Tải bản đầy đủ (.doc) (9 trang)

Chứng minh rằng quá trình xây dựng, hoàn thiện các quy định về cách xác định và quy chế pháp lý của thềm lục địa trong luật biển quốc tế thể hiện rõ s

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (84.65 KB, 9 trang )

Lời mở đầu
Trong giai đoạn hiện nay, tài nguyên thiên nhiên ngày càng trở nên quan
trọng với mọi quốc gia. Thềm lục địa là nới chứa nhiều tài nguyên quý giá, vì vậy
đang là đối tượng tranh chấp của nhiều quốc gia. Để giải quyết vấn đề này, em xin
nghiên cứu đề tài “chứng minh rằng quá trình xây dựng, hoàn thiện các quy định
về cách xác định và quy chế pháp lý của thềm lục địa trong luật biển quốc tế thể
hiện rõ sự bình đẳng giữa các quốc gia trong khai thác và sử dụng biển”.

Nội dung
1. Khái quát một số vấn đề về thềm lục địa
a. Khái niệm thềm lục địa
- Khái niệm thềm lục địa theo nghĩa địa chất: thềm lục địa là một bộ phận
của rìa lục địa. Rìa lục địa chiếm 22% bề mặt đại dương, là phần kéo dài ngập dưới
nước của lục địa của quốc gia ven biển và được cấu thành từ 3 thành phần gồm
thềm lục địa, dốc lục địa và bờ lục địa. Thềm lục địa là phần ngập dưới nước với
độ dốc thoai thoải (độ dốc trung bình 0,07 – 1%) thường kéo dài đến độ sâu 200m.
- Khái niệm thềm lục địa theo nghĩa pháp lý
+ Theo Công ước Giơnevơ 1958 về thềm lục địa, thềm lục địa pháp lý được
hiểu là đáy và lòng đất dưới đáy của các khu vực ngầm dưới biển, tiếp giáp với bờ
biển nhưng nằm ngoài lãnh hải và ra đến độ sâu 200m nước hoặc vượt ra ngoài
giới hạn đó ra đến độ sâu cho phép khai thác được tài nguyên thiên nhiên của khu
vực ngầm dưới biển đó.
+ Theo Công ước Luật biển 1982 của Liên hợp quốc, thềm lục địa của một
quốc gia ven biển bao gồm đáy biển và lòng đất dưới đáy biển bên ngoài lãnh hải
của quốc gia ven biển, trên toàn bộ phần kéo dài tự nhiên của lãnh thổ đất liền của
quốc gia đócho đến bờ ngoài của rìa lục địa hoặc đến cách đường cơ sở dung để
tính chiều rộng lãnh hải 200 hải lý, khi bờ ngoài của rìa lục địa của quốc gia này ở
khoảng cách gần hơn.
b. Lịch sử hình thành khái niệm pháp lý thềm lục địa
- Thuật ngữ thềm lục đai được vay mượn từ từ vựng địa chất trước khi được
các nhà pháp lý sử dụng. Nó được Hugh Robert Mill sử dụng lần đầu tiên vào năm


1887. Sau đó xuất hiện trong các đề nghị của nhà hải dương học Tây Ban Nha
Odon de Buen năm 1916, các chuyên gia Arhentina Storny và Suarez, người Bồ
Đào Nha Almeida d’Eca năm 1921, tuyên bố của chính phủ Nga Hoàng năm 1916.
1


- Hiệp ước giữa Anh và Vênêzuela năm 1942 về phân định vùng biển trong
vịnh Paria đã nêu ra khái niệm vùng phân định là “ vùng đáy biển và lòng đất dưới
đáy biển nằm ngoài vùng nước lãnh thổ”.
- Sắc lệnh của Tổng thống Arhentina năm 1944 Điều 2 “ vùng biển gần lục
địa của Arhentina sẽ là vùng tạm thời bảo tồn khoáng sản”.
- Tuyên bố của Tổng thống Mỹ Truman năm 1945: “ coi các nguồn tài
nguyên thiên nhiên của lòng đất dưới đáy biển và của đáy biển của thềm lục địa
nằm dưới biển cả và vùng tiếp giáp với bờ biển cả của Hợp chủng quốc Hoa kì là
thuộc Hoa Kỳ”.
- Các quy định trong Công ước Giơnevơ về thềm lục địa và Công ước 1982
của Liên hợp quốc về Luật biển.
2. Quá trình xây dựng và hoàn thiện các quy định về cách xác định
thềm lục địa thể hiện rõ sự bình đẳng giữa các quốc gia trong khai thác và sử
dụng biển.
Các quy định về cách xác định thềm lục địa được quy định trong Công ước
Giơnevơ 1958 về thềm lục địa và Công ước Luật biển 1982 của Liên hợp quốc.
Vấn đề thềm lục địa trong Công ước Giơnevơ 1958 về thềm lục địa và Công
ước luật Biển 1982 của Liên hợp quốc được xây dựng và hoàn thiện trên hai tiêu
chí chính là:
- Thềm lục địa là phần kéo dài tự nhiên của lục địa quốc gia ven biển
- Giới hạn thềm lục địa của quốc gia ven biển.
a. Thềm lục địa là phần kéo dài tự nhiên của lục địa quốc gia ven biển
Ngay từ đầu, khi khái niệm thềm lục địa được đặt ra trong thực tiễn pháp lý,
thuyết thềm lục địa là phần kéo dài tự nhiên của đất liền đã được sử dụng. Tại Hội

nghị lần thứ nhất I của Liên hiệp quốc về Luật biển 1958, trong quá trình thảo luận,
quan điểm thềm lục địa là phần kéo dài tự nhiên của lục địa quốc gia ven biển đã
được thừa nhận rộng rãi, tuy nhiên quan điểm này lại không được thể hiện trong
Công ước 1958 về thềm lục địa.
- Công ước Giơnevơ 1958 về thềm lục địa đã đưa ra cách xác định thềm lục
địa: “ là đáy và lòng đất dưới đáy của các khu vực ngầm dưới biển, tiếp giáp với
bờ biển nhưng nằm ngoài lãnh hải và ra đến độ sâu 200m nước hoặc vượt ra
ngoài giới hạn đó ra đến độ sâu cho phép khai thác được tài nguyên thiên nhiên
của khu vực ngầm dưới biển đó” (Điều 1).
2


Cách xác định của Công ước Giơnevơ 1958 đã thừa nhận quyền chủ quyền
của quốc gia ven biển đối với việc thăm dò và khai thác tài nguyên thiên nhiên của
đáy biển và lòng đất dưới đáy biển.
Tuy nhiên cách xác định thềm lục địa của Công ước 1958 đã lấy những yếu
tố địa lý chứ không lấy những yếu tố địa chất làm cơ sở. Cách xác định này không
được xây dựng trên cơ sở của một sự thật rằng thềm lục địa là sự kéo dài tự nhiên
của lục địa quốc gia ven biển. Điều đó dẫn đến là cách xác định này không có
những tiêu chuẩn làm cơ sở để xây dựng chế độ của thềm. Mặc dù vùng thềm lục
địa đã được quy định trong Công ước nhưng không một ai có thể xác định được
rằng dốc và khối nhô lục địa có thuộc thành phần thềm lục địa hay không, thềm lục
địa bắt đầu từ đâu, biển cả bắt đầu từ đâu. Chính vì vậy mà không chỉ riêng các luật
gia mà cả các quốc gia ven biển đã đưa ra những lời giải thích khác nhau về thành
phần thềm lục địa tuỳ theo lợi ích riêng.
- Tại Hội nghị quốc tế lần thứ III của Liên hợp quốc về luật biển, xu hướng
chung mang tính khẳng định là phải lấy thuyết kéo dài tự nhiên làm cơ sở và phải
bao hàm những tiêu chuẩn khách quan – tiêu chuẩn khoảng cách và tiêu chuẩn độ
sâu làm chỗ dựa để quy định ranh giới thềm lục địa và vùng đáy biển quốc tế. Do
đa số các đoàn đại biểu chấp thuận thuyết kéo dài tự nhiên nên nó đã được nêu

trong Văn bản duy nhất – 1976.
- Đến Công ước luật Biển 1982 của Liên hợp quốc đã đưa ra cách xác định
hoàn toàn mới so với Công ước Giơnevơ 1958, trước hết đó là quy định nói rằng
thềm lục địa là phần kéo dài tự nhiên của lục địa quốc gia ven biển.
Khoản 1 Điều 76 Công ước 1982 quy định: “ thềm lục địa của một quốc gia
ven biển bao gồm đáy biển và lòng đất dưới đáy biển bên ngoài lãnh hải của quốc
gia đó, trên toàn bộ phần kéo dài tự nhiên của lãnh thổ đất liền của quốc gia đó
cho đến bờ ngoài của rìa lục địa, hoặc đến cách đường cơ sở dùng để tính chiều
rộng lãnh hải 200 hải lí, khi bờ ngoài của rìa lục địa của quốc gia đó ở khoảng
cách gần hơn”. Tiếp theo Công ước quy định: “rìa lục địa là phần kéo dài ngập
dưới nước của lục địa của quốc gia ven biển, cấu thành bởi đáy biển tương ứng
với thềm, dốc và bờ, cũng như lòng đất dưới đáy của chúng. Rìa lục địa không bao
gồm các đáy của đại dương ở độ sâu lớn, với các dải núi đại dương của chúng,
cũng không bao gồm lòng đất dưới đáy của chúng” (Khoản 3 Điều 76). Công ước
còn nhấn mạnh ranh giới phía ngoài của thềm lục địa “ không được nằm cách
3


đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải quá 350 hải lý hoặc không được quá
100 hải lý từ đường đẳng sâu 2.500 mét…”(Khoản 5 Điều 76), và trong mọi trường
hợp ranh giới phía ngoài của thềm lục địa không được vượt quá 350 hải lý kể từ
đường cơ sở (Khoản 6 Điều 76). Như vậy, Công ước 1982 quy định thềm lục địa
bao gồm toàn bộ vành đai lục địa, tức là bao gồm bề mặt và lòng đất của thềm, dốc
và khối nhô lục địa. Để đảm bảo công bằng giữa các quốc gia có thềm rộng và
quốc gia có thềm hẹp, và để phù hợp với tương quan lợi ích giữa các quốc gia ven
biển và tất cả các quốc gia khác, trong mọi trường hợp, thềm lục địa không được
phép mở rộng quá 350 hải lý kể từ đường cơ sở mặc dù vành đai lục địa ở đó vượt
quá giới hạn này. Những quy định rõ ràng của Công ước đảm bảo cho các quốc gia
bình đẳng trong xác định thềm lục địa.
b. Giới hạn thềm lục địa của quốc gia ven biển

- Ranh giới phía trong của thềm lục địa
+ Công ước Giơnevơ 1958 về thềm lục địa quy định, thềm lục địa là một
phần của đáy biển, tiếp giáp với bờ biển nhưng nằm ngoài lãnh hải. Như vậy, ranh
giới phía trong thềm lục địa trùng với ranh giới phía ngoài lãnh hải. Tuy vậy, trong
Công ước Giơnevơ về lãnh hải và vùng tiếp giáp lãnh hải – 1958 lại không có
những điều khoản về chiều rộng tối đa của lãnh hải. Hậu quả là ranh giới phía
trong của thềm lục địa được quy định tuỳ thuộc vào lợi ích của mỗi quốc gia. Do
vậy, ranh giới phía trong của thềm lục địa là chưa được xác định. Điều này gây bất
bình đẳng giữa các quốc gia.
+ Theo quy định của Công ước Giơnevơ 1958 và Công ước 1982, ranh giới
phía trong của thềm lục địa trùng với ranh giới phía ngoài của lãnh hải. Tuy nhiên,
trong Công ước 1982 quy định chiều rộng tối đa của lãnh hải là 12 hải lý kể từ
đường cơ sở, do đó sẽ có giá trị bắt buộc đối với các quốc gia khi xác định chiều
rộng lãnh hải. Quy định này sẽ khắc phục được sự không rõ ràng của Công ước
Giơnevơ.
- Ranh giới phía ngoài của thềm lục địa
+ Công ước Giơnevơ 1958 đưa ra hai tiêu chuẩn để xác định ranh giới phía
ngoài của thềm lục địa, thứ nhất là tiêu chuẩn “độ sâu” 200m và tiêu chuẩn thứ
hai là “ khả năng khai thác” hoặc “lợi thế kỹ thuật”.
Tiêu chuẩn “độ sâu” 200 mét được coi là tiêu chuẩn cụ thể, xác định rõ ràng chiều
rộng của thềm. Nhưng chính tiêu chuẩn này lại không hợp lý bởi vì đối với quốc
4


gia có thềm lục địa rộng và nông mà áp dụng tiêu chuẩn này thì có được vùng thềm
lục địa rộng, quốc gia có thềm lục địa sâu thì việc áp dụng tiêu chuẩn độ sâu gây
thiệt hại cho quốc gia ven biển này. Vậy những quy định của Công ước về tiêu
chuẩn “độ sâu” có thể đưa đến tình trạng không công bằng giữa các quốc gia ven
biển trong việc quy định chiều rộng của thềm lục địa.
Tiêu chuẩn lợi thế kỹ thuật càng bất hợp lý, tiêu chuẩn này mang tính chất tương

đối và không ổn định vì nó không được xây dựng trên cơ sở khách quan, tức là
không dựa vào bản chất và đặc điểm chính của thềm lục địa mà trên cơ sở phụ
thuộc vào lợi thế của quốc gia ven biển trong việc khai thác tài nguyên thiên nhiên.
Do vậy tiêu chuẩn này là không chuẩn xác và tuỳ tiện. Chính tiêu chuẩn lợi thế kỹ
thuật đã triệt tiêu giá trị của tiêu chuẩn độ sâu nước 200 mét và tạo ra tình trạng
không ổn định đối với vấn đề ranh giới phía ngoài của thềm lục địa. Tiêu chuẩn
này là bất hợp lý, bất bình đẳng bởi nó chỉ có lợi cho các quốc gia phát triển có nền
khoa học công nghệ tiên tiến.
+ Đến Công ước luật Biển 1982 của Liên hợp quốc, Công ước đưa ra hai
tiêu chuẩn để xác định ranh giới phía ngoài của thềm lục địa: tiêu chuẩn khoảng
cách và tiêu chuẩn độ sâu.
Theo tiêu chuẩn khoảng cách kể từ đường cơ sở, ranh giới phía ngoài của thềm lục
địa có thể xác định bằng 3 cách:
√ Lấy bờ ngoài của rìa lục địa khi bờ ngoài này cách đường cơ sở 200 hải lý;
√ Lấy khoảng cách 200 hải lý kể từ đường cơ sở khi vành đai lục địa chưa mở rộng
đến 200 hải lý;
√ Lấy khoảng cách tối đa không quá 350 hải lý kể từ đường cơ sở ở những nơi
thềm lục địa mở rộng ra quá 200 hải lý.
Như vậy, chiều rộng tối thiểu của thềm lục địa là 200 hải lý kể từ đường cơ sở khi
bề ngoài của rìa lục địa cách đường cơ sở không đến 200 hải lý, ranh giới này
trùng hợp với ranh giới phía ngoài của vùng đặc quyền kinh tế. Chiều rộng tối đa
của thềm lục địa không quá 350 hải lý kể từ đường cơ sở hoặc không quá 100 hải
lý từ đường đẳng sâu 2.500 mét (Khoản 5 Điều 76 ).
Theo tiêu chuẩn độ sâu, ranh giới phía ngoài của thềm lục địa có thể được thiết lập
bằng cách lấy khoảng cách không quá 100 hải lý kể từ đường đẳng sâu 2.500 mét
là đường nối liền các điểm có cùng chiều sâu 2.500 mét nước.

5



Các quốc gia ven biển có quyền hoạch định ranh giới phía ngoài của thềm lục địa
theo quy định tại khoản 7 Điều 76 Công ước mới.
Rõ ràng có thể thấy đến Công ước 1982 việc xác định giới hạn thềm lục địa đã trở
nên rất rõ ràng, tạo ra sự bình đẳng cho các quốc gia ven biển.
3. Quá trình xây dựng và hoàn thiện các quy định về quy chế pháp lý
của thềm lục địa trong luật quốc tế thể hiện rõ sự bình đẳng giữa các quốc gia
trong khai thác và sử dụng biển.
a.Quy định về quyền và nghĩa vụ của quốc gia có thềm lục địa
- Công ước Giơ-ne-vơ 1958 về thềm lục địa quy định quyền của quốc gia
ven biển đối với thềm lục địa tại Khoản 1 Điều 2 “ quốc gia ven biển thực hiện các
quyền chủ quyền của mình đối với thềm lục địa nhằm thăm dò và khai thác tài
nguyên thiên nhiên của vùng này”. Các quyền của quốc gia được quy định là
“quyền chủ quyền” chứ không phải là chủ quyền. Tính chất chủ quyền của quốc gia
ven biển đối với thềm lục địa được quy định dứt khoát ở Khoản 2 Điều 2 “các
quyền nói ở khoản 1 là “riêng biệt””, có nghĩa là nếu quốc gia ven biển không
thăm dò thềm lục địa hoặc không khai thác tài nguyên thiên nhiên của thềm lục địa
thì đó là việc riêng của quốc gia ven biển và không ai có quyền tiến hành các hoạt
động như vậy hoặc đòi hỏi bất kỳ một quyền gì đối với thềm lục địa ấy, nếu không
có sự thoả thuận rõ ràng của quốc gia đó. Có thể nói các quyền ghi ở Điều 2 Công
ước là những đặc quyền đối với thềm lục địa mà Công ước thừa nhận đối với quốc
gia ven biển.
Các quyền chủ quyền của quốc gia ven biển đối với thềm lục địa là các quyền có
định hướng, cụ thể các quyền ấy được hướng vào mục đích kinh tế là sử dụng tài
nguyên thiên nhiên của thềm lục địa. Quy định này tránh việc các quốc gia giải
thích sai lệch theo lợi ích riêng của họ. Các quốc gia ven biển có quyền ban hành
luật lệ và bảo vệ lợi ích ở thềm lục địa.
Khoản 4 Điều 2 Công ước quy định: các tài nguyên thiên nhiên của thềm lục địa
bao gồm các tài nguyên khoáng sản và các tài nguyên không sinh vật khác của đáy
biển và lòng đất dưới đáy biển cũng như các sinh vật thuộc loại định cư, nghĩa là
những sinh vật vào thời kỳ đánh bắt đặc thù hoặc là nằm bất động ở đáy và lòng

đất dưới đáy biển, hoặc có thể di chuyển cùng với sự di chuyển của đáy biển hay
lòng đất dưới đáy biển.

6


Quốc gia ven biển có quyền xây dựng, duy trì, khai thác và sử dụng ở thềm lục địa
các công trình thiết bị và các công trình khác cần thiết cho việc thăm dò, khai thác
tài nguyên thiên nhiên (Khoản 2 Điều 5), các quốc gia có quyền thiết lập vùng an
toàn xung quanh thiết bị, công trình với chiều rộng không quá 500 mét (Khoản 2
và 3 Điều 5). Quốc gia có quyền khai thác lòng đất của thềm lục địa, được quyền
đào đường hầm không kể độ sâu của vùng nước nằm trên thềm lục địa (Điều 7).
Trong khi thực hiện các quyền của mình trên thềm lục địa, quốc gia ven biển
không được gây thiệt hại đến hàng hải quốc tế hay các quyền tự do khác ở biển cả
đã được luật pháp quốc tế thừa nhân như tự do bơi lội, tự do bay, tự do đánh cá…
Khi xây dựng các công trình thiết bị trên thềm, quốc gia ven biển phải thông báo
cho các quốc gia khác về sự tồn tại của chúng, phải tháo bỏ khi không còn sử dụng,
vị trí không được gây phương hại đến hàng hải quốc tế. Không được cản trở quốc
gia khác lắp đặt dây cáp và ống ngầm trên thềm. Không được gây cản trở cho việc
nghiên cứu khoa học (Khoản 1 Điều 5).
- Công ước 1982 về luật biển quy định quyền của quốc gia ven biển trong Điều 77.
Trong đó các Khoản 1, 2, 3 và 4 Điều 77 quy định về khối lượng các quyền, quyền
chủ quyền của quốc gia ven biển đối với thềm lục địa, tính chất của các quyền này
- quyền thuộc về chủ quyền là riêng biệt, và mục đích thực hiện các quyền đó nhằm thăm dò và khai thác tài nguyên thiên nhiên, định nghĩa tài nguyên thiên
nhiên. Các quy định này giống với các quy định tại Khoản 1, 2, 3 và 4 Công ước
Giơnevơ 1958 về thềm lục địa. Vấn đề đào đường hầm để khai thác lòng đất không
thay đổi so với Công ước 1958.
Công ước 1982 quy định thêm vùng đặc quyền kinh tế, như vậy đã trả lại quyền
đối với tài nguyên sinh vật ở vùng nước cho quốc gia ven biển. Các quy định về
các đảo nhân tạo, công trình thiết bị ở thềm lục địa so với Công ước 1958 có nhiều

điểm mới hơn, đó là việc quy định về các đảo nhân tạo, mục đích của việc xây
dựng các công trình thiết bị, các đảo nhân tạo được Công ước quy định cụ thể hơn,
đó là vào các mục đích thăm dò thềm, khai thác tài nguyên thiên nhiên và các mục
đích khác (Điều 80). Công ước 1982 quy định rõ hơn về vùng an toàn của các công
trình, thiết bị và đảo nhân tạo, tất cả tầu thuyền phải tôn trọng các vùng an toàn
này. Quốc gia ven biển có đặc quyền cho phép và quy định việc khoan ở thềm lục
địa vào bất cứ việc gì (Điều 81). Quốc gia ven biển có quyền không đồng ý cho
quốc gia khác lắp đặt dây cáp ngầm theo Điều 79, có quyền quy định cho phép hay
7


không cho phép tiến hành nghiên cứu khoa học ở thềm lục địa của mình (Khoản 1
Điểu 246). Có quyền tài phán trong bảo vệ môi trường biển (Điều 208).
Ngoài các nghĩa vụ theo quy định tại Công ước 1958, Công ước 1982 quy định
trong mọi trường hợp quốc gia ven biển không được thực hiện quyền chủ quyền
của mình đối với phần thềm lục địa nằm ngoài giới hạn 350 hải lý kể từ đường cơ
sở cho dù thềm lục địa ở đó có thể vượt quá giới hạn này. Quốc gia ven biển phải
nộp cho cơ quan quốc tế về đáy biển một phần lợi nhuận bằng tiền hoặc hiện vật
trích từ lợi nhuận khai thác tài nguyên không sinh vật của phần thềm lục địa nằm
ngoài 200 hải lý (Điều 82). Khoản đóng góp này sẽ được chia đều cho các quốc
gia. Trong điều kiện bình thường cần cho phép nghiên cứu khoa học tại thềm lục
địa.
b. Quyền và nghĩa vụ của các quốc gia khác
- Công ước Giơ-ne-vơ 1958 về thềm lục địa quy định các quốc gia khác có
quyền đặt ống dẫn và dây cáp ngầm trên thềm lục địa của quốc gia ven biển (Điều
4).
Các quốc gia có quyền tiến hành nghiên cứu khoa học trên thềm lục địa của quốc
gia khác ( khoản 1 Điều 5). Đồng thời với quyền này, các quốc gia có nghĩa vụ xin
phép quốc gia ven biển về việc nghiên cứu, công bố kết quả nghiên cứu cho quốc
gia có thềm lục địa biết.

Các quốc gia khác có nghĩa vụ tôn trọng quyền chủ quyền đối với thềm lục địa của
quốc gia ven biển.
- Trong Công ước 1982 của Liên hợp quốc về luật biển quy định các quốc
gia khác có quyền đặt ống dẫn và dây cáp ngầm (Điều 79), tuy nhiên việc lắp đặt
không được cản trở việc quốc gia ven biển thực hiện quyền của mình tiến hành
khai thác, thăm dò thềm lục địa, ngăn ngừa ô nhiễm do dây cáp và ống dẫn ngầm.
Việc lắp đặt phải được sự đồng ý của quốc gia ven biển. Khi lắp đặt dây cáp và ống
dẫn ngầm các quốc gia phải tiến hành những biện pháp phòng ngừa cần thiết đối
với các dây cáp và ống dẫn ngầm đã được lắp đặt từ trước.
Quyền nghiên cứu khoa học được quy định tại Điều 246 của Công ước mới, các
quốc gia khi tiến hành nghiên cứu khoa học cần xin phép và phải được sự cho phép
của quốc gia ven biển mới được tiến hành nghiên cứu.

8


Các quốc gia khác được chia một phần lợi nhuận bằng tiền hoặc hiện vật trích từ
lợi nhuận khai thác tài nguyên không sinh vật của phần thềm lục địa nằm ngoài
200 hải lý (Khoản 4 Điều 82).
Các quốc gia có nghĩa vụ tôn trọng quyền chủ quyền đối với thềm lục địa của quốc
gia ven biển.

Lời kết
Qua quá trình phát triển, chúng ta có thể thấy Luật biển quốc tế ngày càng
hoàn thiện hơn. Công ước 1982 đóng vai trò quan trọng trong việc giải quyết
các tranh chấp quốc tế.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Giáo trình Luật quốc tế _ Trường Đại học Luật Hà Nội _ Nxb Công an

nhân dân;
2. Công ước Giơnevơ 1958 về thềm lục địa;
3. Công ước 1982 của Liên hợp quốc về Luật biển;
4. Thềm lục địa - Những vấn đề pháp lý quốc tế,Phạm Ngọc Chi;
5. Luật biển,Nguyễn Ngọc Minh;
6. Luật biển quốc tế hiện đại,Lê Mai Anh chủ biên,Nxb Lao động;
7. Luật quốc tế - Lí luận và thực tiễn _ Lê Mai Anh và Trần Văn Thắng _
Nxb Giáo dục.

9



×