Tải bản đầy đủ (.docx) (13 trang)

Bài tập lớn học kì môn luật hôn nhân và gia đình điều kiện kết hôn và sự cần thiết phải quy định các điều kiện kết hôn (8 điểm)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (100.57 KB, 13 trang )

MỤC LỤC


LỜI MỞ ĐẦU
Hôn nhân là cơ sở hình thành gia đình – tế bào của xã hội. Khởi nguồn để
hình thành một gia đình thực sự là việc xác lập mối quan hệ hôn nhân giữa hai
người nam nữ. Khi nhà nước quản lý và điều chỉnh quan hệ hôn nhân thì việc nam
nữ tạo lập gia đình trở thành sự kiện pháp lý làm phát sinh quan hệ vợ chồng, sự
kiện này thể hiện dưới một khái niệm gọi là kết hôn.
Kết hôn là việc hai bên nam, nữ xác lập quan hệ vợ chồng theo quy định của
pháp luật về điều kiện kết hôn và đăng ký kết hôn. Kết hôn là mốc khởi đầu của
quan hệ hôn nhân.
Nhà nước quản lý việc kết hôn của cá nhân thông qua các quy định của pháp
luật về điều kiện kết hôn, thủ tục kết hôn cùng những quy định về giải quyết những
quy định trong lĩnh vực kết hôn. Trong đó, điều kiện kết hôn là cơ sở đầu tiên để
nhà nước xem xét,thừa nhận việc kết hôn, để gia đình thực sự đầm ấm, bền vững
và hạnh phúc. Điều kiện kết hôn là một trong những nội dung quan trọng của luật
hôn nhân và gia đình. Điều kiện kêt hôn là chuẩn mực pháp lý để xác lập quan hệ
hôn nhân và xây dựng gia đình theo khuôn mẫu nhất định phù hợp với lợi ích
chung của nhà nước và xã hội trong giai đoạn lịch sử nhất định.
Trong luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 có quy định các điều kiện kết
hôn cụ thể và hoàn chỉnh. Tuy nhiên, vẫn có những điểm hạn chế, bất cập chưa phù
hợp với thực tiễn cần xem xét sửa đổi và bổ sung.

Page | 2


NỘI DUNG
I, CÁC ĐIỀU KIỆN KẾT HÔN THEO LUẬT HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH
NĂM 2000.
Căn cứ vào quy luật tự nhiên, các kết quả nghiên cứu khoa học, điều kiện


kinh tế - xã hội trong từng giai đoạn cụ thể; căn cứ vào mục đích xây dựng gia
đình, phong tục tập quán, giá trị đạo đức truyền thống mà nhà nước ta đã quy định
các điều kiện kết hôn.
Điều kiện kết hôn bao gồm những điều kiện về mặt nội dung và điều kiện về
hình thức-pháp luật chỉ bảo vệ quan hệ hôn nhân tuân thủ đầy đủ những điều kiện
này. Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 quy định nam nữ kết hôn phải đáp ứng
đủ ba điều kiện về mặt nội dung như sau:
a) Điều kiện về tuổi kết hôn.
Điều 9 khoản 1 Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 quy định tuổi kết hôn của
nam là từ hai mươi tuổi trở lên, nữ từ mười tám tuổi trở lên.
Quy định này kế thừa Điều 5 luật hôn nhân và gia đình năm 1986. Căn cứ vào
cơ sở khoa học về tâm lý lứa tuổi, sức khỏe con người Việt Nam và các điều kiện
kinh tế - xã hội của nước ta: Việc pháp luật quy định nam từ 20 tuổi trở lên, nữ từ
mười tám tuổi trở lên mới được kết hôn là nhằm đảm bảo sự phát triển đầy đủ về
mặt thể chất, con cái sinh ra được khỏe mạnh, bảo đảm cho đôi nam nữ thực hiện
được các chức năng sinh đẻ, giáo dục con cái và nhận thức đầy đủ trách nhiệm của
mình đối với gia đình. Theo kết quả nghiên cứu khoa học, đây là độ tuổi phát triển
đầy đủ về thể chất và nhận thức được vấn đề giới tính, mới có thể suy xét đúng đắn
về việc kết hôn của mình, thể hiện ý chí tự nguyện của mình trong việc kết hôn

Page | 3


Mặt khác, khi đạt độ tuổi trưởng thành, nam nữ có thể tham gia vào quá trình
lao động và có thu nhập nên có thể bảo đảm cho họ có cuộc sống ổn định về kinh
tế sau khi kết hôn.
Cách tính tuổi kết hôn: Theo quy định tại Điều 9 khoản 1 Luật hôn nhân và gia
đình và mục 1 điểm a Nghị quyết số 02/2000/NQ-HĐTP ngày 23-12-2000 của Hội
đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân Tối cao thì không bắt buộc nam phải đủ từ hai
mươi tuổi trở lên, nữ phải đủ từ mười tám tuổi trở lên mới được kết hôn; do đó

nam đã bước sang tuổi hai mươi, nữ đã bước sang tuổi mười tám mà kết hôn là
không vi phạm điều kiện về độ tuổi kết hôn. Đồng thời, Công văn số 268/TP-HT
ngày 19-4-2001 của Bộ tư pháp cũng quy định độ tuổi kết hôn được hiểu: nam
bước sang ngày hôm sau của này sinh nhật lần thứ 19, nữ bước sang ngày hôm sau
của ngày sinh nhật lần thứ 17.
b) Phải có sự tự nguyện của hai bên nam nữ khi kết hôn.
Theo quy định tại Điều 9 khoản 2 Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 thì việc
kết hôn do nam nữ tự nguyện quyết định, không bên nào được ép buộc, lừa dối bên
nào và không ai được cưỡng ép hoặc cản trở.
Hôn nhân tự nguyện tiến bộ là nguyên tắc cơ bản xuyên suốt của Luật hôn nhân
và gia đình năm 1959, 1986, 2000 nhằm xóa bỏ hoàn toàn chế độ hôn nhân cưỡng
ép, phụ thuộc vào cha mẹ của chế độ hôn nhân gia đình thời phong kiến và xây
dựng chế độ hôn nhân gia đình mới xã hội chủ nghĩa.
Tự nguyện kết hôn là việc hai bên nam nữ thực sự mong muốn trở thành vợ
chồng xuất phát từ tình yêu chân chính giữa họ và nhằm mục đích là cùng nhau
xây dựng gia đình chung sống lâu dài. Mỗi bên kết hôn tự mình quyết định việc kết
hôn mà không bị tác động bởi bên kia hay của bất kỳ người nào, bất kỳ yếu tố nào
khiến họ phải kết hôn trái với nguyện vọng của họ.
Page | 4


Quy định về điều kiện kết hôn tại khoản 2 Điều 9 Luật hôn nhân và gia đình
hoàn toàn phù hợp với tinh thần của Công ước Cedaw- công ước xóa bỏ mọi phân
biệt đối xử đối với phụ nữ. Điểm b khoản 1 Điều 16 Công ước quy định “quyền tự
do như nhau được lựa chọn người để kết hôn và chỉ kết hôn khi mình được tự do
quyết định và hoàn toàn tự nguyện” và phù hợp với Điều 35 Bộ luật dân sự nước
ta: “nam nữ có đủ điều kiện kết hôn theo quy định của pháp luật về hôn nhân và
gia đình có quyền tự do kết hôn, không bên nào được ép buộc, lừa dối bên nào;
không ai được cản trở hôn nhân tự nguyện, tiến bộ hoặc cưỡng ép kết hôn”.
Theo Mục 1, điểm b Nghị quyết số 02/2002/NQ-HĐTP thì các thuật ngữ ép

buộc, lừa dối, cưỡng ép được hiểu:
-

Một bên ép buộc (ví dụ: đe dọa dùng vũ lực hoặc uy hiếp tinh thần hoặc

-

dùng vật chất…) nên buộc bên bị ép buộc đồng ý kết hôn;
Một bên lừa dối (ví dụ: lừa dối là nếu kết hôn sẽ xin việc làm phù hợp hoặc
nếu kết hôn sẽ bảo lãnh ra nước ngoài, không có khả năng sinh lý nhưng cố

-

tình giấu, biết mình nhiễm HIV nhưng cố tình giấu…)
Một bên hoặc cả hai bên bị người khác cưỡng ép (ví dụ: bố mẹ của người
nữ do nợ của người nam một khoản tiền nên cưỡng ép người nữ phải kết
hôn với người nam để trừ nợ; do bố mẹ hai bên có hứa hẹn với nhau nên
cưỡng ép con của họ phải kết hôn với nhau…) buộc người bị cưỡng ép kết
hôn trái với nguyện vọng của họ.

C) Việc kết hôn không thuộc một trong các trường hợp cấm kết hôn.
Theo quy định tại Điều 10 Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 việc kết hôn bị
cấm trong các trường hợp sau:

Page | 5


c.1) Người đang có vợ hoặc có chồng.
Quy định này là sự kế thừa và cụ thể hóa nguyên tắc cơ bản của luật hôn nhân
và gia đình – nguyên tắc hôn nhân một vợ, một chồng. Đó là quy định hết sức cần

thiết, bảo đảm việc thực hiện nhiệm vụ của Luật hôn nhân và gia đình là xóa bỏ
chế độ hôn nhân và gia đình phong kiến, xóa bỏ sự đối xử bất bình đẳng đối với
người phụ nữ, xây dựng chế độ hôn nhân tiến bộ xã hội chủ nghĩa.
Theo Mục 1 điểm c1 Nghị quyết số 02/2002/NQ –HĐTP thì: “người đang có
vợ hoặc chồng” được hiểu là:
-

Người đã kết hôn với người khác theo quy định của pháp luật về hôn nhân

-

và gia đình nhưng chưa ly hôn.
Người chung sống với người khác như vợ chồng từ trước ngày 03-01-1978

-

và đang chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn.
Người đang sống chung với người khác như vợ chồng từ ngày 03-01-1978
đến trước ngày 01-01-2001 và đang chung sống với nhau như vợ chồng mà
có đủ điều kiện kết hôn nhưng không đăng ký kết hôn (trường hợp này chỉ
áp dụng từ ngày Nghị quyết này có hiệu lực cho đến ngày 01-01-2003).

Như vậy, nếu người đang có vợ có chồng mà kết hôn với người khác thì việc
kết hôn của họ đã vi phạm điều cấm kết hôn và việc kết hôn đó là trái pháp luật.
c.2) Người mất năng lực hành vi dân sự.
Người mất năng lực hành vi dân sự là người do mắc bệnh tâm thần hoặc mắc
bệnh khác mà không thể nhận thức, làm chủ được hành vi của mình, nên tòa án ra
quyết định tuyên bố người đó mất năng lực hành vi dân sự khi có yêu cầu của
người có quyền, lợi ích liên quan và trên cơ sở kết luận của tổ chức giám định có
thẩm quyền theo quy định tại Điều 24 Bộ luật dân sự.


Page | 6


Quy định cấm những người mất năng lực hành vi dân sự kết hôn là do những
căn cứ sau:
Thứ nhất: Người không nhận thức được hành vi thì không có khả năng thể
hiện một cách đúng đắn ý chí của mình trong vấn đề kết hôn, cũng không thể nhận
thức và thực hiện được trách nhiệm làm vợ, làm chồng, làm cha, làm mẹ trong đời
sống gia đình. Nếu họ kết hôn sẽ ảnh hưởng tới cuộc sống, quyền lợi và sức khỏe
của vợ, chồng, con cái họ.
Thứ hai: Theo điều 24 Bộ luật dân sự Việt Nam: “Mọi giao dịch dân sự của
người mất năng lực hành vi dân sự đều do người đại diện theo pháp luật xác lập,
thực hiện”. Nhưng quyền kết hôn và ly hôn là quyền nhân thân của mỗi người nên
không thể để cho người đại diện thực hiện.
Vì vậy, về nguyên tắc người mất năng lực hành vi dân sự không thể kết hôn.
c.3) Giữa những người có cùng dòng máu về trực hệ, giữa người có họ trong phạm
vi ba đời.
Khoản 12,13 Điều 8 Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 quy định “những
người có cùng dòng máu về trực hệ là cha, mẹ đối với con; ông, bà đối với cháu
nội và cháu ngoại”, “những người có họ trong phạm vi ba đời là những người có
cùng một gốc sinh ra: cha mẹ là đời thứ nhất; anh chị em cùng cha mẹ, cùng cha
khác mẹ, cùng mẹ khác cha là đời thứ hai; anh chị em con chú con bác, con cô con
cậu, con dì là đời thứ ba”.
Luật hôn nhân và gia đình cấm những người có quan hệ huyết thống gần kết
hôn vì:

Page | 7



Về mặt khoa học: việc cấm những người này kết hôn với nhau là để đảm bảo
cho con cái sinh ra được khỏe mạnh, nòi giống phát triển lành mạnh, bảo đảm lợi
ích của gia đình và lợi ích xã hội.
Về mặt xã hội và truyền thống dân tộc: việc kết hôn giữa những người này sẽ
phá vỡ tôn ti trật tự trong họ hàng, cách xưng hô; những chuẩn mực đạo đức bị
xâm hại, suy đồi…
c.4) Giữa cha, mẹ nuôi với con nuôi; giữa những người đã từng là cha, mẹ nuôi
với con nuôi, bố chồng với con dâu, mẹ vợ với con rể, bố dượng với con riêng của
vợ, mẹ kế với con riêng của chồng.
Theo Mục 1 điểm c.4 Nghị quyết số 02/2000/NQ-HĐTP, hướng dẫn áp dụng
một số quy định của Luật hôn nhân và gia đình năm 2000, quy định tại khoản 4
Điều 10 được hiểu là cấm kết hôn: Giữa cha, mẹ nuôi với con nuôi; giữa những
người từng là cha, mẹ nuôi với con nuôi; giữa người đã từng là bố chồng với con
dâu; giữa người đã từng là mẹ vợ với con rể; giữa người đã từng là bố dượng với
con riêng của vợ; giữa người đã từng là mẹ kế với con riêng của chồng;
Việc quy định như vậy nhằm làm lành mạnh mối quan hệ trong gia đình, bảo
đảm thuần phong, mỹ tục của dân tộc, bảo đảm các nguyên tắc của cuộc sống, làm
ổn định trật tự giữa các thành viên trong gia đình. Đồng thời, quy định này còn
nhằm ngăn chặn hiện tượng lợi dụng mối quan hệ phụ thuộc giữa cha mẹ nuôi với
con nuôi mà có thể xảy ra hành vi cưỡng ép kết hôn. Đây vừa là quy định của pháp
luật vừa là quy tắc đạo đức.
c.5) Giữa những người cùng giới tính.
Kết hôn giữa những người cùng giới tính là việc xác lập quan hệ vợ chồng giữa
hai người đều là nam hoặc đều là nữ.

Page | 8


Đây là một hiện tượng không phù hợp với đạo đức của xã hội, thuần phong mỹ
tục và truyền thống gia đình Việt Nam mà còn là hiện tượng phản khoa học do hôn

nhân được xác lập trên cơ sở sự kết hôn giữa những người đồng giới sẽ không bảo
đảm được chức năng của hôn nhân gia đình là tái sản xuất ra con người để duy trì
nòi giống.
II, NHỮNG ĐIỂM BẤT CẬP CẦN SỬA ĐỔI, BỔ SUNG.
1, điều kiện về tuổi kết hôn.
Theo khoản 1 Điều 9 Luật Hôn nhân và gia đình quy định độ tuổi kết hôn đối
với nam từ hai mươi tuổi trở lên, đối với nữ từ mười tám tuổi trở lên. Như vậy,
theo quy định này thì chỉ cần nam bước sang tuổi hai mươi, nữ bước sang tuổi 18
là đủ tuổi kết hôn. Việc quy định độ tuổi kết hôn trong Luật là chưa thống nhất với
Bộ luật Dân sự, Bộ luật Tố tụng dân sự.
Theo quy định của Bộ luật Dân sự thì người chưa đủ 18 tuổi là người chưa
thành niên. Người từ đủ mười sáu tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi khi xác lập, thực
hiện giao dịch dân sự phải được người đại diện theo pháp luật đồng ý, trừ giao dịch
nhằm phục vụ nhu cầu sinh hoạt hàng ngày phù hợp với lứa tuổi hoặc pháp luật có
quy định khác. Đồng thời, theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự thì đương sự
là người từ đủ mười tám tuổi trở lên mới có đầy đủ năng lực hành vi tố tụng dân
sự. Như vậy, nếu cho phép người chưa đủ 18 tuổi kết hôn không những tạo ra sự
thiếu thống nhất, đồng bộ trong hệ thống văn bản pháp luật mà còn hạn chế một số
quyền của người nữ khi xác lập các giao dịch, hạn chế quyền yêu cầu ly hôn (phải
có người đại diện).
Ý kiến cá nhân: nên quy định tuổi tối thiểu kết hôn đối với nam là từ đủ hai
mươi tuổi trở lên, nữ là từ đủ mười tám tuổi trở lên (tuổi tròn).
Page | 9


2, Cấm kết hôn giữa bố chồng với con dâu, mẹ vợ với con rể.
Quy định này dựa trên phong tục tập quán và truyền thống đạo đức. Việc quy
định như vậy nhằm làm lành mạnh mối quan hệ trong gia đình, bảo đảm thuần
phong, mỹ tục của dân tộc, bảo đảm các nguyên tắc của cuộc sống, làm ổn định
trật tự giữa các thành viên trong gia đình.

Tuy nhiên, Về cơ sở khoa học, giữa nhưng người này không có mối quan hệ về
huyết thống hay họ hàng. Những người này nếu lấy nhau sẽ không ảnh hưởng gì
đến giống nòi, thế hệ sau này. Đồng thời, nếu họ muốn lấy nhau vì tình yêu chân
chính, tự nguyện muốn xây dựng gia đình nếu luật cấm như vậy liệu có vi phạm
nguyên tắc tự nguyện. Vấn đề cấm kết hôn đối với người mất năng lực hành vi dân
sự.
Ý kiến cá nhân về việc sửa đổi, bổ sung: không nên đưa quy định cấm kết hôn
những người này vào trong luật. Nên để cho vấn đề kết hôn giữa những người này
cho phong tục, tập quán, truyền thống đạo đức và dư luận xã hội điều chỉnh thì sẽ
tốt hơn.
3, Cấm kết hôn đối với người mất năng lực hành vi dân sự.
Một người được xem là mất năng lực hành vi dân sự nếu người đó mắc bệnh
tâm thần hoặc bệnh khác mà không thể nhận thức, làm chủ được hành vi của mình
và tòa án ra quyết định tuyên bố người đó mất năng lực hành vi dân sự.
Trường hợp người bị bệnh tâm thần phân liệt, tâm thần theo mùa hoặc các bệnh
khác làm cho lúc có khả năng nhận thức và điều khiển hành vi lúc thì không có.
Trường hợp đó cần xử lý như thế nào thì trong luật không quy định cụ thể. Nếu khi
người đó đi đăng ký kết hôn là lúc tỉnh táo và hoàn toàn bình thường thì cơ quan có
thẩm quyền cũng không thể phát hiện và xử lý được. Thời điểm đó, người đó vẫn

Page | 10


có khả năng thể hiện một cách đúng đắn ý chí của mình trong vấn đề kết hôn (điều
kiện tự nguyện kết hôn).
Ý kiến cá nhân về việc sửa đổi, bổ sung: người mắc bệnh tâm không bị cấm
nhưng vẫn có thể không được phép kết hôn. Chỉ không được phép kết hôn đối với
người đang mắc bệnh tâm thần hoặc các bệnh khác không có khả năng nhận thức
hành vi của mình (đang trong tình trạng không nhận thức được hành vi của mình).
4, Cấm kết hôn giữa những người cùng giới tính.

Việc kết hôn giữa những người cùng giới tính không thể thực hiện mục đích xây
dựng gia đình, không phù hợp với quy luật phát triển của tự nhiên, trái với đạo đức
xã hội và thuần phong mỹ tục. Vì thế nhà nước ta quy định cấm kết hôn giữa
những người cùng giới tính.
Tuy nhiên, trong xã hội hiện nay,càng ngày càng nhiều người đồng tính muốn
lập gia đình. Hôn nhân cần được xem là quyền tự do chính đáng của mỗi con
người, dù họ thuộc giới tính nào. Nhiều người cho rằng: Thừa nhận sự tồn tại thực
tế của mối quan hệ này và nỗ lực giải quyết các vấn đề thực tế phát sinh chính là
bước đi đầu tiên trong tiến trình bảo vệ quyền bình đẳng của người đồng tính, song
tính và chuyển đổi giới tính. Nếu được pháp luật công nhận, người đồng tính sẽ
được đảm bảo về quyền cá nhân, nhất là trong quá trình chung sống với nhau việc
phát sinh quan hệ về nhân thân, tài sản và con cái là có thật nên cần được pháp luật
bảo vệ. Thêm vào đó việc thừa nhận hôn nhân đồng giới với những ràng buộc về
mặt pháp luật có thể hạn chế vấn đề về tệ nạn xã hội, nhất là mại dâm nam dẫn đến
lây truyền HIV.
Ý kiến của cá nhân: bỏ quy định “cấm kết hôn giữa những người cùng giới tính”.

Page | 11


KẾT LUẬN
Điều kiện kết hôn là một trong những nội dung quan trọng của luật hôn nhân và
gia đình. Điều kiện kêt hôn là chuẩn mực pháp lý để xác lập quan hệ hôn nhân và
xây dựng gia đình theo khuôn mẫu nhất định phù hợp với lợi ích chung của nhà
nước và xã hội trong giai đoạn lịch sử nhất định. Vì vậy, xã hội hiện nay- điều kiện
kinh tế,văn hóa, xã hội có những thay đổi nhất định, kỹ năng soạn thảo luật của các
nhà lập pháp ngày càng tiến bộ. Thực tế đã cho thấy, những quy định về điều kiện
kết hôn của luật hôn nhân và gia đình năm 2000 đã có những điểm bất cập cần
được sửa đổi để phù hợp với thực tiễn.


Page | 12


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1, Giáo trình luật hôn nhân và gia đình, NXB lao động, năm 2012
2, Luật hôn nhân và gia đình, NXB chính trị quốc gia, năm 2012
3, Bình luận khoa học luật hôn nhân và gia đình Việt Nam, NXB chính trị quốc gia,
năm 2004.
4, Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về Luật hôn nhân và gia đình năm 2000, NXB
chính trị quốc gia, năm 2002.
5, Mô hình Luật hôn nhân và gia đình, NXB tư pháp, năm 2011.
6, Bộ luật dân sự Việt Nam, NXB lao động, năm 2012
7, Weside: www.dantri.com
duthaoonline.quochoi.vn
www.phapluatvn.com

Page | 13



×