quy định của BLDS 2015:
1.

Cơ sở pháp lí của việc tuyên bố chết:
Chế định tuyên bố mất tích là một chế định đặc biệt của bộ luật Dân sự Việt Nam.

Tuyên bố một người chết sẽ đồng thời kéo theo một loạt các hậu quả pháp lí khác. Chính
vì vậy, nhằm duy trì trật tự các quan hệ pháp luật hoặc chấm dứt một số quan hệ pháp luật
mà người tham gia đã vắng mặt lâu ngày, góp phần bảo đảm quyền lợi của các chủ thể,các
1


nhà làm luật đã quy định việc quyên bố một người đã chết tại Chương III, Mục 5 Bộ luật
Dân sự.
Tại Điều 71 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định điều kiện để tuyên bố một người đã

chết như sau:
1. Người có quyền, lợi ích liên quan có thể yêu cầu tòa án ra quyết định tuyên bố một
người đã chết trong các trường hợp sau đây;
a. Sau ba năm, kể từ ngày quyết định tuyên bố mất tích của tòa án có hiệu lực pháp
luật mà không có tin tức của người còn sống;
b. Biệt tích trong chiến tranh sau năm năm, kể từ ngày chiên tranh kết thúc mà vẫn
không có tin tức xác thực là còn sống;
c. Bị tai nạn hoặc thảm hoạ, thiên tai mà sau hai năm, kể từ ngày tai nạn hoặc thảm
họa, thiên tai đó chấm dứt vẫn không có tin tức xác thực là còn sống, trừ trường hợp pháp
luật có quy định khác về thời hạn;
d. Biệt tích đã năm năm liền trở lên và không có tin tức xác thực là còn sống; thời
hạn này được tính theo quy định tại Khoản 1 Điều 68 của Bộ luật này như sau:
‘‘1. Khi một người biệt tích 02 năm liền trở lên, mặc dù đã áp dụng đầy đủ các biện
pháp thông báo, tìm kiếm theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự nhưng vẫn không
có tin tức xác thực về việc người đó còn sống hay đã chết thì theo yêu cầu của người có
quyền, lợi ích liên quan, Tòa án có thể tuyên bố người đó mất tích. Thời hạn 02 năm được
tính từ ngày biết được tin tức cuối cùng về người đó; nếu không xác định được ngày có tin
tức cuối cùng thì thời hạn này được tính từ ngày đầu tiên của tháng tiếp theo tháng có tin
tức cuối cùng; nếu không xác định được ngày, tháng có tin tức cuối cùng thì thời hạn này
được tính từ ngày đầu tiên của năm tiếp theo năm có tin tức cuối cùng’’.
2.Tùy từng trường hợp, tòa án xác định ngày chết của người bị tuyên bố là đã chết;
nếu không xác định được ngày đó thì thì ngày mà quyết định của tòa án tuyên bố người đó
chết



hiệu

lực


pháp

luật

được

coi



ngày

người

đó

chết.
2


Liên quan đến vấn đề tuyên bố cá nhân chết, Bộ luật Dân sự năm 2015 còn quy định
hai điều khoản khác, đó là:
Điều 72 BLDS 2015: Quan hệ nhân thân và quan hệ tài sản của người bị Tòa án
tuyên bố là đã chết:
1. Khi quyết định của Tòa án tuyên bố một người là đã chết có hiệu lực pháp luật thì
quan hệ về hôn nhân, gia đình và các quan hệ nhân thân khác của người đó được giải
quyết như đối với người đã chết.
2. Quan hệ tài sản của người bị Tòa án tuyên bố là đã chết được giải quyết như đối
với người đã chết; tài sản của người đó được giải quyết theo quy định của pháp luật về
thừa kế.

Điều 73 BLDS 2015: Hủy bỏ quyết định tuyên bố một người đã chết:
1. Khi một người bị tuyên bố là đã chết trở về hoặc có tin tức xác thực là người đó
còn sống thì theo yêu cầu của người đó hoặc của người có quyền, lợi ích liên quan, Tòa án
ra quyết định hủy bỏ quyết định tuyên bố người đó là đã chết.
2. Quan hệ nhân thân của người bị tuyên bố là đã chết được khôi phục khi Tòa án ra
quyết định hủy bỏ quyết định tuyên bố người đó là đã chết, trừ trường hợp sau đây:
a) Vợ hoặc chồng của người bị tuyên bố là đã chết đã được Tòa án cho ly hôn theo
quy định tại khoản 2 Điều 68 của Bộ luật này thì quyết định cho ly hôn vẫn có hiệu lực
pháp luật;
b) Vợ hoặc chồng của người bị tuyên bố là đã chết đã kết hôn với người khác thì việc
kết hôn đó vẫn có hiệu lực pháp luật.
3. Người bị tuyên bố là đã chết mà còn sống có quyền yêu cầu những người đã nhận
tài sản thừa kế trả lại tài sản, giá trị tài sản hiện còn.
Trường hợp người thừa kế của người bị tuyên bố là đã chết biết người này còn sống mà cố
tình giấu giếm nhằm hưởng thừa kế thì người đó phải hoàn trả toàn bộ tài sản đã nhận, kể
cả hoa lợi, lợi tức; nếu gây thiệt hại thì phải bồi thường.
3


4. Quan hệ tài sản giữa vợ và chồng được giải quyết theo quy định của Bộ luật này,
Luật hôn nhân và gia đình.
5. Quyết định của Tòa án hủy bỏ quyết định tuyên bố một người là đã chết phải
được gửi cho Ủy ban nhân dân cấp xã nơi cư trú của người bị tuyên bố là đã chết để ghi
chú theo quy định của pháp luật về hộ tịch.
Hai điều khoản này là cơ sở để giải quyết nhiều vấn đề liên quan cũng như giải
quyết một số hậu quả pháp lí liên quan đến việc tuyên bố cá nhân chết. Giải quyết các vấn
đề liên quan đến hậu quả pháp lí còn liên quan đến các điều khoản khác quy định về thừa
kế, các điều khoản được quy định trong Luật Hôn nhân gia đình…
2.


Phân tích làm rõ điều kiện tuyên bố cá nhân đã chết:
Thứ nhất, điều kiện về thời gian:
Về mặt thời gian:
Theo điều kiện trên Tòa án chỉ tuyên bố cá nhân chết nếu qua thời hạn luật định mà

vẫn không có tin tức là họ còn sống. Đối với mỗi trường hợp cụ thể thì sẽ có thời hạn khác
nhau. Khoản 1, Điều 71 Bộ luật Dân sự quy định rõ về điều này:
Trong trường hợp tuyên bố chết với cá nhân mất tích: nếu đã qua thủ tục tuyên bố
mất tích, thì qua thời hạn là ba năm kể từ ngày tuyên bố mất tích của Tòa án đối với cá
nhân đó có hiệu lực pháp luật.
Trong trường hợp tuyên bố đã chết đối với người mất tích nhưng chưa qua thủ tục
tuyên bố mất tích : nếu cá nhân bị mất tích trong chiến tranh thì phải qua năm năm kể từ
ngày chiến tranh mất tích mà không có bất cứ tin tức nào về việc người đó còn sống hay
không thì mới được yêu cầu tòa án tuyên bố mất tích. Trong trường hợp mất tích sau tai
nạn, thảm họa hoặc thiên tai thì thời hạn đó là một năm sau khi thảm họa, thiên tai đó
chấm dứt và không có bất kì tin tức gì về việc người đó còn sống hay đã chết.
Đối với trường hợp tuyên bố đã chết đối với người biệt tích lâu ngày mà chưa qua
thủ tục tuyên bố mất tích thì phải đáp ứng điều kiện về thời hạn là qua năm năm kể từ
ngày, tháng năm biết được tin tức cuối cùng của người đó về sự sống còn của họ. Thời
4


điểm biệt tích là ngày biết được tin tức cuối cùng về người đó, nếu không xác định được
ngày có tin tức cuối cùng thì thời điểm biệt tích được tính từ ngày đầu tiên của tháng có
tin tức cuối cùng, nếu không xác định được ngày, tháng có tin tức cuối cùng thì thời điểm
biệt tích được tính từ ngày đầu tiên của năm tiếp theo có tin tức cuối cùng. Như vậy, tính
từ thời điểm biệt tích, phải sau năm năm thì các cá nhân liên quan mới có quyền yêu cầu
tòa án ra quyết định tuyên bố chết với một người và thỏa mãn thời hạn đó thì Toàn án mới
có thể ra quyết định tuyên bố cá nhân chết.
Về mặt không gian:

Bộ luật Dân sự Việt Nam không quy định về phạm vi nơi có tin tức cuối cùng. Tuy
nhiên, theo hướng dẫn của Nghị quyết 03/HĐTP ngày 19/10/1990 của Tòa án nhân dân tối
cao để xác định không gian của nơi có tin tức cuối cùng là nơi cứ trú cuối cùng của người
đó: “ Nơi cư trú cuối cùng” của người biệt tích là nơi cuối cùng mà nguyên đơn, người
yêu cầu biết được người đã biệt tích thường xuyên sinh sống tại đó trước khi họ biệt tích.
Xác định nơi cư trú cuối cùng của cá nhân biệt tích bị tuyên bố chết là cơ sở để tính
thời hạn năm năm cho việc tòa án ra quyết định tuyên bố. Trong trường hợp người không
có tin tức sống tại nơi cư trú cuối cùng của họ đã quá năm năm, nhưng nếu có căn cứ
chính xác về việc người đó đã xuất hiện ở địa phương khác thì ngày mà họ xuất hiện ở địa
phương đó được coi là thời điểm để bắt đầu tính thời hạn.
Thứ hai phải thông qua thủ tục tìm kiếm:
Trước khi các cá nhân liên quan yêu cầu Tòa án ra quyết định tuyên bố đã chết đối
với một người nào đó thì họ có thể yêu cầu Tòa án ra thông báo tìm kiếm người vắng mặt
tại nơi cư trú ( nếu cá nhân biệt tích sáu tháng liền) theo quy định của pháp luật tố tụng
dân sự. Xuất phát từ ý nghĩa của việc thông báo tìm kiếm là tìm kiếm nhằm xác định lại
lần cuối về tin tức người biệt tích trước khi Tòa án ra quyết định về số phận pháp lí của họ
đồng thời nâng cao tính xác thực, khách quan, chính xác trong quyết định của Tòa án nên
đó là thủ tục bắt buộc khi Tòa án giải quyết yêu cầu tuyên bố một người mất tích.Vì vậy,
khi giải quyết yêu cầu tuyên bố một người đã chết mà chưa thông qua thủ tục tuyên bố
mất tích ( đối với các trường hợp quy định tại điểm b, điểm c và điểm d khoản 1 Điều 71
5


BLDS năm 2015) thì thông báo tìm kiếm cũng là thủ tục bắt buộc. Đối với trường hợp
người đã bị tuyên bố mất tích nhưng sau ba năm kể từ ngày quyết định tuyên bố mất tích
của Tòa án có hiệu lực pháp luật mà vẫn không có tin tức gì để xác định người đó còn
sống và có yêu cầu tuyên bố người đó đã chết thì vẫn phải tiến hành thông báo thủ tục tìm
kiếm. Vì có thể có trường hợp, trong khoảng thời gian ba năm đó rất có thể người bị Tòa
án tuyên bố mất tích xuất hiện nhưng vì lí do nào đó mà họ và những người liên quan
không yêu cầu Tòa án hủy tuyên bố mất tích ( Ví dụ như trường hợp cá nhân liên quan

biết người bị tuyên bố mất tích xuất hiện nhưng giấu diếm , để khi tuyên bố chết không
phải ính lại thời hạn khi người đó xuất hiện nhằm mục đích hưởng thừa kế. Việc thông
báo phải diễn ra công khai trên các phương tiện thông tin đại chúng, báo đài…
Tóm lại có thể thấy được việc thông báo tìm kiếm là thủ tục bắt buộc nếu muốn
tuyên bố một cá nhân chết khi chưa qua thủ tục tuyên bố mất tích là bắt buộc. Đối với
người đã tuyên bố mất tích, sau ba năm, kể từ ngày quyết định tuyên bố mất tích của Tòa
án có hiệu lực pháp luật mà vẫn không có tin tức còn sống thì BLDS không quy định có
bắt buộc phải thông qua thủ tục thông báo tìm kiếm hay không. Tuy nhiên để đảm bảo cho
sự khách quan, chính xác thì theo quan điểm của cá nhân em, việc thông báo tìm kiếm rất
cần thiết và nên tiến hành để tránh một số trường hợp đã nêu ở trên.
Thứ ba phải có yêu cầu của người có quyền và lợi ích liên quan:
Tại khoản 1, Điều 71 BLDS 2015 đã quy định về việc tuyên bố một người đã chết,
trong đó có điều kiện về việc phải có người có quyền, lợi ích liên quan yêu cầu và phải
thỏa mãn các điều kiện nhất định thì Tòa án mới có thể ra quyết định tuyên bố mất tích : “
Người có quyền, lợi ích liên quan có thể yêu cầu Tòa án ra quyết định tuyên bố một người
đã chết trong các trường hợp sau đây :…” Tính tới thời điểm hiện tại, Bộ luật Dân sự chưa
có giải thích cụ thể thế nào là người có quyền, lợi ích liên quan. Tuy nhiên, chúng ta có
thể hiểu : Người có quyền, lợi ích liên quan là người có mối quan hệ nào đó với người bị
yêu cầu tuyên bố đã chết hoặc mất tích (quan hệ dân sự, quan hệ lao động, quan hệ hôn
nhân gia đình, và lợi ích của họ trực tiếp bị ảnh hưởng trong trường hợp cá nhân vắng
mặt. Như chúng ta đã biết, khi một cá nhân bị tuyên bố chết thì đồng nghĩa với việc đó tư
cách chủ thể của họ bị chấm dứt hoàn toàn. Việc đó sẽ tác động trực tiếp đến những người
6


có liên quan với họ về quyền lợi, về nhân thân. Việc một người vắng mặt quá lâu cũng có
ảnh hưởng không nhỏ đến những người đó.
3.

Hậu quả pháp lý của việc tuyên bố cá nhân chết:

Khi quyết định tuyên bố chết đối với cá nhân của Tòa án có hiệu lực thì cá nhân đó

xem như đã chết. Lúc này, kéo theo việc “ chết về mặt pháp lí” của cá nhân là hàng loạt
các vấn đề khác, liên quan đến tư cách chủ thể của người bị tuyên bố chết, liên quan đến
các vấn đề xung quanh quan hệ nhân thân và quan hệ tài sản của người đó…Cụ thể là :
Về tư cách chủ thể:
Trong trường hợp quyết định tuyên bố chết của Tòa án đối với một cá nhân có hiệu
lực thì thì tư cách chủ thể của cá nhân đó chấm dứt hoàn toàn. Điều này có nghĩa là, tính
từ thời điểm quyết định của Tòa án có hiệu lực thì cá nhân đó không thể tham gia vào bất
cừ quan hệ dân sự nào với tư cách là một chủ thể của quan hệ đó, từ quan hệ tài sản, quan
hệ nhân thân, các giao dịch dân sự,…Đây là điểm khác so với tuyên bố mất tích: nếu một
người bị tuyên bố mất tích thì tư cách chủ thể của họ không bị chấm dứt mà chỉ bị tạm
dừng.
Về quan hệ nhân thân:
Quan hệ hôn nhân, gia đình và các quan hệ khác về nhân thân của người đó được giải
quyết như đối với người đã chết và theo quy định của Bộ luật dân sự, Luật hôn nhân và
gia đình. Trong trường hợp này, quan hệ hôn nhân của cá nhân bị tuyên bố chết chấm dứt.
Các quan hệ nhân thân khác cũng chấm dứt tương tự. Nếu vợ hoặc chồng của cá nhân bị
tuyên bố chết kết hôn với người khác thì việc kiết hôn đó vẫn có hiệu lực pháp luật.Các
quan hệ nhân thân khác như các quan hệ về tên gọi, danh dự, nhân phẩm của cá nhân hay
các quan hệ nhân thân gắn với tài sản như quyền tác giả về tá phẩm văn học nghệ thuật,
quyền tác giả về phát minh sáng chế…cũng được giải quyết như đối với người đã chết,
tức là chấm dứt các quan hệ đó.
Về quan hệ tài sản :

7


Cũng được và tuyên bố như đối với người đã chết được giải quyết theo quy định của
pháp luật về thừa kế theo quy định của Bộ luật dân sự, Luật hôn nhân và gia đình. Tức là,

khi quyết định tuyên bố chết đối với một cá nhân của Tòa án có hiệu lực, thì thời điểm đó
cũng là thời điểm mở thừa kế.Khoản 1, Điều 611 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định : “
Thời điểm mở thừa kế là thời điểm người có tài sản chết. Trong trường hợp Tòa án tuyên
bố một người là đã chết thì thời điểm mở thừa kế là ngày được xác định tại khoản 2 Điều
71 của Bộ luật này”.Đồng thời với việc này, cũng là thời điểm phát sinh các quyền và
nghĩa vụ của người thừa kế. Như vậy, nếu như người bị tuyên bố chết có di chúc hợp
pháp, thì tài sản họ để lại được chia theo di chúc. Trường hợp không có di chúc hoặc rơi
vào một số trường hợp đặc biệt của Điều 650 của Bộ luật Dân sự thì di sản người chêt để
lại được chia theo pháp luật. Đồng thời, đây cũng là thời điểm mà những người thừa kế
thực hiện nghĩa vụ của mình nếu người chết yêu cầu. Trong trường hợp người bị tuyên bố
chết chưa giải quyết xong nghĩa vụ tài sản với chủ thể nào đó, thì những người thừa kế
phải thực hiện nghĩa vụ đó trong phạm vi tài sản của người bị tuyên bố chết để lại.
Như vậy, ta có thể thấy được, khi một cá nhân bị tuyên bố chết, sẽ dẫn đến rất nhiều
hậu quả pháp lí khác nhau, liên quan trực tiếp đến lợi ích của nhiều chủ thể khác. Chính vì
vậy, khi Tòa án ra quyết định tuyên bố một cá nhân chết, thì phải xem xét trên nhiều khía
cạnh, các điều kiện khác nhau. Tuy nhiên, chúng ta vẫn không thể loại trừ trường hợp vì
nhầm lẫn sai sót hay vì một nguyên nhân khách quan nào đó mà sau khi quyết định của
Tòa án có hiệu lực, thì người bị tuyên bố chết quay trở về.Thực tế nhiều vụ việc đã xảy ra
như vậy và trong trường hợp này, mọi điều sẽ trở nên vô cùng phức tạp.Dự đoán trước
được điều đó, các nhà làm luật đã quy định trong Bộ luật Dân sự về cách thức giải quyết
vấn đề trên.
4.

Hủy bỏ quyết định tuyên bố chết và hậu quả pháp lý theo quy định của

BLDS 2015:
Bộ luật Dân sự đã dự định trước cách giải quyết các vấn đề khi người bị tuyên bố
chết trở về. Tòa án ra quyết định tuyên bố là đã chết với cá nhân thì cái chết đó chỉ là cái
chết mang tính ‘‘suy đoán pháp lý’’. Do đó, sự suy đoán này có thể chính xác, có thể


8


không chính xác. Trường hợp Tòa án ra quyết định huỷ bỏ quyết định tuyên bố là đã chết
sẽ đem lại hậu quả pháp lý sau đây (Theo Điều 73 Bộ luật dân sự năm 2015):
1. Khi một người bị tuyên bố là đã chết trở về hoặc có tin tức xác thực là người đó
còn sống thì theo yêu cầu của người đó hoặc của người có quyền, lợi ích liên quan, Tòa án
ra quyết định hủy bỏ quyết định tuyên bố người đó là đã chết
2. Quan hệ nhân thân của người bị tuyên bố là đã chết được khôi phục khi Tòa án ra
quyết định hủy bỏ quyết định tuyên bố người đó là đã chết, trừ các trường hợp sau đây:
a. Vợ hoặc chồng của người bị tuyên bố là đã chết đã được tòa án cho li hôn theo
quy định tại khoản 2 Điều 78 của Bộ luật này thì quyết định cho li hôn vẫn có hiệu lực
pháp luật
b. Vợ hoặc chồng của người bị tuyên bố là đã chết đã kết hôn với người khác thì
việc kết hôn đó vẫn có hiệu lực pháp luật”
3. Người bị tuyên bố là đã chết mà còn sống có quyền yêu cầu những người đã nhận
tài sản thừa kế trả lại tài sản, giá trị tài sản hiện còn
Trường hợp người thừa kế của người bị tuyên bố là đã chết biết người này còn sống mà cố
tình giấu giếm nhằm hưởng thừa kế thì người đó phải hoàn trả toàn bộ tài sản đã nhận, kể
cả hoa lợi, lợi tức; nếu gây thiệt hại thì phải bồi thường
4. Quan hệ tài sản giữa vợ và chồng được giải quyết theo quy định của Bộ luật này,
Luật hôn nhân và gia đình.
5. Quyết định của Tòa án hủy bỏ quyết định tuyên bố một người là đã chết phải được
gửi cho Ủy ban nhân dân cấp xã nơi cư trú của người bị tuyên bố là đã chết để ghi chú
theo quy định của pháp luật về hộ tịch.
Điều luật này quy định việc giải quyết hậu quả pháp lí khi cá nhân trở về như sau:
Thứ nhất, đối với tư cách chủ thể, quyết định tuyên bố chết với cá nhân bị hủy bỏ và
quan hệ nhân thân được khôi phục.
9



Thứ hai, về quan hệ hôn nhân, quyết định cho hôn nhân (nếu có) vẫn có hiệu lực và
nếu phía đỗi ngẫu đã có cuộc hôn nhân mới thì cuộc hôn nhân mới đó vẫn có hiệu lực.
Thứ ba, về khôi phục tài sản, người thừa kế sẽ phải trả lại tài sản thừa kế và tài sản
hiện còn, nếu người thừa kế biết thông tin xác thực người bị tuyên bố là đã chết vẫn còn
sống mà cố tình giấu giếm để được hưởng lợi ích thì sẽ phải trả lại toàn bộ tài sản (bao
gồm cả hoa lợi, lợi tức).
Như vậy, chúng ta có thể thấy được, điều luật trên vừa bảo vệ quyền lợi của người bị
tuyên bố chết nhưng còn sống với việc đưa ra những giải pháp áp dụng với từng quan hệ
cụ thể trong thực tế, vừa bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người có quan hệ hôn nhân
trước đây với người đó. Ta có thể thấy được, theo quy định của điều luật trên, người bị
tuyên bố chết khi trở về có thể tự mình yêu cầu Tòa án hủy bỏ quyết định tuyên bố đã chết
với bản thân hoặc thông qua những người có quyền, lợi ích liên quan yêu cầu Tòa án làm
việc đó.Khi đó, các quan hệ nhân thân, tư cách chủ thể,… của người đó sẽ được khôi
phục. Trong quan hệ hôn nhân, nếu vợ hoặc chồng của người bị tuyên bố chết chưa kết
hôn với người khác thì mối quan hệ vợ chồng đó hiển nhiên được khôi phục. Về mặt tài
sản, người đó có quyền lấy lại tài sản của mình từ những người thừa kế.
II. Các quy định pháp luật có liên quan:
Việc Tòa án tuyên bố một cá nhân chết là để đảm bảo việc thực hiện một số hoạt
động quản lý xã hội như vấn đề hộ tịch, bên cạnh đó còn giải quyết những vấn đề xoay
quanh cá nhân này, như việc chia tài sản, thu hồi nợ từ tài sản của người bị tuyên bố là đã
chết để lại, hay về một số quan hệ hôn nhân… Trong quan hệ dân sự, mối quan hệ về
quyền và nghĩa vụ dân sự giữa các cá nhân gắn bó chặt chẽ với nhau. Do đó, quyết định
tuyên bố một cá nhân chết thường đi đôi với các quan hệ về tài sản và hôn nhân. Chúng ta
cùng tìm hiểu một số quy định trong xác định tài sản của cá nhân, về hàng thừa kế để xác
định người thừa kế tài sản khi cá nhân bị tuyên bố chết trong Bộ luật dân sự 2015 và Luật
hôn nhân gia đình 2014:
Điều 651 BLDS 2015. Người thừa kế theo pháp luật
1. Những người thừa kế theo pháp luật được quy định theo thứ tự sau đây:
10



a) Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ,
con nuôi của người chết;
b) Hàng thừa kế thứ hai gồm: ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, anh ruột, chị ruột,
em ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là ông nội, bà nội, ông
ngoại, bà ngoại;
c) Hàng thừa kế thứ ba gồm: cụ nội, cụ ngoại của người chết; bác ruột, chú ruột, cậu
ruột, cô ruột, dì ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là bác ruột,
chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột; chắt ruột của người chết mà người chết là cụ nội, cụ
ngoại.
2. Những người thừa kế cùng hàng được hưởng phần di sản bằng nhau.
3. Những người ở hàng thừa kế sau chỉ được hưởng thừa kế, nếu không còn ai ở
hàng thừa kế trước do đã chết, không có quyền hưởng di sản, bị truất quyền hưởng di sản
hoặc từ chối nhận di sản.
Điều 655. Việc thừa kế trong trường hợp vợ, chồng đã chia tài sản chung; vợ, chồng
đang xin ly hôn hoặc đã kết hôn với người khác:
1. Trường hợp vợ, chồng đã chia tài sản chung khi hôn nhân còn tồn tại mà sau đó
một người chết thì người còn sống vẫn được thừa kế di sản.
2. Trường hợp vợ, chồng xin ly hôn mà chưa được hoặc đã được Tòa án cho ly hôn
bằng bản án hoặc quyết định chưa có hiệu lực pháp luật, nếu một người chết thì người còn
sống vẫn được thừa kế di sản.
3. Người đang là vợ hoặc chồng của một người tại thời điểm người đó chết thì dù sau
đó đã kết hôn với người khác vẫn được thừa kế di sản.
Điều 43 Luật HNGĐ 2014. Tài sản riêng của vợ, chồng:
1. Tài sản riêng của vợ, chồng gồm tài sản mà mỗi người có trước khi kết hôn; tài sản
được thừa kế riêng, được tặng cho riêng trong thời kỳ hôn nhân; tài sản được chia riêng
cho vợ, chồng theo quy định tại các điều 38, 39 và 40 của Luật này; tài sản phục vụ nhu
11



cầu thiết yếu của vợ, chồng và tài sản khác mà theo quy định của pháp luật thuộc sở hữu
riêng của vợ, chồng.
2. Tài sản được hình thành từ tài sản riêng của vợ, chồng cũng là tài sản riêng của vợ,
chồng. Hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng trong thời kỳ hôn nhân được thực hiện
theo quy định tại khoản 1 Điều 33 và khoản 1 Điều 40 của Luật này.
Điều 67 Luật HNGĐ 2014. Quan hệ nhân thân, tài sản khi vợ, chồng bị tuyên bố là
đã chết mà trở về:
1. Khi Tòa án ra quyết định hủy bỏ tuyên bố một người là đã chết mà vợ hoặc chồng
của người đó chưa kết hôn với người khác thì quan hệ hôn nhân được khôi phục kể từ thời
điểm kết hôn. Trong trường hợp có quyết định cho ly hôn của Tòa án theo quy định tại
khoản 2 Điều 56 của Luật này thì quyết định cho ly hôn vẫn có hiệu lực pháp luật. Trong
trường hợp vợ, chồng của người đó đã kết hôn với người khác thì quan hệ hôn nhân được
xác lập sau có hiệu lực pháp luật.
2. Quan hệ tài sản của người bị tuyên bố là đã chết trở về với người vợ hoặc chồng
được giải quyết như sau:
a) Trong trường hợp hôn nhân được khôi phục thì quan hệ tài sản được khôi phục kể
từ thời điểm quyết định của Tòa án hủy bỏ tuyên bố chồng, vợ là đã chết có hiệu lực. Tài
sản do vợ, chồng có được kể từ thời điểm quyết định của Tòa án về việc tuyên bố chồng,
vợ là đã chết có hiệu lực đến khi quyết định hủy bỏ tuyên bố chồng, vợ đã chết có hiệu lực
là tài sản riêng của người đó;
b) Trong trường hợp hôn nhân không được khôi phục thì tài sản có được trước khi
quyết định của Tòa án về việc tuyên bố vợ, chồng là đã chết có hiệu lực mà chưa chia
được giải quyết như chia tài sản khi ly hôn.”

12


III. Nhận xét về những quy định của pháp luật hiện hành quy định về tuyên bố chết
và một số hạn chế, giải pháp hoàn thiện những quy định trong việc tuyên bố cá nhân

chết:
Trong thực tế có nhiều trường hợp mà cá nhân vắng mặt quá lâu ngày mà không thể
xác định được là họ còn sống hay đã chết. Tình trạng này làm gián đoạn các quan hệ mà
họ đang tham gia và ảnh hưởng tới quyền lợi của chính họ cũng như quyền và lợi ích hợp
pháp của những người có liên quan. Vì vậy, pháp luật dân sự Việt Nam với những điều
khoản quy định việc tuyên bố một người là đã chết nhằm duy trì trật tự các quan hệ pháp
luật hoặc chấm dứt một số quan hệ pháp luật mà người tham gia đã vắng mặt quá lâu
ngày, góp phần bảo vệ quyền và lợi ích của các chủ thể. Hiện nay các quy định về vấn đề
tuyên bố chết đã phát huy được hiệu quả trong thực tế, những quy định này vẫn còn một
số điểm thiếu sót và chưa hợp lý, có thể kể đến như sau:
Tuyên bố cá nhân chết là việc diễn ra phổ biến trong xã hội hiện nay. Tuy pháp luật
đã có sự quy định tương đối rõ ràng về vấn đề này, nhưng khi áp dụng trong thực tế vẫn
gặp không ít khó khăn và có một số sai phạm, điều đó đã dẫn đến những hậu quả pháp lí
không đáng có. Tuy nhiên những quy định này vẫn còn một số điểm thiếu sót và chưa hợp
lý như sau:
Thứ nhất, điểm bất cập ở (khoản 2 Điều 73 BLDS 2015) đó chính là chỉ khi tòa án ra
quyết định hủy bỏ quyết định tuyên bố là đã chết thì “các quan hệ nhân thân” của người bị
tuyên bố là đã chết mới được khôi phục là bất hợp lý. Vì tại thời điểm người bị tuyên bố là
đã chết xuất hiện thì các quyền nhân thân hợp pháp của họ đã đương nhiên được khôi
phục, đồng thời họ phải chịu trách nhiệm với những hành vi của chính mình. Chính vì vậy
cần khắc phục những lỗ hỏng này bằng việc đó là phải khôi phục các quan hệ nhân thân
sau khi biết tin người đó còn sống bằng việc gởi cho Ủy ban nhân dân cấp xã nơi cư trú về
tin tức người đó.
Thứ hai, cần bổ sung thêm những quy định về tuyên bố một người không có thật là
đã chết như đã nêu ở vụ việc thứ 3. Bởi lẽ, tình trạng này vẫn đang còn tồn tại không ít
trên thực tế nước ta. Để đảm bảo quyền lợi của những người liên quan trong những vụ
13


việc như vậy, chúng ta cần có những bổ sung nhất định và đồng bộ vào hệ thống pháp luật

hiện hành.
Thứ ba, tuyên bố là đã chết đối với người không nằm trong tình trạng bị truy nã hình
sự theo lệnh của cơ quan điều tra. Trên thực tế, nhiều vụ việc tuyên bố chết gây rất nhiều
khó khăn cho Tòa án, bởi lẽ, một người đang bị truy nã hình sự, nhưng nếu tuyên bố
người đó chết để bảo vệ quyền lợi hợp pháp của họ và những người liên quan (như người
vợ (hoặc chồng) muốn ly hôn chẳng hạn) thì vụ án hình sự sẽ phải đình chỉ và lệnh truy nã
sẽ mất hiệu lực, chẳng hạn như tội phạm truy nã hay bỏ trốn đi khỏi nước để trốn tội và
sau thời hạn truy tố trách nhiệm hình sự lại trở về đồng thời gây ra nhiều trở ngại đối với
quá trình điều tra khởi tố vụ án. Giải pháp đặt ra đó là chỉ tuyên bố là đã chết đối với
những người không nằm trong tình trạng phạm tội truy nã.
IV. So sánh và nêu ra một số điểm mới của BLDS 2015 so với BLDS 2005:
1. Về quyết định tuyên bố chết:
Về cơ bản, điều kiện tuyên bố một cá nhân chết của BLDS 2015 không có gì khác so
với BLDS 2005, chỉ bổ sung ở một điểm như sau:
Khoản 3 Điều 71 BLDS 2015: Quyết định của Tòa án tuyên bố một người là đã chết
phải được gửi cho Ủy ban nhân dân cấp xã nơi cư trú của người bị tuyên bố là đã chết để
ghi chú theo quy định của pháp luật về hộ tịch.
2. Về hủy bỏ quyết định tuyên bố chết:
So với BLDS 2005, BLDS 2015 có bổ sung hai điểm mới sau:
Khoản 4 Điều 73 BLDS 2015: Quan hệ tài sản giữa vợ và chồng được giải quyết
theo quy định của Bộ luật này, Luật hôn nhân và gia đình.
Khoản 5 Điều 73 BLDS 2015: Quyết định của Tòa án hủy bỏ quyết định tuyên bố
một người là đã chết phải được gửi cho Ủy ban nhân dân cấp xã nơi cư trú của người bị
tuyên bố là đã chết để ghi chú theo quy định của pháp luật về hộ tịch

14


C. KẾT LUẬN:
Như vậy, có thể thấy, tuyên bố chết, tuyên bố chết là một chế định đặc biệt của Luật

Dân sự nhằm bảo vệ quyền lợi của cá nhân cũng như của các chủ thể có liên quan. Chế
định này đã được quy định khá cụ thể trong Bộ luật Dân sự 2015 nhưng do sự phức tạp và
biến đổi nhanh chóng của các quan hệ xã hội nên không tránh khỏi những vướng mắc, cần
được nghiên cứu để được sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với tình hình thực tiễn. Do đó,
pháp luật cần phải có những quy định chặt chẽ, rõ ràng và trình tự tiến hành phải phù hợp
trong quá trình xác minh sự tồn tại của một cá nhân cũng như việc giải quyết hậu quả
pháp lý sau đó để đảm bảo được những quyền và lợi ích của con người.
Bài tiểu luận là những đánh giá quan điểm của cá nhân em dựa trên cơ sở những
nghiên cứu của bản thân về vấn đề: Điều kiện và hậu quả pháp lý của việc tuyên bố cá
nhân là đã chết theo pháp luật dân sự Việt Nam. Trong khi thực hiện không tránh được sai
sót, kính mong quý thầy cô góp ý thêm để được hoàn chỉnh hơn.

15


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Bộ luật dân sự năm 2015, Nhà xuất bản Lao động
2. Vũ Thị Hồng Vân, Giáo trình Luật dân sự Việt Nam (tập 1), Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2016.
3. Luật Hôn nhân gia đình 2014, Nhà xuất bản Tư pháp.
4. Nghị quyết 03/HĐTP ngày 19/10/1990 của Tòa án nhân dân tối cao.
5. />6. />
16



×