Tải bản đầy đủ (.doc) (17 trang)

bài tập nhóm tháng 2 luật thương mại 2 tháng 012012, giám đốc công ty cổ phần a ký hợp đồng mua 1000 tấn gạo (giá 10 000 đồngkg) với giám đốc công

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (112.72 KB, 17 trang )

MỤC LỤC

Trang
MỤC LỤC……………………………………………………………………...
0
ĐỀ BÀI…………………………………………………………………………
1
BÀI
2
LÀM.............................................................................................................
1. Phân tích các điều kiện để hợp đồng mua bán hàng hóa có hiệu lực…...
2
2. Biết: Trong hợp đồng các bên có thỏa thuận trọng tài như sau: “Mọi
tranh chấp phát sinh từ hợp đồng này được giải quyết bởi trọng tài thương mại
theo quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành.” Hãy nhận xét về hiệu lực
của thỏa thuận trọng tài trong hợp đồng mua bán gạo nói trên và bình luận

5

quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành về hiệu lực của thỏa thuận trọng
tài……………………………………………………………………………….
3. Tòa án có thể thụ lý đơn khởi kiện của công ty A không? Vì sao?..........
4. Phân tích các căn cứ pháp lý để xác định tính hợp pháp của yêu cầu bồi

11

thường thiệt hại và phạt vi phạm của công ty A.
Nếu yêu cầu bồi thường thiệt hại và phạt vi phạm của công ty A là hợp

12


pháp, hãy xác định giá trị bồi thường thiệt hại và phạt vi phạm mà công ty B
phải chịu?.............................................................................................................
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO……………………………………….

0

16


TM2.NT2 - 1.
Tháng 01/2012, giám đốc công ty cổ phần A ký hợp đồng mua 1000 tấn
gạo (giá: 10.000 đồng/kg) với giám đốc công ty cổ phần B. Đến thời hạn giao
hàng, công ty B không giao được hàng cho công ty A. Do đó, công ty A không
thực hiện được hợp đồng với đối tác và bị đối tác phạt vi phạm 200 triệu đồng.
Công ty A gửi thông báo yêu cầu công ty B bồi thường thiệt hại 500 triệu đồng
và chịu phạt 8% giá trị hợp đồng nhưng công ty B không chấp thuận. Công ty A
quyết định khởi kiện ra Tòa án.
1. Phân tích các điều kiện để hợp đồng mua bán hàng hóa có hiệu lực.
2. Biết: Trong hợp đồng các bên có thỏa thuận trọng tài như sau: “Mọi
tranh chấp phát sinh từ hợp đồng này được giải quyết bởi trọng tài thương mại
theo quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành.” Hãy nhận xét về hiệu lực của
thỏa thuận trọng tài trong hợp đồng mua bán gạo nói trên và bình luận quy định
của pháp luật Việt Nam hiện hành về hiệu lực của thỏa thuận trọng tài.
3. Tòa án có thể thụ lý đơn khởi kiện của công ty A không? Vì sao?
4. Phân tích các căn cứ pháp lý để xác định tính hợp pháp của yêu cầu bồi
thường thiệt hại và phạt vi phạm của công ty A.
Nếu yêu cầu bồi thường thiệt hại và phạt vi phạm của công ty A là hợp
pháp, hãy xác định giá trị bồi thường thiệt hại và phạt vi phạm mà công ty B
phải chịu?


BÀI LÀM
1


1. Phân tích các điều kiện để hợp đồng mua bán hàng hóa có hiệu lực
Trước hết, phải hiểu mua bán hàng hóa là gì? Theo Luật thương mại 2005,
mua bán hàng hóa được định nghĩa là “hoạt động thương mại, theo đó bên bán
có nghĩa vụ giao hàng, chuyển quyền sở hữu hàng hóa cho bên mua và nhận
thanh toán; bên mua có nghĩa vụ thanh toán cho bên bán, nhận hàng và quyền
sở hữu hàng hóa theo thỏa thuận”. Từ đó có thể định nghĩa hợp đồng mua bán
hàng hóa là sự thỏa thuận của các bên về việc xác lập và thực hiện các quyền và
nghĩa vụ của hợp đồng. Tuy nhiên, không phải mọi thỏa thuận của các bên
đều được pháp luật thừa nhận mà chỉ có những thoả thuận tuân theo quy định
của pháp luật mới có hiệu lực pháp luật.
Luật thương mại 2005 (LTM) không có quy định cụ thể các điều kiện để
hợp đồng mua bán có hiệu lực. Vì vậy, khi xem xét hiệu lực của hợp đồng mua
bán hàng hóa, cần dựa trên những điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự quy
định trong Bộ luật dân sự 2005 (BLDS). Theo Điều 122 BLDS về điều kiện có
hiệu lực của giao dịch dân sự, giao dịch dân sự có hiệu lực khi có đủ các điều
kiện sau đây:
Thứ nhất, các bên phải hoàn toàn tự nguyện khi giao kết hợp đồng;
Thứ hai, mục đích và nội dung của hợp đồng không vi phạm điều cấm của
pháp luật và không trái đạo đức xã hội;
Thứ ba, chủ thể hợp đồng phải có năng lực hành vi dân sự;
Thứ tư, hình thức của hợp đồng phải phù hợp với quy định của pháp luật
nếu pháp luật có yêu cầu hợp đồng phải được xác lập bằng một hình thức nhất
định.
Nếu thiếu một trong bốn căn cứ trên, giao dịch dân sự bị coi là vô hiệu.
Căn cứ vào quy định của Điều 122 BLDS và các quy định có liên quan, có thể
xác định một hợp đồng mua bán hàng hóa có hiệu lực khi có đầy đủ các điều

kiện sau đây:
* Về chủ thể
Các chủ thể tham gia hợp đồng mua bán hàng hóa phải có năng lực chủ
thể để thực hiện nghĩa vụ theo hợp đồng. Nếu chủ thể là cá nhân thì phải có đầy
2


đủ năng lực hành vi dân sự (đủ 18 tuổi và không bị hạn chế về năng lực hành vi
dân sự …),
Trong thực tiễn hoạt động mua bán, chủ thể tham gia hợp đồng mua bán
chủ yếu là các thương nhân. Theo quy định Khoản 1 Điều 6 LTM 2005:
“thương nhân bao gồm tổ chức kinh tế được thành lập hợp pháp, cá nhân hoạt
động thương mại một cách độc lập, thường xuyên và có đăng ký kinh doanh”.
Khi tham gia hợp đồng mua bán nhằm mục đích lợi nhuận, các thương nhân
phải đáp ứng điều kiện có đăng ký kinh doanh hợp pháp đối với hàng hóa được
mua bán. Trường hợp mua bán sản phẩm, hàng hóa có điều kiện kinh doanh,
thương nhân còn phải đáp ứng các điều kiện kinh doanh đó theo quy định pháp
luật.
* Đại diện của các bên giao kết hợp đồng phải là người đại diện hợp
pháp
Người đại diện hợp pháp theo quy định của pháp luật quy định tại điều
145 BLDS 2005. Theo đó, người đại diện hợp pháp bao gồm: người đại diện
theo pháp luật và người đại diện theo ủy quyền.
Đại diện theo pháp luật của DNTN là chủ của DNTN, đối với công ty hợp
danh là các thành viên hợp danh còn thành viên góp vốn không phải là đại diện
theo pháp luật của công ty trừ trường hợp điều lệ công ty có quy định khác, đối
với công ty cổ phần người đại diện hợp pháp là giám đốc, tổng giám đốc hoặc
chủ tịch hội đồng thành viên.
Điều 151 BLDS quy định: “đại diện theo ủy quyền là đại diện được xác
lập theo sự ủy quyền giữa người đại diện và người được đại diện. Việc ủy quyền

phải được lập thành văn bản”.
Như vậy đại diện hợp pháp của chủ thể hợp đồng có thể là đại diện theo
pháp luật hoặc đại diện theo ủy quyền. Khi xác định thẩm quyền giao kết hợp
đồng mua bán, theo quy định tại điều 145 BLDS thì người không có quyền đại
diện giao kết , thực hiện hợp đồng mua bán sẽ không làm phát sinh quyền và
nghĩa vụ đối với bên được hợp đồng đại diện, trừ trường hợp được người đại
diện hợp pháp bên được đại diện chấp nhận.
3


Bên đã giao kết hợp đồng với người không có quyền đại diện phải thông
báo cho bên kia để trả lời trong thời gian ấn định. Nếu hết thời hạn này mà
không có trả lời thì hợp đồng đó không làm phát sinh quyền, nghĩa vụ với bên
được đại diện nhưng người không có quyền đại diện vẫn phải thực hiện
nghĩa vụ đối với bên đã giao kết hợp đồng với mình, trừ trường hợp bên đã giao
dịch biết hoặc phải biết về việc không có quyền đại diện.
* Mục đích và nội dung của hợp đồng không vi phạm điều cấm của
pháp luật và không trái đạo đức xã hội
Điều cấm của pháp luật là những quy định mà pháp luật không cho phép
chủ thể được thực hiện những hành vi nhất định. Đạo đức xã hội là những chuẩn
mực ứng xử giữa người với người trong đời sống được xã hội thừa nhận.
Hàng hóa là đối tượng của hợp đồng không bị cấm kinh doanh theo
quy định của pháp luật. Tùy thuộc vào từng giai đoạn của nền kinh tế, xuất phát
từ yêu cầu quản lý nhà nước mà những hàng hóa bị cấm kinh doanh được pháp
luật quy định một cách phù hợp. Vì vậy, đối tượng của hợp đồng phải là những
hàng hóa được pháp luật cho phép trao đổi, mua bán… vào thời điểm giao kết.
Hàng hóa, dịch vụ cấm kinh doanh trong thương mại hiện nay được quy
định trong danh mục ban hành theo nghị định số 59/2006/NĐ-CP ngày
12/06/2006.
* Hợp đồng giao kết phải đảm bảo nguyên tắc tự nguyện

Hợp đồng mua bán hàng hóa được giao kết phải đảm bảo các nguyên tắc
của hợp đồng theo quy định của pháp luật.
Việc giao kết hợp đồng phải xuất phát từ quyền tự do kí kết hợp đồng và
phù hợp với ý chí thực của họ, hướng đến lợi ích chính đáng của các bên, đồng
thời không xâm hại đến lợi ích khác được pháp luật bảo vệ. Với nhũng hợp đồng
được kí kết do bị lừa dối, đe dọa, cưỡng ép thì đều bị coi là trái pháp luật và hợp
đồng đó sẽ không có hiệu lực. Về vấn đề này, Điều 389 BLDS quy định:
“Việc giao kết hợp đồng dân sự phải tuân theo các nguyên tắc sau đây:
1.Tự do giao kết hợp đồng nhưng không được trái pháp luật, đạo đức xã
hội;
4


2.Tự nguyện, bình đẳng, thiện chí, hợp tác, trung thực và ngay thẳng”.
Những hành vi cưỡng ép đe dọa lừa dối…để giao kết hợp đồng là lí do
dẫn tới hợp đồng mua bán không có hiệu lực.
* Hình thức của hợp đồng phải phù hợp với quy định của pháp luật
Để hợp đồng mua bán có hiệu lực, nội dung hợp đồng phải được xác lập
theo những hình thức được pháp luật thừa nhận. Theo Điều 24 LTM, hợp đồng
mua bán hàng hóa được thể hiện bằng lời nói, bằng văn bản hoặc được xác lập
bằng hành vi cụ thể. Đối với các loại hợp đồng mua bán hàng hóa mà pháp luật
quy định phải được thành lập bằng văn bản thì phải tuân theo các quy định đó.
Như vậy, hình thức của hợp đồng chỉ là điều kiện có hiệu lực khi pháp
luật có quy định.Trường hợp các bên không tuân thủ hình thức hợp đồng khi
pháp luật bắt buộc hợp đồng đó phải tuân thủ về hình thức thì hợp đồng mua bán
bị vô hiệu khi được ký kết.
Ngoài ra, LTM còn có một quy định riêng về điều kiện có hiệu lực của
hợp đồng mua bán hàng hóa với thương nhân nước ngoài như chủ thể bên Việt
Nam phải là thương nhân được phép hoạt động thương mại trực tiếp với người
nước ngoài; hàng hóa phải là hàng hóa được phép mua bán theo quy định của

pháp luật nước bên mua và nước bên bán; hoạt động phải lập thành văn bản.
2. Hãy nhận xét về hiệu lực của thỏa thuận trọng tài trong hợp đồng
mua bán gạo nói trên và bình luận quy định của pháp luật Việt Nam hiện
hành về hiệu lực của thỏa thuận trọng tài.
a. Nhận xét về hiệu lực của thỏa thuận trọng tài trong hợp đồng mua
bán gạo:
Trước khi xét tới hiệu lực của thỏa thuận trọng tài trong hợp đồng mua
bán gạo giữa công ty A và công ty B thì cần phải hiểu thế nào là thỏa thuận
trọng tài. Khái niệm về thỏa thuận trọng tài đã được ghi nhận tại khoản 2 Điều 3
Luật Trọng tài thương mại 2010: “Thoả thuận trọng tài là thoả thuận giữa các
bên về việc giải quyết bằng Trọng tài tranh chấp có thể phát sinh hoặc đã phát
sinh.” Như vậy, định nghĩa về thỏa thuận trọng tài đã cho ta biết: thứ nhất, thỏa
thuận trọng tài trước hết là một thỏa thuận, và thỏa thuận đó là thỏa thuận giữa
5


các bên trong một tranh chấp thương mại; thứ hai, mục đích của thỏa thuận
trọng tài là việc lựa chọn Trọng tài để giải quyết tranh chấp giữa các bên khi
tranh chấp xảy ra; thứ ba, việc lựa chọn trọng tài để giải quyết tranh chấp có thể
được lựa chọn trước hoặc khi tranh chấp đã phát sinh.
Trong hợp đồng giao kết giữa công ty A và công ty B có điều khoản thỏa
thuận trọng tài như sau: “Mọi tranh chấp phát sinh từ hợp đồng này được giải
quyết bởi trọng tại thương mại theo quy định của pháp luật Việt Nam hiện
hành.”. Vậy, thỏa thuận trọng tài giữa công ty A và công ty B trong hợp đồng
bán gạo có hiệu lực hay không? Luật trọng tài thương mại 2010 không quy định
cụ thể về các điều kiện có hiệu lực của thỏa thuận Trọng tài mà chỉ đề cập đến
việc giải quyết theo thủ tục tố tụng của Trọng tài. Tuy nhiên, có thể xác định
điều kiện có hiệu lực của một hỏa thuận thương mại dựa vào các quy định về các
trường hợp thỏa thuận trọng tài vô hiệu. Điều 18 Luật trọng tài thương mại 2010
có quy định về các trường hợp thỏa thuận vô hiệu như sau:

“1. Tranh chấp phát sinh trong các lĩnh vực không thuộc thẩm quyền của
Trọng tài quy định tại Điều 2 của Luật này.
2. Người xác lập thoả thuận trọng tài không có thẩm quyền theo quy định
của pháp luật.
3. Người xác lập thoả thuận trọng tài không có năng lực hành vi dân sự
theo quy định của Bộ luật dân sự.
4. Hình thức của thoả thuận trọng tài không phù hợp với quy định tại
Điều 16 của Luật này.
5. Một trong các bên bị lừa dối, đe doạ, cưỡng ép trong quá trình xác lập
thoả thuận trọng tài và có yêu cầu tuyên bố thoả thuận trọng tài đó là vô hiệu.
6. Thỏa thuận trọng tài vi phạm điều cấm của pháp luật.”
Từ quy định trên, có thể thấy, để xem xét một thỏa thuận trọng tài có hiệu
lực hay không cần dựa vào các tiêu chí sau:
- Về đối tượng của thỏa thuận:

6


Đối tượng của thỏa thuận trọng tài là các lĩnh vực thuộc thẩm quyền giải
quyết tranh chấp của trọng tài thương mại. Điều 2 Luật trọng tài thương mại
2010 quy định như sau:
“1. Tranh chấp giữa các bên phát sinh từ hoạt động thương mại.
2. Tranh chấp phát sinh giữa các bên trong đó ít nhất một bên có hoạt
động thương mại.
3. Tranh chấp khác giữa các bên mà pháp luật quy định được giải quyết
bằng trọng tài”
Trong tình huống, Công ty cổ phần A và Công ty cổ phần B là hai thương
nhân. Mục đích của hai bên khi tiến hành mua bán hàng hóa (mua bán gạo) là
mục đích sinh lợi. Vì vậy, hoạt động mua bán gạo mà hai bên thực hiện là hoạt
động thương mại (Được quy định tại khoản 1 Điều 3 Luật thương mại 2005).

Từ đó, có thể thấy, tranh chấp về hoạt động mua bán gạo của hai bên là tranh
chấp phát sinh từ hoạt động thương mại, mà tranh chấp này chính là đối tượng
của thỏa thuận trọng tài.
Như vậy, đối tượng của thỏa thuận trọng tài giữa Công ty cổ phần A và
Công ty cổ phần B là phù hợp với quy định của Luật trọng tài thương mại 2010.
- Về hình thức của thỏa thuận trọng tài:
Khoản 1 Điều 16 Luật TTTM 2010 quy định : “Thỏa thuận trọng tài có
thể được xác lập dưới hình thức điều khoản trọng tài trong hợp đồng hoặc dưới
hình thức thỏa thuận riêng”. Khoản 2 Điều này quy định thỏa thuận trọng tài
phải được xác lập dưới dạng văn bản và quy định một số thỏa thuận cũng được
coi là xác lập dưới dạng văn bản.
Xét tình huống, thỏa thuận trọng tài giữa Công ty A và Công ty B được
xác lập dưới hình thức điều khoản trọng tài trong hợp đồng mua bán gạo. Hợp
đồng mua bán gạo được lập thành văn bản và được 2 bên ký kết.
Như vậy, thỏa thuận trọng tài của 2 công ty đảm bảo yêu cầu về hình thức
theo quy định tại Luật TTTM 2010
- Về nội dung của thỏa thuận trọng tài:
Khoản 6 Điều 18 Luật trọng tài thương mại cũng đã quy định về trường
hợp thỏa thuận trọng tài giữa các bên vô hiệu là:
7


“6. Thỏa thuận trọng tài vi phạm điều cấm của pháp luật.”
Trong tình huống, thỏa thuận trọng tài giữa công ty A và công ty B có nội
dung: “Mọi tranh chấp phát sinh từ hợp đồng này được giải quyết bởi trọng tài
thương mại theo quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành”. Như vậy, nội
dung của thỏa thuận trọng tài này không hề vi phạm điều cấm của pháp luật nên
thỏa mãn yêu cầu về nội dung của thỏa thuận trọng tài theo quy định tại Luật
Trọng tài thương mại 2010.
-Về năng lực ký kết thỏa thuận trọng tài:

Người ký kết thỏa thuận trọng tài phải có năng lực hành vi dân sự theo
quy định tại Bộ Luật dân sự 2005. Người ký kết ở đây được hiểu theo nghĩa
rộng, tức là bao gồm cả chủ thể của thỏa thuận trọng tài và người trực tiếp ký kết
thỏa thuận trọng tài.
Trong tình huống, do người ký kết thỏa thuận trọng tài là giám đốc của
hai công ty nên nhóm mặc định hai người này phải có năng lực hành vi theo quy
định của Bộ luật dân sự 2005. Về hai công ty A và B, sau khi ký kết hợp đồng
mua bán gạo với nhau, Công ty B đã không giao hàng cho Công ty A, Công ty A
yêu cầu Công ty B bồi thường thiệt hại nhưng Công ty B không đồng ý và xảy ra
tranh chấp. Điều này có nghĩa đây là hai công ty tồn tại và đang hoạt động trên
thực tế nên cũng mặc định chúng có năng lực hành vi dân sự.
Như vậy, chủ thể ký kết thỏa thuận trọng tài ở tình huống thỏa mãn yêu
cầu về chủ thể ký kết thỏa thuận trọng tài theo quy định tại Luật Trọng tài
thương mại 2010.
- Về ý chí của các bên khi xác lập thỏa thuận trọng tài
Các bên phải hoàn toàn tự nguyện khi giao kết thỏa thuận trọng tài. Theo
như quy định tại khoản 5 Điều 18 Luật Trọng tài thương mại 2010 thì “nếu một
trong các bên bị lừa dối, đe dọa, cưỡng ép trong quá trình xác lập thỏa thuận
trọng tài và phải có thêm điều kiện là: có yêu cầu tuyên bố thỏa thuận trọng tài
đó là vô hiệu thì thỏa thuận trọng tài mới bị vô hiệu”.
Trong tình huống, không hề có yêu cầu tuyên bố thỏa thuận trọng tài vô
hiệu. Hơn nữa, hợp đồng là sự thỏa thuận, thống nhất ý chí của các bên nhằm
xác lập, thay đổi, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự. Hợp đồng mua bán gạo là
8


kết qủa thỏa thuận của 2 bên, trong đó mỗi bên đều nhằm đạt được mục đích lợi
nhuận của mình. Thỏa thuận trọng tài là một điều khoản của hợp đồng mua bán
gạo, là thỏa thuận của các bên về phương thức giải quyết tranh chấp. Do đó,
thỏa thuận trọng tài trong tình huống được xây dựng trên cơ sở tự nguyện, thống

nhất ý chí của các bên.
Như vậy, thỏa thuận trọng tài trong tình huống thỏa mãn yêu cầu về ý chí
của các bên khi xác lập thỏa thuận trọng tài được quy định tại Luật trọng tài
thương mại 2010.
- Về điều kiện giải quyết tranh chấp bằng Trọng tài:
Khoản 1 Điều 5 Luật trọng tài thương mại 2012 quy định: “Tranh chấp
được giải quyết bằng Trọng tài nếu các bên có thoả thuận trọng tài. Thỏa thuận
trọng tài có thể được lập trước hoặc sau khi xảy ra tranh chấp”. Theo đó thì tranh
chấp giữa công ty A và công ty B có đủ điều kiện để được giải quyết bằng trọng
tài thương mại. Thỏa thuận trọng tài được lập giữa công ty A và công ty B trước
khi tranh chấp xảy ra là hoàn toàn có hiệu lực theo quy định của pháp luật.
b. Bình luận về quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành về hiệu lực
của thỏa thuận trọng tài:
Như đã phân tích ở trên thì khi xét tới hiệu lực của thỏa thuận trọng tài,
chúng ta xét tới các khía cạnh như: đối tượng của thỏa thuận trọng tài, hình thức
của thỏa thuận trọng tài, nội dung của thỏa thuận trọng tài, năng lực chủ thể ký
kết thỏa thuận trọng tà , ý chí của các bên khi xác lập thỏa thuận trọng tài, về
điều kiện giải quyết tranh chấp bằng Trọng tài.
-Về đối tượng của thỏa thuận trọng tài
Đối tượng của thỏa thuận trọng tài được quy định tại Điều 2 Luật Trọng
tài thương mại 2010. Quy định này đã mở rộng thẩm quyền của trọng tài ở mức
độ nhất định, không quá rộng cũng không quá hẹp. Quy định này đã tạo điều
kiện thuận lợi cho các bên khi tiến hành giao kết thỏa thuận trọng tài. Tuy nhiên,
so với các nước khác trên thế giới, thẩm quyền giải quyết của trọng tài Việt Nam
còn hẹp, hầu hết các nước trên thế giới đều quy định thẩm quyền của trọng tài
rất rộng. Ví dụ Luật Trọng tài Trung Quốc quy định mọi tranh chấp phát sinh từ
hợp đồng hoặc quyền sở hữu giữa các công dân, pháp nhân hoặc các tổ chức
9



khác trên cơ sở bình đẳng đều có thể được giải quyết bằng thỏa thuận trọng tài
(Điều 2), đồng thời loại trừ các tranh chấp không được giải quyết bằng trọng tài
bao gồm các tranh chấp liên quan đến hôn nhân, nhận nuôi con nuôi, giám hộ và
thừa kế, tranh chấp hành chính (Điều 3). Điều 1 Luật Trọng tài Braxin quy định:
“Những người có khả năng ký kết hợp đồng có thể đưa ra trọng tài để giải quyết
các tranh chấp liên quan đến các quyền về tài sản mà họ có quyền quyết định”.
-Về hình thức của thỏa thuận trọng tài
Hình thức của thỏa thuận trọng tài được quy định tại Điều 16 Luật Trọng
tài thương mại 2010. So với Pháp lệnh Trọng tài thương mại 2005 thì Luật
Trọng tài thương mại 2010 đã mở rộng hình thức của thỏa thuận trọng tài, tạo
điều kiện tốt nhât cho các bên khi xác lập thỏa thuận trọng tài.
-Về nội dung của thỏa thuận trọng tài
Đây là điều kiện không được quy định trong Pháp lệnh Trọng tài thương
mại 2003. Khoản 6 Điều 18 Luật TTTM 2010 quy định thỏa thuận trọng tài vô
hiệu khi vi phạm điều cấm của pháp luật. Bổ sung này là rất hợp lý bởi điều cấm
của pháp luật là những quy định của pháp luật không cho phép chủ thể thực hiện
những hành vi nhất định. Một thỏa thuận trọng tài vi phạm điều cấm của pháp
luật thì chắc chắn phải bị vô hiệu.
-Về năng lực ký kết thỏa thuận trọng tài
Theo như quy định tại Luật Trọng tài thương mại 2010 thì người xác lập
thỏa thuận trọng tài phải có năng lực hành vi dân sự theo quy định của Bộ luật
dân sự 2005. Người xác lập thỏa thuận ở đây cần được hiểu theo nghĩa rộng, tức
là cả cá nhân và pháp nhân bởi có những trường hợp một bên ký kết thỏa thuận
trọng tài là doanh nghiệp không còn tồn tại trên thực tế và cũng không có tổ
chức tiếp nhận quyền, nghĩa vụ, vì vậy mà thỏa thuận trọng tài đã ký không còn
tồn tại trện thực tế nữa.
Quy định này của Luật Trọng tài thương mại cũng không có thay đổi so
với Pháp lệnh Trọng tài thương mại 2003.
-Về ý chí của các bên khi xác lập thỏa thuận trọng tài


10


Khoản 1 Điều 3 Luật Trọng tài thương mại 2010 quy định: “Trọng tài
thương mại là phương thức giải quyết tranh chấp do các bên thỏa thuận và
được tiến hành theo quy định của luật này”.Như vậy, thỏa thuận là yếu tố không
thể thiếu đối với phương thức giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thương mại.
Do đó, khoản 5 Điều 18 Luật Trọng tài thương mại đã quy định nếu một trong
các bên bị lừa dối, đe dọa, cưỡng ép trong quá trình xác lập thảo thuận trọng tài
và có yêu cầu tuyên bố thỏa thuận trọng tài vô hiệu thì thỏa thuận trọng tài đó bị
vô hiệu. Quy định này là hợp lý bởi nếu một trong các bên không có sự tự
nguyện ý chí khi xác lập thỏa thuận trọng tài nhưng lại không có yêu cầu tuyên
bố thỏa thuận trọng tài này vô hiệu tức là đã “ngầm” chấp thuận thỏa thuận
trọng tài đã ký kết.
3. Tòa án có thể thụ lý đơn khởi kiện của công ty A không? Vì sao?
Để thụ lý, giải quyết vụ án dân sự nói chung, kinh doanh thương mại nói
riêng, Tòa án phải dựa vào yêu cầu cụ thể của người khởi kiện để xác định quan
hệ pháp luật mà đương sự tranh chấp. Từ đó, đối chiếu với các quy định về thẩm
quyền của Bộ luật Tố tụng dân sự (BLTTDS) để xác định yêu cầu khởi kiện của
đương sự có thuộc thẩm quyền của Tòa án hay không.
Xét tình huống trên, đến thời hạn giao hàng, công ty B không giao được
hàng cho công ty A. Do đó, công ty A không thực hiện được hợp đồng với đối
tác và bị đối tác phạt vi phạm 200 triệu đồng. Công ty A gửi thông báo yêu cầu
công ty B bồi thường thiệt hại 500 triệu đồng và chịu phạt 8% giá trị hợp đồng
nhưng công ty B không chấp thuận. Công ty A quyết định khởi kiện ra Tòa án.
Như vậy, công ty A khởi kiện ra tòa án yêu cầu công ty B bồi thường thiệt hại do
vi phạm hợp đồng từ đó có thể khẳng định giữa công ty A và công ty B là tranh
chấp phát sinh trong hoạt động kinh doanh, thương mại mà cụ thể là mua bán
hàng hóa.
Đối chiếu với thẩm quyền của Tòa án, theo quy định tại Điều 29 BLTTDS

thì tranh chấp kinh doanh thương mại thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án
bao gồm 4 nhóm: (1) Tranh chấp phát sinh trong hoạt động kinh doanh,
thương mại giữa cá nhân, tổ chức có đăng ký kinh doanh với nhau và đều có
11


mục đích lợi nhuận (được liệt kê từ điểm a đến điểm o khoản 1 Điều 29);
(2) Tranh chấp về quyền sở hữu trí tuệ, chuyển giao công nghệ giữa cá nhân, tổ
chức với nhau và đều có mục đích lợi nhuận (có thể tất cả hoặc một trong các
bên có đăng ký kinh doanh hoặc các bên đều không có đăng ký kinh doanh)
được quy định tại khoản 2 Điều 29; (3) Tranh chấp giữa công ty với các thành
viên của công ty, giữa các thành viên của công ty với nhau liên quan đến
việc thành lập, hoạt động, chấm dứt hoạt động của công ty được quy định tại
khoản 3 Điều 29; (4) các tranh chấp khác về kinh doanh, thương mại mà pháp
luật có quy định được quy định tại khoản 4 Điều 29.
Các tranh chấp phát sinh trong hoạt động kinh doanh thương mại giữa cá
nhân, tổ chức có đăng ký kinh doanh với nhau và đều có mục đích lợi nhuận như
các tranh chấp về mua bán hàng hóa; cung ứng dịch vụ; phân phối; đại diện; đại
lý…
Từ những phân tích trên có thể khẳng định Tòa án có thẩm quyền thụ
lý đơn khởi kiện của công ty A.
4. Phân tích các căn cứ pháp lý để xác định tính hợp pháp của yêu
cầu bồi thường thiệt hại và phạt vi phạm của công ty A. Nếu yêu cầu bồi
thường thiệt hại và phạt vi phạm của công ty A là hợp pháp, hãy xác định
giá trị bồi thường thiệt hại và phạt vi phạm mà công ty B phải chịu?
*Phân tích các căn cứ pháp lý để xác định tính hợp pháp của yêu cầu
bồi thường thiệt hại và phạt vi phạm của công ty A.
Theo đề bài , “Đến thời hạn giao hàng, công ty B không giao được hàng
cho công ty A” nhưng lại không nêu rõ lý do vì sao không giao hàng đúng thời
hạn. Do vậy căn cứ vào Điều 303 Luật LTM năm 2005: “Trừ các trường hợp

miễn trách nhiệm quy định tại Điều 294 của Luật này, trách nhiệm bồi thường
thiệt hại phát sinh khi có đủ các yếu tố sau đây:
1. Có hành vi vi phạm hợp đồng;
2. Có thiệt hại thực tế;
3. Hành vi vi phạm hợp đồng là nguyên nhân trực tiếp gây ra thiệt hại.”
ta phải chia làm hai trường hợp:
12


- Trường hợp 1: nguyên nhân của việc vi phạm nghĩa vụ giao hàng của
công ty B thuộc một trong bốn trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 294
LTM năm 2005: “1. Bên vi phạm hợp đồng được miễn trách nhiệm trong các
trường hợp sau đây:
a) Xảy ra trường hợp miễn trách nhiệm mà các bên đã thoả thuận;
b) Xảy ra sự kiện bất khả kháng;
c) Hành vi vi phạm của một bên hoàn toàn do lỗi của bên kia;
d) Hành vi vi phạm của một bên do thực hiện quyết định của cơ quan
quản lý nhà nước có thẩm quyền mà các bên không thể biết được vào thời điểm
giao kết hợp đồng.”
+Xảy ra sự kiện bất khả kháng
Sự kiện bát khả kháng : "Là sự kiện không lường trước được và không
tránh được thiệt hại đã gây ra. Người có nghĩa vụ được miễn trách nhiệm hình
sự, trách nhiệm dân sự, trừ trường hợp giao dịch dân sự hai bên có thỏa thuận là
không miễn trách nhiệm dân sự trong trường hợp bất khả kháng… Sự kiện bất
khả kháng phải là: a) Sự kiện không thể lường trước được. Nếu lường trước
được mà để xảy ra thiệt hại thì vẫn phải chịu trách nhiệm hình sự hoặc trách
nhiệm dân sự. b) Cùng với tính chất không lường trước được, sự kiện bất khả
kháng còn phải là không tránh được và không thể chống đỡ được, tức là đã thực
hiện mọi biện pháp cần thiết mà thiệt hại vẫn xảy ra. Tính chất không lường
trước được và tính chất không thể tránh được và không thể chống đỡ được, phải

được xem xét và đánh giá cụ thể trong từng trường hợp..." 1. Giả sử như trên
đường công ty B vận chuyển hàng cho công ty A thì núi lở, tắc đường hoặc bão
lớn làm hư hỏng hàng hóa nên giao hàng không đúng hạn. Trong trường hợp
này, công ty B không phải bồi thường cho người mua vì giao hàng chậm.
+ Xảy ra trường hợp miễn trách nhiệm mà các bên đã thoả thuận
Trong thực tiễn, các bên trong quan hệ hợp đồng còn đưa những sự kiện
xảy ra cho chính bản thân mình là sự kiện bất khả kháng như: thiếu nguyên liệu,
mất điện, lỗi mạng vi tính, bên cung cấp chậm trễ giao hàng,… là sự kiện bất
1

Xem Từ điển luật học trang 440.

13


khả kháng để hưởng chế độ miễn trách nhiệm do sự kiện bất khả kháng. Về mặt
lý luận thì các sự kiện này không đương nhiên được coi là sự kiện bất khả kháng
nếu các bên không thỏa thuận. Như vây, nếu trong hợp đồng mua bán hàng hóa
ký kết giữa hai công ty A và B có điều khoản miễn trách nhiệm bồi thường thiệt
hại thì khi xảy ra những sự kiện đó công ty B không phải bồi thường.
+ Hành vi vi phạm của một bên hoàn toàn do lỗi của bên kia. Ví dụ như
có căn cứ chứng minh công ty B không giao được hàng cho công ty A là do công
ty A thay đổi địa điểm giao hàng đột ngột mà không báo cho công ty B.
+ Hành vi vi phạm của một bên do thực hiện quyết định của cơ quan
quản lý nhà nước có thẩm quyền mà các bên không thể biết được vào thời điểm
giao kết hợp đồng.
Tóm lại, trong trường hợp này, công ty sẽ không phải bồi thường cho
công ty A hay nói cách khác việc yêu cầu bồi thường thiệt hại và phạt hợp
đồng của công ty A là không có căn cứ.
-Trường hợp 2, nguyên nhân của việc vi phạm nghĩa vụ giao hàng của

công ty B không thuộc một trong bốn trường hợp miễn trách nhiệm đối với
hành vi vi phạm quy định tại khoản 1 Điều 294 LTM năm 2005. Trong trường
hợp này xét thấy, hành vi của công ty B đã thỏa mãn ba yếu tố làm phát sinh
trách nhiệm bồi thường thiệt hại đối với công ty A (Điều 303 Luật thương mại
năm 2005) gồm:
+ Có hành vi vi phạm hợp đồng: Công ty B đã không thực hiện nghĩa vụ
giao hàng trong thời hạn đã giao kết trong hợp đồng mua bán (Đến thời hạn
giao hàng, công ty B không giao được hàng cho công ty A.)
+ Có thiệt hại thực tế: công ty A do không thực hiện được hợp đồng với
đối tác và bị đối tác phạt vi phạm 200 triệu đồng.
+ Hành vi vi phạm hợp đồng là nguyên nhân trực tiếp gây ra thiệt hại:
việc không giao hàng đúng hẹn của công ty B là nguyên nhân trực tiếp dẫn đến
việc công ty A do không thực hiện được hợp đồng với đối tác và bị đối tác phạt
vi phạm 200 triệu đồng.

14


Như vậy, nếu nguyên nhân của việc vi phạm nghĩa vụ giao hàng của công
ty B không thuộc trường hợpmiễn trách nhiệm đối với hành vi vi phạm quy định
tại khoản 1 Điều 294 LTM năm 2005 thì việc yêu cầu bồi thường thiệt hại và
phạt hợp đồng của công ty A là hoàn toàn hợp pháp.
*Trong trường hợp 2, ta xác định giá trị bồi thường thiệt hại và phạt
vi phạm mà công ty B phải chịu như sau:
Điều 302 LTM năm 2005 có quy định về bồi thường thiệt hại:
“1. Bồi thường thiệt hại là việc bên vi phạm bồi thường những tổn thất do
hành vi vi phạm hợp đồng gây ra cho bên bị vi phạm.
2. Giá trị bồi thường thiệt hại bao gồm giá trị tổn thất thực tế, trực tiếp
mà bên bị vi phạm phải chịu do bên vi phạm gây ra và khoản lợi trực tiếp mà
bên bị vi phạm đáng lẽ được hưởng nếu không có hành vi vi phạm.”

Theo đó, giá trị bồi thường thiệt hại bao gồm: 200 triệu đồng – số tiền mà
công ty A bị đối tác phạt vi phạm – giá trị tổn thất thực tế, trực tiếp mà công ty A
phải gánh chịu do công ty B gây ra; Những khoản lợi nhuận lẽ ra công ty A được
nhận nếu như công ty B không vi phạm hợp đồng – khoản lợi nhuận mà công ty
A sẽ nhận được trong hợp đồng bán gạo cho đối tác của mình.
Ngoài ra, căn cứ Điều 300 LTM năm 2005, nếu công ty A và công ty B
có thỏa thuận về việc phạt vi phạm (việc bên bị vi phạm yêu cầu bên vi phạm trả
một khoản tiền phạt do vi phạm hợp đồng) thì mức phạt đối với vi phạm nghĩa
vụ hợp đồng của công ty B phải chịu không được vượt quá 80 triệu đồng (mức
phạt đối với vi phạm nghĩa vụ hợp đồng không được vượt quá 8% giá trị phần
nghĩa vụ của hợp đồng bị vi phạm 2 - giá trị phần nghĩa vụ của hợp đồng mua
1000 tấn gạo (giá: 10.000 đồng/kg) là 10 tỷ VNĐ).

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình luật thương mại (tập 2),
2

Xem Điều 301 LTM năm 2005.

15


Nxb.CAND, Hà Nội, 2012
2. Luật thương mại năm 2005.
3. Bộ luật dân sự năm 2005.
4. Trần Quỳnh Anh, Hợp đồng đại lí mua bán hàng hoá - Những vấn đề lí luận
và thực tiễn, Luận văn thạc sĩ luật học 2010, Trường Đại học Luật Hà Nội.

16




×