Tải bản đầy đủ (.doc) (10 trang)

bài tập học kỳ tố tụng dân 9đ đề tài vấn đề thay đổi, bổ sung yêu cầu của đương sự ở toà án cấp sơ thẩm, phúc thẩm và kiến nghị nhằm hoàn thiện vấn đề

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (94.35 KB, 10 trang )

Bài tập lớn học kì

MỤC LỤC

TỪ VIẾT TẮT
BLTTDS: Bộ luật tố tụng dân sự
TTDS: Tố tụng dân sự
HĐXX: Hội đồng xét xử

1
Sinh viên: phạm văn lượng


Bài tập lớn học kì

A.

LỜI MỞ ĐẦU

Trong tố tụng dân sự, một trong những nguyên tắc cơ bản là “quyền quyết
định và tự định đoạt của đương sự”, quy định tại Điều 5 BLTTDS: “Đương sự
có quyền quyết định việc khởi kiện, yêu cầu toà án có thẩm quyền giải quyết vụ
việc dân sự khi có đơn khởi kiện, đơn yêu cầu giải quyết vụ việc của đương sự
và chỉ giải quyết trong phạm vi đơn khởi kiện, đơn yêu cầu đó. Trong quá trình
giải quyết vụ viêc dân sự, các dân sự có quyên chấm dứt, thay đổi yêu cầu của
mình hoặc thoả thuận với nhau một cách tự nguyện, không trái pháp luật và đạo
đức xã hội ”. Như vậy đương sự có quyền thay đổi những yêu cầu của mình.
Đây cũng chính là một vấn đề quan trọng trong tố tụng dân sự. Để tìm hiểu kĩ về
vấn đề thay đổi quyền yêu cầu này tại tòa án cấp sơ thẩm cũng như phúc thẩm,
em xin lựa chọn đề tài số 17:“Vấn đề thay đổi, bổ sung yêu cầu của đương sự
ở toà án cấp sơ thẩm, phúc thẩm và kiến nghị nhằm hoàn thiện vấn đề này.”



B. NỘI DUNG
I. Lí luận chung về vấn đề thay đổi bổ sung yêu cầu của đương sự
Trước hết, có thể hiểu thay đổi yêu cầu là việc sửa đổi yêu cầu mà đương sự
đã đưa ra ban đầu còn bổ sung là việc đương sự thêm các yếu tố cần thiết để yêu
cầu ban đầu trở nên đầy đủ. Việc thay đổi, bổ sung yêu cầu phải thể hiện dưới
dạng hình thức và theo trình tự do pháp luật quy định.
Cơ sở pháp lý của quy định về việc thay đổi, bổ sung yêu cầu của đương sự
ở tòa án sơ thẩm, phúc thẩm là nguyên tắc quyền tự định đoạt của đương sự.
Quyền tự định đoạt của đương sự là quyền của đương sự trong việc tự quyết
định về quyền, lợi ích của họ và lựa chọn biện pháp pháp luật cần thiết để bảo vệ
quyền, lợi ích đó. Nội dung của nguyên tắc quyền tự định đoạt của đương sự xác
định quyền của đương sự tự quyết định về việc tham gia tố tụng dân sự, tự quyết
định về việc tham gia tố tụng dân sự, tự quyết định quyền và lợi ích của họ trong
tố tụng dân sự theo quy định của pháp luật và trách nhiệm của tòa án giải quyết
trong phạm vi yêu cầu của đương sự, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.
Trong đó, các đương sự có quyền thay đổi, bổ sung yêu cầu của mình một cách
tự nguyện, không trái với các quy định của pháp luật và đạo đức xã hội.
2
Sinh viên: phạm văn lượng


Bài tập lớn học kì

Cơ sở thực tiễn của quy định về việc thay đổi, bổ sung yêu cầu của đương sự
ở tòa án sơ thẩm, phúc thẩm là trong quá trình Tòa án xem xét, giải quyết tranh
chấp phát sinh trong đời sống xã hội thì các đương sự yêu cầu thì có thể có
nhiều nguyên nhân khác nhau như sự việc có biến chuyển, các bên thỏa thuận
được với nhau một số hoặc toàn bộ vấn đề tranh chấp hoặc có các tác động khác
dẫn đến việc thay đổi mong muốn của người đã yêu cầu và họ đưa ra yêu cầu

thay đổi, bổ sung các yêu cầu đó. Vì vậy, pháp luật tố tụng dân sự ghi nhận
quyền được thay đổi, bổ sung yêu cầu của đương sự ở tòa án sơ thẩm, tòa án
phúc thẩm.

II. Quy định của pháp luật về thay đổi, bổ sung yêu cầu của đương
sự ở tòa án cấp sơ thẩm và phúc thẩm
1. Quy định của pháp luật về thay đổi, bổ sung yêu cầu của đương sự ở
tòa án cấp sơ thẩm
Căn cứ vào nguyên tắc tự định đoạt của đương sự quy định tại Điều 5
BLTTDS thì đương sự có quyền tự quyết định việc khởi kiện vụ án dân sự yêu
cầu tòa án có thẩm quyền giải quyết. Tòa án chỉ thụ lý vụ án dân sự khi có đơn
khởi kiện của đương sự và tòa án chỉ giải quyết trong phạm vi yêu cầu của đơn
khởi kiện. Theo đó, cũng dựa vào nguyên tắc này, pháp luật quy định cho đương
sự quyền thay đổi, bổ sung hoặc rút các yêu cầu của các đương sự ở phiên tòa
công khai. Có thể khái quát chung về những quy định của pháp luật về vấn đề
thay đổi, bổ sung yêu cầu của đương sự ở tòa án sơ thẩm thông qua các nội dung
sau:
Thứ nhất, về chủ thể có quyền đề nghị thay đổi, bổ sung yêu cầu tại phiên
tòa sơ thẩm:
Nhìn chung những chủ thể tham gia vào quá trình giải quyết vụ án dân sự có
quyền thay đổi, bổ sung yêu cầu của mình phù hợp với yêu cầu của pháp luật.
Tuy nhiên, để tạo điều kiện thuận lợi cho các chủ thể tham gia TTDS thực hiện
một cách có hiệu quả quyền tự định đoạt của mình, pháp luật TTDS quy định cụ
thể tại các chủ thể có quyền đề nghị thay đổi, bổ sung yêu cầu của họ như sau:
- Nguyên đơn có quyền đề nghị thay đổi, bổ sung yêu cầu khởi kiện của họ.
- Bị đơn có quyền đề nghị thay đổi, bổ sung yêu cầu phản tố của họ.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập có quyền đề
nghị thay đổi, bổ sung yêu cầu độc lập của họ.
3
Sinh viên: phạm văn lượng



Bài tập lớn học kì

Vấn đề này được quy định một cách gián tiếp tại Điều 217 BLTTDS như
sau:
“Thủ tục hỏi được bắt đầu bằng việc chủ toạ phiên toà hỏi đương sự về các
vấn đề sau đây:
1. Hỏi nguyên đơn có thay đổi, bổ sung, rút một phần hoặc toàn bộ yêu cầu
khởi kiện hay không;
2. Hỏi bị đơn có thay đổi, bổ sung, rút một phần hoặc toàn bộ yêu cầu phản
tố hay không;
3. Hỏi người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập có thay
đổi, bổ sung, rút một phần hoặc toàn bộ yêu cầu độc lập hay không.”
Một vấn đề cần lưu ý đối với quy định về chủ thể có quyền đề nghị thay đổi
bổ sung yêu cầu đó là theo quy định tại khoản 3, 4 Điều 61 BLTTDS thì người
có quyền và nghĩa vụ liên quan nếu tham gia tố tụng với bên nguyên đơn hoặc
chỉ có quyền lợi thì có những quyền hạn được quy định tại Điều 59 của luật này,
tức là cũng đồng thời có quyền đề nghị thay đổi , bổ sung yêu cầu khởi kiện;
người có quyền và nghĩa vụ liên quan nếu tham gia tổ tụng với bên bị đơn hoặc
chỉ có nghĩa vụ thì có những quyền hạn quy định tại Điều 60 của luật này, cũng
có nghĩa họ có quyền đề nghị thay đổi, bổ sung yêu cầu phản tố. Do đó, khi xem
xét về chủ thể có quyền đề nghị cần lưu ý cả vấn đề nêu trên.
Thứ hai, về giới hạn của việc thay đổi, bổ sung yêu cầu của đương sự:
Việc pháp luật quy định cho các đương sự có quyền tự quyết trong một số
trường hợp cụ thể, đặc biệt là quyền đề nghị thay đổi, bổ sung yêu cầu của chính
họ là nhằm hỗ trợ cho các chủ thể đó có thể thực hiện hiệu quả quyền lợi của
mình. Tuy nhiên, để tăng cường hiệu quả hoạt động xét xử các vụ án dân sự
cũng như đảm bảo khuôn khổ hợp lý cho các đương sự thực hiện quyền của
mình trong vấn đề này, pháp luật TTDS cũng quy định khá cụ thể giới hạn của

việc thay đổi, bổ sung yêu cầu của đương sự tại phiên tòa sơ thẩm. Theo đó, việc
thay đổi, bổ sung yêu cầu của đương sự tại phiên tòa chỉ được HĐXX chấp nhận
nếu việc thay đổi, bổ sung yêu cầu của họ không vượt quá phạm vi yêu cầu khởi
kiện, yêu cầu phản tố hoặc yêu cầu độc lập ban đầu được thể hiện trong đơn
khởi kiện của nguyên đơn, đơn phản tố của bị đơn, đơn yêu cầu độc lập của
người có quyền và nghĩa vụ liên quan (khoản 1, Điều 218 BLTTDS). Quy định hạn

4
Sinh viên: phạm văn lượng


Bài tập lớn học kì

chế như vậy để tránh việc đương sự lạm dụng quyền thay đổi yêu cầu gây ra khó
khăn, rắc rối cho Tòa án trong việc giải quyết vụ việc dân sự.
Bên cạnh đó, pháp luật cũng quy định hình thức thay đổi, bổ sung yêu cầu
của đương sự phải được ghi vào biên bản phiên toà. Trong trường hợp HĐXX
chấp nhận yêu cầu thay đổi, bổ sung của đương sự, thì phải ghi trong bản án.
2. Quy định của pháp luật về thay đổi, bổ sung yêu cầu của đương sự ở
tòa án cấp phúc thẩm
Phúc thẩm dân sự thực chất là việc tòa án cấp trên trực tiếp xét xử lại vụ án
mà bản án, quyết định của tòa án cấp sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật bị
kháng cáo, kháng nghị. Điều này có thể khẳng định việc xét xử phúc thẩm vụ án
dân sự hoàn toàn dựa trên cơ sở kháng cáo của đương sự về vụ án hoặc kháng
nghị của Viện kiểm soát về vấn đề này. Phạm vi bài viết sẽ chỉ đề cập đến kháng
cáo của đương sự. Có thể khái quát chung về các quy định của pháp luật về việc
thay đổi, bổ sung kháng cáo của đương sự theo các nội dung sau đây:
Thứ nhất, về chủ thể có quyền đề nghị thay đổi, bổ sung kháng cáo:
Theo quy định tại khoản 1, Điều 256 BLTTDS thì chủ thể có quyền kháng
cáo cũng đồng thời có quyền đề nghị thay đổi, bổ sung kháng cáo của mình

trước khi bắt đầu phiên tòa hoặc tại phiên tòa phúc thẩm. Theo quy định tại Điều
243 của luật này quy định những chủ thể có quyền kháng cáo như sau: “Đương
sự, người đại diện của đương sự, cơ quan, tổ chức khởi kiện có quyền làm đơn
kháng cáo bản án, quyết định tạm đình chỉ, đình chỉ giải quyết vụ án của Toà án
cấp sơ thẩm để yêu cầu Toà án cấp trên trực tiếp giải quyết lại theo thủ tục phúc
thẩm.”
Như vậy, chủ thể đề cập tại Điều 243 BLTTDS cũng chính là những chủ thể
có quyền đề nghị thay đổi, bổ sung kháng cáo của đương sự.
Thứ hai, về giới hạn của việc thay đổi, bổ sung kháng cáo của đương sự:
Giới hạn của việc thay đổi, bổ sung kháng cáo của đương sự được quy định
tại khoản 1, điều 256 BLTTDS và nghị quyết số 05/2006/NQ – HĐTP ngày
04/08/2006 hướng dẫn thi hành một số quy định trong phần thứ ba “Thủ tục giải
quyết vụ án tại tòa án cấp phúc thẩm” của BLTTDS như sau:
- Trong trường hợp vẫn còn thời hạn kháng cáo quy định tại Điều 245 và
Điều 252 của BLTTDS, thì người kháng cáo có quyền thay đổi, bổ sung nội

5
Sinh viên: phạm văn lượng


Bài tập lớn học kì

dung kháng cáo đối với phần bản án hoặc toàn bộ bản án mà mình có quyền
kháng cáo.
- Trong trường hợp đã hết thời hạn kháng cáo theo quy định tại Điều 245 và
Điều 252 của BLTTDS, thì trước khi bắt đầu phiên toà hoặc tại phiên toà phúc
thẩm người kháng cáo có quyền thay đổi, bổ sung kháng cáo nhưng không được
vượt quá phạm vi kháng cáo đã gửi cho Toà án trong thời hạn kháng cáo.
Thứ ba, về hình thức thay đổi, bổ sung kháng cáo của đương sự:
Vấn đề này được quy định cụ thể tại khoản 3, Điều 256 BLTTDS:

- Việc thay đổi, bổ sung kháng cáo trước khi mở phiên tòa phải được làm
thành văn bản và gửi cho Tòa án cấp phúc thẩm. Tòa án cấp phúc thẩm phải
thông báo bằng văn bản về việc thay đổi, bổ sung kháng cáo đó cho các đương
sự biết, đồng thời tiến hành các công việc theo quy định của BLTTDS để mở
phiên tòa xét xử phúc thẩm vụ án theo thủ tục chung.
- Việc thay đổi, bổ sung kháng cáo tại phiên tòa phải được ghi vào biên bản
phiên tòa. Tòa án cấp phúc thẩm tiếp tục xét xử phúc thẩm vụ án theo thủ tục
chung đối với kháng cáo, kháng nghị đã được thay đổi, bổ sung và phần kháng
cáo còn lại.

III. Thực tiễn áp dụng những quy định của pháp luật về việc thay
đổi, bổ sung yêu cầu của đương sự ở tòa án cấp sơ thẩm và phúc
thẩm
Hiện nay, với những quy định khá chi tiết như trên về vấn đề thay đổi, bổ
sung yêu cầu của đương sự đã góp phần đảm bảo quyền của các đương sự khi
tham gia vào tố tụng dân sự, đồng thời đảm bảo nguyên tắc cơ bản của pháp luật
TTDS là quyền tự định đoạt của các chủ thể.
Tuy nhiên trong thực tiễn áp dụng những quy định này vẫn còn những điểm
hạn chế nhất định:
Thứ nhất, theo quy định về giới hạn của việc thay đổi, bổ sung yêu cầu của
đương sự tại phiên tòa sơ thẩm thì việc thay đổi này không được vượt quá phạm
vi yêu cầu khởi kiện, yêu cầu phản tố hoặc yêu cầu độc lập ban đầu được thể
hiện trong đơn khởi kiện của nguyên đơn, đơn phản tố của bị đơn, đơn yêu cầu
độc lập của người có quyền và nghĩa vụ liên quan. Tuy nhiên, pháp luật chưa
đưa ra được cách hiểu chung thống nhất về việc “vượt quá phạm vi yêu cầu ban
đầu” là như thế nào dẫn đến những quan điểm khác nhau trong việc áp dụng
6
Sinh viên: phạm văn lượng



Bài tập lớn học kì

như: có ý kiến cho rằng, theo quy định tại Điều 218 BLTTDS thì quyền thay đổi,
bổ sung yêu cầu của đương sự tại phiên toà bị hạn chế theo hướng rút bớt yêu
cầu thì được còn theo hướng thêm thì không được; nhưng có ý kiến khác lại cho
không được vượt quá yêu cầu khởi kiện, yêu cầu phản tố, yêu cầu độc lập ban
đầu là không được đưa thêm yêu cầu mới đồng thời không được tăng giá trị yêu
cầu, có nghĩa không được gây bất lợi cho các đương sự khác…Điều này gây
nhiều khó khăn cho việc thực hiện hiệu quả công tác xét xử vụ án dân sự cũng
như việc đảm bảo quyền lợi của các chủ thể tham gia quan hệ pháp luật TTDS.
Thứ hai, Điều 256 BLTTDS đã quy định về giới hạn của việc thay đổi, bổ
sung kháng cáo là không được vượt quá phạm vi kháng cáo ban đầu, nếu thời
hạn kháng cáo, kháng nghị đã hết. Việc quy định như vậy nhằm mục đích để các
đương sự có thể bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình đồng thời thực hiện
nghĩa vụ đối với đối phương để họ chuẩn bị tổ chức việc biện hộ sau khi đã biết
rõ thực trạng những nội dung kháng cáo, kháng nghị. Tuy nhiên, như thế nào là
không vượt quá phạm vi kháng cáo, kháng nghị ban đầu, điều này chưa được thể
hiện cụ thể bằng các quy định của pháp luật để tạo cơ sở pháp lý cần thiết cho
các chủ thể thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình một các hiệu quả.
Thứ ba, thủ tục thực hiện việc thay đổi, bổ sung yêu cầu của đương sự trong
giai đoạn chuẩn bị xét xử. Việc thay đổi, bổ sung yêu cầu của đương sự trước
khi mở phiên tòa không được pháp luật tố tụng dân sự hiện hành quy định cụ thể
và chỉ được ghi nhận trong đơn trình bày của đương sự hoặc biên bản lấy lời
khai. Trong khi đó, tại giai đoạn chuẩn bị xét xử phúc thẩm, việc đương sự sửa
đổi, bổ sung kháng cáo phải được lập thành văn bản và gửi tới Tòa án cấp phúc
thẩm. Quy định như thế là chưa thống nhất, gây khó khăn cho các bên liên quan
trong việc chuẩn bị các chứng cứ chứng minh, gây ảnh hưởng đến việc thực hiện
quyền tố tụng hợp pháp của đương sự.
Thứ tư, pháp luật chưa quy định cụ thể những hậu quả pháp lý phát sinh đối
với những trường hợp thay đổi, bổ sung yêu cầu của đương sự hay việc thay đổi,

bổ sung kháng cáo của người kháng cáo cũng là một bất cập lớn trong việc thực
hiện các quy định của pháp luật về vấn đề này.

7
Sinh viên: phạm văn lượng


Bài tập lớn học kì

IV.
Kiến nghị về việc hoàn thiện pháp luật điều chỉnh về vấn
đề thay đổi, bổ sung yêu cầu của đương sự trong phiên tòa sơ thẩm
và phúc thẩm
Mặc dù hiện nay BLTTDS đã được sửa đổi, bổ sung một số điều tuy nhiên
những vấn đề được sửa đổi không hề liên quan đến vấn đề thay đổi, bổ sung yêu
cầu của đương sự trong phiên tòa sơ thẩm và phúc thẩm. Để khắc phục những
hạn chế trong thực tiễn áp dụng các quy định về vấn đề thay đổi, bổ sung yêu
cầu của đương sự, dưới đây là một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về
vấn đề này như sau:
Một là, cần phải có những quy định cụ thể hơn về giới hạn của việc thay đổi,
bổ sung yêu cầu của đương sự hay thay đổi, bổ sung kháng cáo của người kháng
cáo. Pháp luật TTDS cần quy định rõ ràng hơn trường hợp đương sự thay đổi bổ
sung yêu cầu để đảm bảo tốt nhất quyền tự định đoạt của đương sự đồng thời
giúp cho việc tranh tụng tại phiên tòa diễn ra được hiệu quả. Quy định rõ thế nào
là yêu cầu ban đầu, phạm vi yêu cầu ban đầu, thế nào là không vượt quá phạm vi
yêu cầu ban đầu từ đó có được cách hiểu thống nhất giúp đương sự thực hiện
đúng quyền và nghĩa vụ của mình, đồng thời giúp HĐXX xác định rõ yêu cầu
của đương sự để đưa ra cách giải quyết thỏa đáng.
Bên cạnh đó cần phải quan tâm đến việc xem xét giải thích cụm từ không
vượt quá yêu cầu ban đầu trên cơ sở tuân theo các nguyên tắc tố tụng, quy định

của pháp luật tố tụng dân sự và đặc biệt cần phải tính đến yêu cầu, mục đích của
hoạt động tố tụng nhằm nâng cao hơn nữa hiệu quả của hoạt động này.
Hai là, cần sửa đổi, bổ sung quy định về việc thay đổi yêu cầu trước phiên
tòa sơ thẩm của đương sự. Việc cho phép thay đổi, bổ sung yêu cầu của đương
sự trong tố tụng dân sự là một thể hiện của quyền tự định đoạt. Quyền tự định
đoạt là quyền cho phép đương sự được tự do quyết định việc bảo vệ quyền, lợi
ích hợp pháp của mình. Vậy việc thay đổi, bổ sung yêu cầu của đương sự phải
được pháp luật tố tụng dân sự đảm bảo, tôn trọng và chấp nhận. Hơn nữa, có
nhiều trường hợp đương sự không nhận thức đúng và đầy đủ quyền, nghĩa vụ
của mình ngay từ đầu và trong quá trình tố tụng lại phát hiện ra những yêu cầu
khác có liên quan nhưng không có quy định cụ thể nên họ không biết dựa vào
quy định nào để bổ sung thêm yêu cầu. Do đó, cần phải bổ sung các quy định về
8
Sinh viên: phạm văn lượng


Bài tập lớn học kì

quyền thay đổi, bổ sung yêu cầu của đương sự trước phiên tòa sơ thẩm; việc
thay đổi này phải được báo trước cho các đương sự khác trước khi mở phiên tòa
sơ thẩm để đảm bảo cho họ có thời gian chuẩn bị tài liệu, chứng cứ bảo vệ cho
các quyền, lợi ích hợp pháp của mình trước Tòa án.
Ba là, cần quy định cụ thể về hậu quả pháp lý sẽ phát sinh đối với các
trường hợp thay đổi, bổ sung yêu cầu của đương sự hay vấn đề thay đổi, bổ sung
kháng cáo của người kháng cáo để hỗ trợ các chủ thể pháp luật TTDS có cái
nhìn tổng quát hơn về vấn đề nêu trên, góp phần tăng cường hiệu quả của hoạt
động, đảm bảo được quyền tự định đoạt của các chủ thể.
Bốn là, cần xây văn bản hướng dẫn, giải thích từ ngữ trong bộ luật được rõ
ràng, đủ nghĩa để tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình thi hành lập và tránh
những cách hiểu không đúng với nội dung điều luật, nâng cao hiệu quả công tác

giải thích pháp luật cũng như nâng cao chất lượng của các cán bộ giải thích, tư
vấn pháp luật. Bên cạnh đó, nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ và phẩm
chất đạo đức của đội ngũ cán bộ ngành Tòa án. Việc mở các lớp bồi dưỡng
nghiệp vụ, chuyên môn cho các Thẩm phán, các cán bộ tòa án… là điều cần
thiết.

C.

KẾT LUẬN

Việc thay đổi, bổ sung yêu cầu của đương sự là sự thể hiện của quyền tự
định đoạt của đương sự - nguyên tắc cơ bản trong tố tụng dân sự. Đây là quyền
cơ bản của đương sự trong suốt quá trình tố tụng dân sự. Pháp luật tố tụng dân
sự hiện hành đã quy định khá cụ thể về vấn đề này. Tuy nhiên, những quy định
về vấn đề này vẫn còn tồn tại nhiều bất cập, đòi hỏi phải được tiếp tục nghiên
cứu và hoàn thiện. bên cạnh đó, việc thực hiện quyền này vẫn còn tồn tại nhiều
hạn chế mà nguyên nhân là từ cả phía đương sự và Tòa án. Để đẩy mạnh công
cuộc cải cách tư pháp, xây dựng nhà nước pháp quyền, thực hiện đầy đủ các quy
định về tố tụng dân sự nói chung và các quy định về việc thay đổi, bổ sung yêu
cầu của đương sự, yêu cầu cần đặt ra là phải thực hiện đồng bộ các giải pháp về
sửa đổi, bổ sung các quy định của pháp luật cùng với các giải pháp về tổ chức
Tòa án và tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật.

9
Sinh viên: phạm văn lượng


Bài tập lớn học kì

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Bộ luật tố tụng dân sự của nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm
2004 (Sửa đổi bổ sung năm 2011)
2. Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật tố tụng dân sự Việt Nam,
Nxb. Tư pháp, năm 2005
3. Nghị quyết số 02 ngày 12/5/2006 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân
dân tối cao (HĐTPTANDTC) hướng dẫn thi hành các quy định trong phần
thứ hai “Thủ tục giải quyết các vụ án tại Tòa án cấp sơ thẩm” của
BLTTDS.
4. Phạm Như Hưng, Nguyên tắc tranh tụng trong luật Tố tụng dân sự Cộng
hoà Pháp, Tạp chí Luật học số 4/2003.
5. Tài liệu hội thảo khoa học cấp trường, Đề tài: “Về việc thi hành Bộ luật
Tố tụng dân sự”, Trường Đại học Luật Hà Nội, năm 2005.
6. Báo cáo tổng kết 5 năm thi hành bộ luật tố tụng dân sự của Tòa án nhân
dân tối cao – Số 09/BC-TANDTC ngày 09/8/2010.
7. website: />
10
Sinh viên: phạm văn lượng



×