Tải bản đầy đủ (.doc) (13 trang)

Bài tập nhóm tháng số 2 luật tố tụng hình sự đề 1 (9 điểm)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (95.01 KB, 13 trang )

ĐỀ BÀI
A (17 tuổi) bị B và C đánh gây thương tích, tỉ lệ thương tật là 29%. Chỉ có ông H là bố
của A làm đơn yêu cầu khởi tố vụ án. Cơ quan điều tra đã khởi tố vụ án, khởi tố bị can
đối với B và C về tội cố ý gây thương tích. Sau khi nhận hồ sơ điều tra và đề nghị truy
tố của cơ quan, Viện kiểm sát đã ra quyết định truy tố B và C về tội cố ý gây thương
tích theo Khoản 1 Điều 104 Bộ luật hình sự.
(Trong quá trình giải quyết vụ án này, B và C đều trên 16 tuổi nhưng chưa đủ 18 tuổi).

1


1.Khi nghiên cứu hồ sơ vụ án, Thẩm phán phát hiện trong giai đoạn điều
tra bị can C không có người bào chữa. Thẩm phán phải giải quyết như thế nào?
Tại sao?
Trong giai đoạn điều tra, bị can C không có người bào chữa là một sự vi phạm nghiêm
trọng thủ tục tố tụng, Thẩm phán có quyền trả hồ sơ để điều tra bổ sung và yêu cầu văn
phòng luật sư cử người bào chữa cho C.
Theo Điểm b Khoản 2 Điều 57 BLTTHS thì đối với bị can, bị cáo là người chưa thành
niên ( C trên 16 tuổi nhưng chưa đủ 18 tuổi) các cơ quan tiến hành tố tụng phải yêu
cầu Đoàn luật sư phân công văn phòng luật sư cử người bào chữa cho họ. Theo như
quy định trên, việc có mặt của người bào chữa cho bị can chưa thành niên là bắt buộc
trong quá trình điều tra. Theo quy định tại Điều 41 Thông tư liên tịch số
01/2010/TTLT- VKSNDTC- BCA- TANDTC Hướng dẫn thi hành các quy định của
BLTTHS về trả hồ sơ về điều tra bổ sung thì việc “không yêu cầu người bào chữa cho
bị can, bị cáo theo quy định tại Khoản 2 Điều 57 BLTTHS” được coi là một trong
những vi phạm nghiêm trọng của thủ tục tố tụng. Và với lý do vi phạm nghiêm trọng
thủ tục tố tụng, Thẩm phán có quyền trả hồ sơ vụ án để điều tra bổ sung và yêu cầu
văn phòng luật sư cử người bào chữa cho C để đảm bảo tiến hành hoạt động tố tụng
theo đúng luật định. Sự tham gia của người bào chữa là cần thiết ngay từ khi khởi tố bị
can, đặc biệt trong trường hợp bị can, bị cáo là người chưa thành niên. Người bào chữa
có quyền tham gia các hoạt động trong quá trình điều tra để tránh các trường hợp tiêu


cực, ảnh hưởng xấu đến bị can, bị cáo vậy nên Thẩm phán ngoài việc yêu cầu người
bào chữa, cần yêu cầu cơ quan điều tra tiến hành lại việc điều tra để đảm bảo quyền lợi
cho C. Việc quy định có người bào chữa bắt buộc trong trường hợp này là nhằm đảm
bảo quyền, lợi ích hợp pháp cho C- một người chưa thành niên.
2.Khi nghiên cứu hồ sơ, Thẩm phán còn phát hiện trước khi thực hiện hành
vi gây thương tích cho A thì B đã cùng với D thực hiện hành vi lừa đảo chiếm đoạt
tài sản của người khác. Thẩm phán phải giải quyết như thế nào? Tại sao?

2


Trong trường hợp này thì Thẩm phán sẽ ra quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung.
Bởi vì: Trong thời hạn chuẩn bị xét xử , Thẩm phán được phân công chủ tọa phiên Tòa
phải nghiên cứu hồ sơ, giải quyết các khiếu nại và yêu cầu của người tham gia tố tụng
và những công việc khác công việc khác cần thiết cho việc mở phiên tòa. Và Thẩm
phán phải ra một trong những quyết định : Đưa vụ án ra xét xử; Trả hồ sơ để điều tra
bổ sung; Đình chỉ hoặc tạm đình chỉ vụ án.
Theo quy định tại khoản 1 điều 179 BLTTHS thì Thẩm phán ra quyết định trả hồ sơ
cho Viện Kiểm sát để điều tra bổ sung trong những trường hợp sau đây:
a) Khi cần xem xét thêm những chứng cứ quan trọng đối với vụ án mà không thể bổ
sung tại phiên tòa được;
b) Khi có căn cứ để cho rằng bị cáo phạm một tội khác hoặc có đồng phạm khác;
c) Khi phát hiện có vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng.
Những vấn đề cần điều tra bổ sung phải được nêu rõ trong quyết định yêu cầu điều tra
bổ sung.
Đối chiếu với quy định trên thì ta thấy Thẩm phán trong trường hợp này phải ra quyết
định trả hồ sơ cho VKS để điều tra bổ sung bởi vì thuộc vào điểm b khoản 1 điều 179
“Khi có căn cứ để cho rằng bị cáo phạm một tội khác hoặc có đồng phạm khác”.
Vấn đề “ tội khác” ở quy định trên được hiểu như thế nào thì căn cứ vào điều 3 Thông
tư liên tịch số 01/2010/TTLT-VKSNDTC-BCA-TANDTC Về hướng dẫn các quy điịnh

của bộ luật tố tụng hình sự về điều tra bổ sung.
Điều 3. Căn cứ để cho rằng bị cáo phạm một tội khác hoặc có đồng phạm khác.
“Có căn cứ để cho rằng bị cáo phạm một tội khác hoặc có đồng phạm khác” quy định
tại điểm b khoản 1 Điều 179 của BLTTHS khi thuộc một trong các trường hợp sau
đây:a) Viện kiểm sát truy tố về một hay nhiều tội, nhưng chứng cứ trong hồ sơ vụ án
cho thấy hành vi của bị can (bị cáo) đã thực hiện cấu thành một hay nhiều tội khác; b)
Ngoài tội phạm đã bị truy tố, chứng cứ trong hồ sơ vụ án cho thấy còn có căn cứ để
khởi tố bị can (bị cáo) về một hay nhiều tội khác; c) Ngoài bị can (bị cáo) đã bị truy

3


tố, chứng cứ trong hồ sơ vụ án cho thấy còn có người đồng phạm khác hoặc có người
phạm tội khác liên quan đến vụ án, nhưng chưa được khởi tố bị can.
Như vậy: Tội khác ở đây có thể là tội mà chưa được VKS truy tố hoặc đã được truy tố
nhưng Tòa án thấy cần phải xử theo tội danh nặng hơn. Đối chiếu với trường hợp trên
thì trong quá trình nghiên cứu hồ sơ Thẩm phán đã phát hiện trước khi thực hiện hành
vi gây thương tích cho A thì B đã cùng D thực hiện hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản
của người khác như vậy B có thể sẽ phạm thêm một tội danh mới ngoài tội danh mà
VKS đã truy tố . Chính vì vậy để tránh trường hợp bỏ lọt tội phạm thì Thẩm phán cần
yêu cầu VKS điều tra bổ sung.
3.Trước khi mở phiên tòa, C yêu cầu thay đổi Thẩm phán được phân công
làm chủ tọa phiên tòa với lý do Thẩm phán là người thân thích của A. Tòa án giải
quyết yêu cầu này như thế nào? Tại sao?
Trong trường hợp trên C là bị cáo nên theo Khoản 2 Điều 43 BLTTHS thì C có quyền
đề nghị thay đổi người tiến hành tố tụng (cụ thể là thẩm phán được phân công chủ tọa
phiên tòa sơ thẩm). Tuy nhiên căn cứ vào Khoản 1 Điều 46 BLTTHS thì lý do mà C
đưa ra phải được Tòa án xem xét tính xác thực. Lúc này có hai trường hợp xẩy ra:
Thứ nhất, nếu sau khi xác thực lý do mà C đưa ra là có căn cứ Thẩm phán được giao
chủ tọa phiên tòa xét xử sơ thẩm có quan hệ thân thích của A thì phải thay đổi Thẩm

phán thì tòa án tiến hành thay đổi Thẩm phán theo yêu cầu của C để đảm bảo tính
khách quan vô tư trong việc giải quyết vụ án. Việc thay đổi Thẩm phán, Hội thẩm
trước khi mở án phiên tòa do Chánh án Tòa án quyết định. Nếu Thẩm phán bị thay đổi
là Chánh án thì do Chánh án Tòa án cấp trên trực tiếp quyết định (theo khoản 2 điều 46
BLTTHS).
Thứ hai, nếu sau khi xác thực lý do mà C đưa ra là không có căn cứ, không đúng sự
thật thì Tòa án sẽ quyết định bác bỏ yêu cầu của bị cáo C, Tòa án tiến hành xét xử sơ
thẩm với Hội đồng xét xử không thay đổi.
4.Giả sử trong giai đoạn điều tra, B và C nhờ người bào chữa nhưng đến
ngày mở phiên tòa, chỉ có người bào chữa của B có mặt còn người bào chữa cho
4


C vắng mặt và cũng không gửi bản bào chữa cho Tòa án. Hội đồng xét xử sẽ giải
quyết như thế nào? Tại sao?
Trong tình huống trên, nếu đến ngày mở phiên toà người bào chữa của C vắng mặt và
cũng không gửi bản báo cáo cho toà án thì Hội đồng xét xử phải hoãn phiên toà.
Quyền bào chữa của người bị tạm giữ (NBTG), bị can, bị cáo (BCBC) được pháp luật
thừa nhận và bảo vệ. Điều 11 Bộ luật tố tụng hình sự quy định: “Người bị tạm giữ, bị
can, bị cáo có quyền tự do bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa. Cơ quan điều tra,
Viện kiểm sát, Toà án có nhiệm vụ bảo đảm cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo thực
hiện quyền bào chữa của họ theo quy định của bộ luật này”. Việc nhà nước quy định
“bào chữa” là quyền của NBTG, BCBC có ý nghĩa rất quan trọng, giúp bảo vệ quyền
lợi của NBTG, BCBC, tạo cho họ cơ hội biện hộ cho bản thân vô tội hoặc giảm nhẹ
trách nhiệm hình sự, đồng thời còn góp phần quan trọng trong việc đảm bảo việc tuân
thủ pháp luật của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
Không chỉ quy định quyền bào chữa của BCBC mà nhà nước còn quy định một số
trường hợp bắt buộc phải có người bào chữa. Khoản 2 Điều 57 BLTTHS quy định,
trong một số trường hợp nếu NBTG, BCBC hoặc người đại diện hợp pháp của họ
không mời được người bào chữa thì cơ quan Điều tra, Viện kiểm sát phải yêu cầu cử

người bào chữa cho họ, đó là các trường hợp: “BCBC về tội theo khung hình phạt có
mức cao nhất là tử hình được quy định tại BLHS; BCBC là người chưa thành niên,
người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể thất”. Những đối tượng này là đối tượng
đặc biệt, quyền lợi của họ rất dễ bị xâm phạm. Do đó cần thiết phải có người bào chữa
nhằm bảo vệ quyền lợi của BCBC, tạo tâm lý bình tĩnh, vững vàng, tránh vì quá hoảng
sợ mà khai không đúng sự thật, đồng thời hạn chế các hành vi gây sức ép đến BCBC
trong quá trình xét xử.
Trong tình huống nêu trên, B là người chưa thành niên (chưa đủ 18 tuổi). Là trường
hợp bắt buộc phải có người bào chữa theo quy định tại khoản 2 điều 57 BLTTHS.

5


TRƯỜNG HỢP 1:
Do đó khi người bào chữa của B không tới tham dự phiên toà, cũng không gửi
bản báo cáo cho toà án, thì theo quy định tại Điều 190 BLTTHS: “Trong trường hợp
bắt buộc phải có người bào chữa theo quy định tại Khoản Điều 57 bộ luật này mà
người bào chữa vắng mặt thì Hội đồng xét xử phải hoãn phiên toà”. Do đó, trong tình
huống trên, hội đồng xét xử phải hoãn phiên toà.
Quy định trên không chỉ nhằm đảm bảo “quyền bào chữa” của BCBC, mà hơn nữa còn
bảo vệ lợi ích của BCBC trong trường hợp BC không đủ khả năng thực hiện quyền bào
chữa của mình. Vì trường hợp này B là người chưa thành niên, nhận thức về pháp luật
cũng như xã hội chưa thật sự đầy đủ, do đó quyền lợi của B rất dễ bị xâm phạm. Sự có
mặt của người bào chữa có ý nghĩa rất quan trọng đối với B này, không chỉ để bào
chữa, giảm nhẹ tội, mà còn là chỗ dựa tinh thần cho, tạo tâm lý thoải mái, ổn định cho
B, đồng thời cũng đảm bảo cho phiên toà diễn ra một cách nghiêm minh, khách quan,
đảm bảo xử lý đúng người, đúng tội.
TRƯỜNG HỢP 2:
Theo khoản 5 Điều 9 thông tư Số: 01/2011/TTLT-VKSTC-TANDTC-BCABTP-BLĐTBXH
Theo điểm c mục 2 và điểm d mục 3 Phần II của Nghị quyết 03/2004/NQ-HĐTP

Thì: Nếu C và người đại diện hợp pháp của C cùng đồng ý không cần người bào
chữa thì cần phải ghi vào biên bản phiên tòa và tiến hành xét xử vụ án theo thủ tục
chung mà không có sự tham gia của người bào chữa đã được lựa chọn.
5. trong thời gian chuẩn bị xét xử, Tòa án nhận được đơn của bà L là mẹ

của A xin không đưa B và C ra xét xử. Tòa án phải giải quyết như thế nào? Tại
sao?
Căn cứ điều 180 quyết định tạm đình chỉ hoặc đình chỉ vụ án : Thẩm phán ra quyết
định tạm đình chỉ vụ án khi có căn cứ quy định tại điều 160 của Bộ luật này;ra quyết
định đình chỉ vụ án khi có một trong những căn cứ quy định tại khoản 2 điều 105 và

6


các điểm 3, 4, 5, 6 và 7điều 107 của Bộ luật này hoặc khi Viện kiểm sát rút toàn bộ
quyết định truy tố trước khi mở phiên tòa...
Căn cứ khoản 2, điều 105 khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của người bị hại: Trong
trường hợp người đã yêu cầu khởi tố rút yêu cầu trước ngày mở phiên tòa sơ thẩm thì
vụ án phải được đình chỉ...”
Như vậy, nếu trong thời gian chuẩn bị xét xử, Tòa án nhận được đơn của bà L là mẹ
của A xin không đưa B và C ra xét xử thì tòa án vẫn tiến hành xét xử bình thường.Vì
trong tình huống đề bài ra, người làm đơn yêu cầu khởi tố vụ án là ông H, bố của A
chứ không phải là bà L mẹ của A, mà theo quy định của luật tố tụng thì người có quyền
rút đơn yêu cầu khởi tố vụ án hình sự phải chính là người làm đơn yêu cầu khởi tố,
mặc dù cả ông H và bà L đều là người đại diện hợp pháp của A chưa thành niên. Nếu
ông H là người xin không đưa B và C ra xét xử ông H sẽ rút đơn khởi tố và như vậy
Tòa án mới có căn cứ hợp pháp để ra quyết định đình chỉ vụ án, B và C mới được miễn
trách nhiệm hình sự thôi không truy tố về tội cố ý gây thương tích.
Tuy vậy, nếu giả định bà L là người nộp đơn khởi tố đề nghị đưa B và C ra xét xử rồi
chính bà L rút đơn thì tòa án vẫn xét xử bình thường vì về phía ông H vẫn chưa rút đơn

khởi tố.
Theo đoạn 2, 3 điều 105: Trong trường hợp có căn cứ để xác định người đã yêu cầu
khởi tố rút yêu cầu khởi tố trái với ý muốn của họ do bị ép buộc, cưỡng bức thì tuy
người đã yêu cầu khởi tố rút yêu cầu, Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án vẫn có
thể tiếp tục tiến hành tố tụng đối với vụ án.
Người bị hại đã rút đơn yêu cầu khởi tố thì không có quyền yêu cầu lại, trừ trường hợp
rút yêu cầu do bị ép buộc.
6.Giả sử tại phiên tòa sơ thẩm, người bào chữa của B xuất trình một tài liệu
khẳng định khi thực hiện hành vi gây thương tích cho A thì B chưa đủ 16 tuổi. Tài
liệu này chưa thể xác minh tại phiên tòa được . Hội đồng xét xử sơ thẩm phải giải
quyết như thế nào? Tại sao?

7


Trong trường hợp này, hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử bình thường mà không
được hoãn phiên tòa. Còn chứng cứ do người bào chữa của B xuất trình sẽ được hội
đồng xét xử xem xét tại tòa. Bởi lẽ: (ĐÁP ÁN NÀY SAI SẼ SỬA BÊN DƯỚI)
Thứ nhất, pháp luật TTHS chỉ quy định các trường hợp sau đây được hoãn phiên tòa:
Thay đổi Kiểm sát viên (điều 45); Thay đổi thẩm phán, hội thẩm (điều 46); Thay đổi
thư kí tòa án(điều 47); Bị cáo vắng mặt có lí do chính đáng (điều 187); Nếu kiểm sát
viên vắng mặt, bị thay đổi mà không có Kiểm sát viên dự khuyết để thay thế (điều
189); Trường hợp bắt buộc phải có người bào chữa mà người bào chữa vắng mặt.(điều
190); Tùy từng trường hợp mà nếu người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự,
người có quyền và nghĩa vụ liên quan đến vụ án hoặc người đại diện hợp pháp của họ
vắng mặt thì phiên ròa có thể bị hoãn (điều 191); Người làm chứng về những vấn đề
quan trọng vắng mặt thì tùy từng trường hợp hội đồng xét xử quyết định hoãn phiên
tòa.(điều 192);Người giám định vắng mặt thì tùy trường hợp có thể hoãn phiên tòa
(điều 93).
Theo những quy định trên, không có quy định hoãn phiên tòa trong trường hợp có

chứng cứ chứng minh quan trọng cho bị cáo. Phiên tòa vẫn được tiến hành bình
thường.
Thứ hai, xuất phát từ trách nhiệm của các cơ quan điều tra. Trước khi xét xử một vụ
án, thì vụ án đã được điều tra kỹ lưỡng, thu thập đầy đủ chứng cứ để chứng minh tội
phạm. Theo quy định tại Điều 63 BLTTHS thì đối tượng chứng minh trong vụ án hình
sự bao gồm 4 vấn đề, một trong 4 vấn đề đó là: “Ai là người thực hiện hành vi phạm
tội; có lỗi hay không có lỗi, cố ý hay vô ý; có năng lực trách nhiệm hình sự hay không;
mục đích và động cơ phạm tội.”
Nhân thân người phạm tội là yếu tố bắt buộc chứng minh trong mỗi vụ án, có thể bao
gồm: tuổi, xuất thân, quá trình sống và học tập trước đây…Chỉ khi những chứng cứ
này được xác thực thì vụ án mới được đưa ra xét xử. Trách nghiệm của cơ quan điều
tra phải đảm bảo độ chính xác của từng chứng cứ. Khi người bào chữa đưa ra một
chứng cứ để cho rằng khi B phạm tội dưới 16 tuổi thì có thể đưa chứng cứ này so sánh
8


với những chứng cứ về nhân thân của người phạm tội trong hồ sơ vụ án. Thẩm phán
xem xét và có thể sau khi nghị án quyết định quay trở lại giai đoạn xét hỏi để kiểm tra
chứng cứ (theo điều 223).
Như vậy, trong trường hợp này phiên tòa không được hoãn mà vẫn phải tiến hành bình
thường. Mọi chứng cứ do người bào chữa đưa ra sẽ được xem xét tại phiên tòa.
ĐÁP ÁN ĐÚNG
Theo điểm đ khoản 2 Điều 1 Thông tư liên tịch 01/2010 thì Tài liệu chứng minh
tuổi của B và C khi thực hiện hành vi phạm tội là tài liệu quan trọng vì nó quyết định
độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự của B và C.
Căn cứ khoản 3 Điều 1 Thông tư liên tịch 01/2010 quy định : “Hội đồng xét xử
(tại phiên tòa) ra quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung khi cần xem xét thêm những
chứng cứ quan trọng đối với vụ án được hướng dẫn tại khoản 1, khoản 2 Điều này mà
xét thấy không thể bổ sung tại phiên tòa được”
Căn cứ khoản 2 Điều 199 BLTTHS thì : “Quyết định về việc yêu cầu điều tra bổ

sung phải được thảo luận và thông qua tại phòng nghị án và phải được lập thành văn
bản”.
Vì không xác minh được tài liệu trên ngay tại tòa nên Hội đồng xét xử phải trả
hồ sơ điều tra bổ sung.
7.Giả sử Hội đồng xét xử sơ thẩm áp dụng Khoản 1 Điều 104 BLHS tuyên
phạt tù các bị cáo. Ông H kháng cáo yêu cầu chuyển khung hình phạt nặng hơn
đối với các bị cáo. Hội đồng xét xử phúc thẩm phải giải quyết như thế nào và tại
sao, nếu:
a, Có căn cứ chuyển khung hình phạt nặng hơn;
b, Không có căn cứ để chuyển khung hình phạt nặng hơn nhưng có căn cứ giảm
nhẹ hình phạt với B và C.
Câu này trong bài bạn ấy gửi bị thiếu.
a. Theo tớ căn cứ khoản 3 Điều 249 BLTTHS thì HĐXX chỉ sưả bản án theo
hướng chuyển khung hình phạt nặng hơn khi có kháng nghị của VKS hoặc kháng
9


cáo của người bị hại theo hướng đó. Ông H chỉ là người đại diện hợp pháp thui.
Trường hợp này ông H có quyền kháng cáo nhưng không làm ảnh hưởng đến
quyết định của HĐXX
b. Theo tớ thì khi có căn cứ hợp pháp để giảm nhẹ hình phạt với C thì
HĐXXPT có quyền giảm nhẹ hp đối với C theo khoản 2 Điều 249. Như vậy
HĐXX sẽ ra quyết định sửa bản sơ thẩm theo hướng đó.
8.Giả sử tại phiên tòa phúc thẩm, C cung cấp tài liệu xác định Thẩm phán
tiến hành tố tụng tại phiên tòa sơ thẩm là người thân thích của người bị hại. Hội
đồng xét xử phải giải quyết như thế nào nếu chứng minh tài liệu C cung cấp là
chính xác?
Nếu chứng minh được tài liệu mà C cung cấp là chính xác thì Hội đồng xét xử phải ra
quyết định hủy bản án sơ thẩm để xét xử lại ở cấp sơ thẩm với thành phần Hội đồng
xét xử mới.

Căn cứ theo Điểm a Khoản 2 Điều 250 BLTTHS 2003 thì nếu Thẩm phán tiến hành tố
tụng tại phiên tòa sơ thẩm là người thân thích của người bị hại thì thành phần Hội xét
xử sơ thẩm đó đã không đảm bảo quy định của pháp luật tố tụng và cần thiết phải hủy
bản án sơ thẩm để xét xử lại với thành phần Hội đồng xét xử mới. Thêm nữa theo như
Khoản 1 Điều 42 BLTTHS 2003 thì việc tiến hành hoạt động tố tụng đúng luật đòi hỏi
Thẩm phán có mối quan hệ thân thích với người bị hại (là A) phải từ chối hoặc bị thay
đổi trước khi tiến hành tố tụng tại phiên tòa sơ thẩm. Điều này đã ảnh hưởng đến tính
khách quan, chính xác của bản án sơ thẩm. Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo đã cung
cấp những tài liệu tin cậy thì Hội đồng xét xử phúc thẩm đã có đủ cơ sở để ra quyết
định hủy bản án sơ thẩm, yêu cầu xét xử lại ở cấp sơ thẩm với thành phần Hội đồng xét
xử mới. Cách giải quyết này đã phủ nhận bản án sơ thẩm có dấu hiệu thiếu khách
quan( hủy bản án sơ thẩm) đồng thời loại bỏ nhân tố dẫn tới sự thiếu khách quan đó
(thay đổi thành phần Hội đồng xét xử). Vụ án trên sẽ được xét xử lại theo thủ tục sơ
thẩm nhằm thực hiện nguyên tắc bảo đảm sự vô tư của những người tiến hành tố tụng
(Điều 14 BLTTHS 2003).
10


Về thủ tục, Hội đồng xét xử phúc thẩm khi hủy bản án sơ thẩm để điều tra lại hoặc xét
xử lại phải ghi rõ lý do của việc hủy bản án sơ thẩm. Trong trường hợp này lý do hủy
bản án sơ thẩm căn cứ theo Điểm a Khoản 2 Điều 250 BLTTHS 2003. Khi hủy bản án
sơ thẩm để xét xử lại, Tòa án cấp phúc thẩm không quyết định trước những chứng cứ
mà Tòa án cấp sơ thẩm cần phải chấp nhận hoặc cần phải bác bỏ, cũng như không
quyết định trước về điều khoản Bộ luật hình sự và hình phạt mà Tòa án cấp sơ thẩm sẽ
phải áp dụng. Điều này nhằm đảm bảo sự độc lập của Tòa án cấp sơ thẩm khi tiến hành
xét xử sơ thẩm lại.
9.Giả sử chỉ có C kháng cáo bản án sơ thẩm, ngoài ra không còn có kháng
cáo, kháng nghị nào khác. Tại phiên tòa phúc thẩm, C rút toàn bộ kháng cáo của
mình. Tòa án cấp phúc thẩm phải giải quyết như thế nào nếu thấy bản án sơ thẩm
đối với C là quá nhẹ? Tại sao?

Căn cứ theo khoản 2 Điều 238 về bổ sung, thay đổi, rút kháng cáo, kháng nghị có quy
định “ Trong trường hợp rút toàn bộ kháng cáo, kháng nghị tại phiên tòa thì việc xét
xử phúc thẩm phải được đình chỉ, bản án sơ thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày Tòa
án cấp phúc thẩm ra quyết định đình chỉ việc xét xử phúc thẩm” . Vậy căn cứ điều luật
này vào vụ án trên, ta thấy nếu C là người duy nhất có kháng cáo bản án sơ thẩm,
ngoài ra không còn ai khác kháng cáo kháng nghị bản án nữa, mà tại phiên Tòa C đã
rút toàn bộ kháng cáo của mình thì: (1) Ghi vấn đề này vào biên bản; (2) việc xét xử
phúc thẩm sẽ phải được đình chỉ, việc ra quyết định đình chỉ sẽ do Hội đồng xét xử
thực hiện. Và bản án sơ thẩm có hiệu lực pháp luật từ ngày Tòa án cấp phúc thẩm ra
quyết định đình chỉ vụ án. Khi việc xét xử phúc thẩm đã được đình chỉ, thì bản án sơ
thẩm có hiệu lực pháp luật, và C sẽ phải chịu trách nhiệm hình sự theo quyết định của
bản án sơ thẩm đó. Nếu thấy bản án sơ thẩm đối với C là quá nhệ thì theo Điều 274
BLTTHS về việc phát hiện bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật cần xét lại
theo thủ tục giám đốc thẩm thì: Nếu thấy bản án sơ thẩm đối với C là quá nhẹ thì Tòa
án cấp phúc thẩm có thể thông báo cho người có quyền kháng nghị quy định theo Điều
275 BLTTHS.
11


10.Nếu bản án phúc thẩm bị kháng nghị, Tòa án có thẩm quyền xét lại bản
án đó có thể sửa bản án này theo hướng tăng nặng hình phạt đối với C hay không
nếu thấy yêu cầu của kháng nghị là có căn cứ? Tại sao?
Khẳng định trên là sai, căn cứ theo Điều 285 của BLTTHS năm 2003 quy định
về thẩm quyền của Hội đồng giám đốc thẩm thì:
“Hội đồng giám đốc thẩm có quyền ra quyết định:
1.Không chấp nhận kháng nghị và giữ nguyên bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực
pháp luật.
2. Hủy bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật và đình chỉ vụ án;
3.Hủy bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật để điều tra hoặc xét xử lại”
Tòa án cấp giám đốc thẩm khi xét xử không có quyền sửa bản án hoặc quyết

định đã có hiệu lực pháp luật theo bất cứ hướng nào, kể cả trường hợp có lợi cho người
bị kết án. Tòa án cấp giám đốc thẩm chỉ xem xét trong quá trình xét xử tòa án có áp
dụng đúng quy định của pháp luật khi bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật bị
kháng nghị hay chưa chứ không xem xét về sự việc, vốn thuộc thẩm quyền của tòa án
cấp dưới khi xem xét và giải quyết vụ án về nội dung. Như vậy có thể hiểu rằng Tòa
án cấp giám đốc thẩm không có nhiệm vụ xét xử lại vụ án như Tòa án phúc thẩm mà
chỉ xem xét, đối chiếu bản án, quyết định kháng nghị bị kháng nghị giám đốc thẩm
xem có đảm bảo tính căn cứ và tính hợp pháp không, tức việc giải quyết vụ án đã đúng
với quy định của BLTTHS và tuân theo thủ tục tố tụng theo quy định pháp luật chưa.
BỔ SUNG
Không thể sửa bản án này theo hướng tăng nặng hình phạt đối với C bởi vì:
+ Bản án phúc thẩm bị kháng nghĩ sẽ được xem xét theo thủ tục giám đốc thẩm
hoặc tái thẩm quy định tại Điều 272 và 290 BLTTHS. Hai thủ tục này chỉ mang tính
chất xem xét, không phải hoạt động xét xử.
+ Thẩm quyền của HĐGĐT và HĐTT được quy định tại điều 285 và Điều 298
BLTTHS không cho phép HĐGĐT hay HĐTT được sửa bản án phúc thẩm

12


+ Theo khoản 3 Điều 249 BLTTHS thì quyền sửa bản theo hướng tăng nặng nếu
có căn cứ hợp pháp là TAPT

13



×