Tải bản đầy đủ (.docx) (8 trang)

Nghi ngờ vợ có con với người tình, h đã giết chết đứa con mà vợ vừa sinh được 3 ngày h bị tòa án xử phạt 12 năm tù về tội giết người theo quy định tạ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (71.86 KB, 8 trang )

BÀI 4
Nghi ngờ vợ có con với người tình, H đã giết chết đứa con mà vợ vừa sinh
được 3 ngày. H bị tòa án xử phạt 12 năm tù về tội giết người theo quy định tại
Điều 93 BLHS.
Câu hỏi:
1. Căn cứ vào khoản 3 Điều 8 BLHS, hãy phân loại tội phạm đối với tội giết
người theo quy định tại Điều 93 BLHS. (2 điểm)
2. Có thể dựa vào hình phạt 12 năm tù Tòa án đã tuyên đối với H để xác
định loại tội phạm mà H đã thực hiện không? Tại sao? (1 điểm)
3. Giả sử H là người Hàn Quốc sang Việt Nam lấy vợ thì H có phải chịu
trách nhiệm hình sự theo BLHS Việt Nam không? Tại sao? (2 điểm)
4. Xác định khách thể, đối tượng tác động của tội phạm mà H đã thực hiện?
(1 điểm)

Trả lời câu hỏi:
Câu 1: Căn cứ vào khoản 3 Điều 8 BLHS, hãy phân loại tội phạm đối với tội
giết người theo quy định tại Điều 93 BLHS:
Theo quy định tại khoản 3 Điều 8 BLHS thì: “Tội phạm ít nghiêm trọng là
tội phạm gây nguy hại không lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình
phạt đối với tội ấy là đến ba năm tù; tội phạm nghiêm trọng là tội phạm gây
nguy hại lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là
đến bảy năm tù; tội phạm rất nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại rất lớn cho
xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là đến mười lăm
năm tù; tội phạm đặc biệt nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại đặc biệt lớn
cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là trên mười lăm
năm tù, tù chung thân hoặc tử hình”.
Luật hình sự Việt Nam căn cứ vào tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội
của hành vi phân tội phạm ra thành 4 nhóm: tội phạm ít nghiêm trọng, tội phạm
nghiêm trọng, tội phạm rất nghiêm trọng và tội phạm đặc biệt nghiêm trọng. Tội
giết người được các nhà làm luật quy định tại điều 93-BLHS. Trên thực tế để
thực hiện hành vi phạm tội có rất nhiều cách thức, thủ đoạn, hành vi phương


pháp lựa chọn khác nhau. Do đó đòi hỏi phải có sự phân loại tội phạm một cách


chính xác để xét xử đúng người đúng tội phù hợp với hành vi phạm tội mà người
phạm tội đã gây ra.
Khoản 1 Điều 93 quy định:
“Người nào giết người thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt
tù từ mười hai năm đến hai mươi năm, tù chung thân hoặc tử hình:
a) Giết nhiều người;
b) Giết phụ nữ mà biết là có thai;
c) Giết trẻ em;
d) Giết người đang thi hành công vụ hoặc vì lý do công vụ của nạn nhân;
đ) Giết ông, bà, cha, mẹ, người nuôi dưỡng, thầy giáo, cô giáo của mình;
e) Giết người mà liền trước đó hoặc ngay sau đó lại phạm một tội rất
nghiêm trọng hoặc tội đặc biệt nghiêm trọng;
g) Để thực hiện hoặc che giấu tội phạm khác;
h) Để lấy bộ phận cơ thể của nạn nhân;
i) Thực hiện tội phạm một cách man rợ;
k) Bằng cách lợi dụng nghề nghiệp;
l) Bằng phương pháp có khả năng làm chết nhiều người;
m) Thuê giết người hoặc giết người thuê;
n) Có tính chất côn đồ;
o) Có tổ chức;
p) Tái phạm nguy hiểm;
q) Vì động cơ đê hèn.
Do mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội giết người theo khoản 1
Điều 93 là tù chung thân hoặc tử hình, nên căn cứ khoản 3 điều 8-BLHS quy
định tội phạm đặc biệt nghiêm trọng gây nguy hại đặc biệt lớn cho xã hội mức
cao nhất trong khung hình phạt là tử hình. Như vậy những hành vi cấu thành tội
giết người theo khoản 1 Điều 93 thuộc loại tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.

Khoản 2 Điều 93 quy định:
“Phạm tội không thuộc các trường hợp quy định tại khoản 1 Điều này, thì bị
phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm”. Do mức cao nhất của khung hình phạt
đối với tội giết người theo khoản 2 Điều 93 là 15 năm tù giam. Như vậy những
hành vi cấu thành tội giết người theo khoản 2 Điều 93 thuộc loại tội
phạm rất nghiêm trọng.

Câu 2 : Có thể dựa vào hình phạt 12 năm tù Tòa án đã tuyên đối với H để xác
định loại tội phạm mà H đã thực hiện không? Tại sao?


Việc phân loại tội phạm phải căn cứ vào quy định tại khoản 3 điều 8 BLHS
năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009), chứ không thể dựa vào mức hình phạt
mà Tòa án đã tuyên để xác định loại tôi phạm được. Bởi lẽ:
Về mặt lý thuyết thì khoản 3 điều 8 BLHS chính là căn cứ pháp lý duy nhất
để phân loại tội phạm. Theo đó tội phạm được phân loại dựa vào “mức cao nhất
của khung hình phạt đối với tội ấy”. Như vậy thì việc phân loại phải dựa vào
khung hình phạt mà người phạm tội bị Tòa án áp dụng để xét xử và quyết định
hình phạt đối với họ, chứ không phải là dựa vào mức hình phạt mà Tòa án đã
quyết định.
Ở góc độ thực tiễn thì trong một vụ án cụ thể, ví dụ như xét xử bị cáo về tội
“Mua bán trái phép chất ma túy” theo khoản 1 điều 194 BLHS chẳng hạn, có thể
Tòa án quyết định hình phạt là 2 năm tù. Nhưng khoản 1 điều 194 có khung hình
phạt là phạt tù từ 2 năm đến 7 năm, nên theo khoản 3 điều 8 thì tội phạm mà bị
cáo thực hiện thuộc loại tội nghiêm trọng, chứ không phải dựa vào mức án 2
năm tù mà Tòa án đã tuyên để kết luận bị cáo phạm tội ít nghiêm trọng. Và trong
bản án đã tuyên của Tòa án ngoài căn cứ vào hành vi phạm tội được quy định tại
điều luật cụ thể thì Tòa án còn căn cứ vào những tình tiết định khung hình phạt
tăng nặng hoặc giảm nhẹ hình phạt để tuyên phạt đối với người phạm tội.
Ví dụ bị cáo Nguyễn Văn A bị xét xử về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”

theo khoản 2 điều 194. Nhưng do có nhiều tình tiết giảm nhẹ (điều 46) đó là có
ông nội được tặng huân chương trong cuộc kháng chiến chống Pháp, có bố là
thương binh liệt sĩ và đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải (quy định cụ thể
trong mục 5 nghị quyết 01/2000/NĐ-HĐTP) nên Tòa án đã áp dụng điều 47
BLHS để xử phạt bị cáo mức án dưới 7 năm tù. Trong trường hợp này cũng phải
dựa vào khoản 3 điều 8 để xác định tội phạm mà bị cáo thực hiện (có khung
hình phạt từ 7 năm đến 15 năm tù) là tội rất nghiêm trọng, chứ không phải dựa
vào mức Tòa án đã tuyên dưới 7 năm tù để kết luận bị cáo phạm tội nghiêm
trọng hoặc ít nghiêm trọng được. Như vậy không thể dựa vào hình phạt mười hai
năm tù mà Tòa án tuyên đối với H để phân loại tội phạm mà H đã thực hiện.

Câu 3 : Giả sử H là người Hàn Quốc sang Việt Nam lấy vợ thì H có phải chịu
trách nhiệm hình sự theo BLHS Việt Nam không? Tại sao?
Theo Điều 12 BLHS quy định:


“1. Người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội
phạm. 2. Người từ đủ 14 tuổi trở lên, nhưng chưa đủ 16 tuổi phải chịu trách
nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý hoặc tội phạm đặc biệt
nghiêm trọng.”
Và theo Điều 13 BLHS quy định:
1. Người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội trong khi đang mắc bệnh
tâm thần hoặc một bệnh khác làm mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều
khiển hành vi của mình, thì không phải chịu trách nhiệm hình sự; đối với người
này, phải áp dụng biện pháp bắt buộc chữa bệnh.
2. Người phạm tội trong khi có năng lực trách nhiệm hình sự, nhưng đã lâm
vào tình trạng quy định tại khoản 1 Điều này trước khi bị kết án, thì cũng được
áp dụng biện pháp bắt buộc chữa bệnh. Sau khi khỏi bệnh, người đó có thể phải
chịu trách nhiệm hình sự.”
Năng lực trách nhiệm hình sự là điều kiện cần thiết để xác định con người có

lỗi khi họ thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội. Chủ thể của tội phạm chỉ có
thể là người có năng lực trách nhiệm hình sự. Người có năng lực TNHS là người
khi thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội có khả năng nhận thức được tính
chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi của mình và có khả năng điều khiển hành
vi ấy. Người có năng lực TNHS theo luật Hình sự Việt Nam là người đạt độ tuổi
chịu TNHS và không thuộc trường hợp ở trong tình trạng không có năng lực
TNHS.
Có thể thấy, Luật Hình sự Việt Nam không trực tiếp qui định như thế nào là
có năng lực TNHS mà chỉ qui định tuổi chịu TNHS và qui định thế nào là
trường hợp trong tình trạng không có năng lực TNHS. Như vậy, luật Hình sự
Việt Nam mặc nhiên thừa nhận người những người đạt độ tuổi chịu TNHS nói
chung là có năng lực TNHS. Ta giả sử hành vi của H được thực hiện ở VN thì cở
đây, chúng ta sẽ có 2 trường hợp xảy ra:
*Trường hợp 1:
Theo giả sử nêu trên về việc hành vi của H được thực hiện ở Việt Nam, đồng
thời lại căn cứ vào Điều 5 BLHS của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
( Đã được sửa đổi, bổ sung năm 2009 ): 1. Bộ luật Hình sự được áp dụng đối
với mọi hành vi phạm tội thực hiện trên lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam. 2. Đối với người nước ngoài phạm tội trên lãnh thổ nước Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thuộc đối tượng được hưởng các quyền miễn trừ
ngoại giao hoặc quyền ưu đãi và miễn trừ về lãnh sự theo pháp luật Việt Nam,


theo các điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam kí kết
hoặc tham gia hoặc theo tập quán quốc tế, thì vấn đề trách nhiệm hình sự của
họ được giải quyết bằng con đường ngoại giao.
Trong trường hợp 1 này, H được xét với tư cách là đối tượng công dân nước
ngoài không thuộc diện được hưởng quyền ưu đãi và miễn trừ ngoại giao, lãnh
sự theo luật quốc tế. Do đó, H mặc dù là người Hàn Quốc sang Việt Nam lấy vợ
thì H trong trường hợp này có phải chịu trách nhiệm hình sự theo BLHS Việt

Nam do đã có hành vi giết người. Hành vi này sẽ được xử lí theo BLHS Việt
Nam do Bộ luật Hình sự được áp dụng đối với mọi hành vi phạm tội thực hiện
trên lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Nghĩa là, theo nguyên
tắc lãnh thổ , luật hình sự Việt Nam có hiệu lực đối với tất cả các tội phạm xảy
ra trên lãnh thổ của mình, không kể người thực hiện tội phạm là công dân của
quốc gia, người nước ngoài hay người không quốc tịch.
Thêm vào đó, không chỉ tất cả những hành vi phạm tội được thực hiện trên
lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam mà tội phạm được thực hiện
bất kì một giai đoạn nào trên lãnh thổ Việt Nam thì đều phải chịu sự tác động
của BLHS nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Tức là H có phải chịu
trách nhiệm hình sự theo BLHS Việt Nam do phạm tội giết người, song trong
tình huống còn có tình tiết nạn nhân là “đứa con mà vợ vừa sinh được ba ngày”
mà theo Điều 1 Luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em thì người dưới 16 tuổi
là trẻ em. Giết trẻ em được coi là trường hợp tăng nặng trách nhiệm hình sự vì
xuất phát từ quan điểm bảo vệ trẻ em là bảo vệ tương lai của đất nước, thế hệ
tiếp nối con đường xây dựng và bảo vệ tổ quốc và còn là bảo vệ những người
không có khả năng tự vệ. Vậy nếu H là người Hàn Quốc sang Việt Nam lấy vợ
xét trong trường hợp hành vi của H được thực hiện ở Việt Nam và không thuộc
đối tượng được hưởng các quyền miễn trừ ngoại giao hoặc quyền ưu đãi và
miễn trừ về lãnh sự theo pháp luật Việt Nam, theo các điều ước quốc tế mà nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam kí kết hoặc tham gia hoặc theo tập quán
quốc tế thì H có phải chịu trách nhiệm hình sự theo BLHS Việt Nam về tội giết
người này.
*Trường hợp 2:
Bên cạnh trường hợp đã được trình bày ở trên, dựa vào khoản 2 Điều 5
BLHS Việt Nam với giả thiết H là người Hàn Quốc, ta cần xem xét đến trường
hợp tiếp theo khi H “thuộc đối tượng được hưởng các quyền miễn trừ ngoại
giao hoặc quyền ưu đãi và miễn trừ về lãnh sự”. Theo đó, đối tượng được hưởng



đặc quyền ngoại giao bao gồm: các đại diện nước ngoài, thành viên các phái
đoàn Quốc hội và Chính phủ nước ngoài, những người đứng đầu cơ quan đại
diện ngoại giao ( đại sứ, công sứ…), thành viên của các cơ quan đó ( cố vấn, đại
diện thương mại, tùy viên quân sự, bí thư thứ nhất, thứ hai, thứ ba…), các thành
viên gia đình của những người nói trên cùng đi với họ, nếu thành viên đó không
phải công dân Việt Nam.
Ngoài ra, còn là các cán bộ, nhân viên người nước ngoài của cơ quan đại
diện thường trú và các tổ chức quốc tế tại nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam được hưởng đặc quyền miễn trừ tư pháp. Cơ sở của việc miễn trừ cũng như
quyền ưu đãi đối với các đối tượng này là Quyết định của Hội đồng nhà nước số
610/NQ-HĐNN phê chuẩn việc nước ta gia nhập Công ước Viên 1963 về quan
hệ lãnh sự (lãnh sự được hiểu là viên chức ngoại giao của một nước ở một nước
khác để trông nom bảo vệ quyền lợi của dân nước mình tại đấy). Theo khoản 1
Điều 43 “Các viên chức lãnh sự không phải chịu sự tài phán của các nhà chức
trách tư pháp hoặc hành chính của nước tiếp nhận lãnh sự về các hành động
của mình trong khi thừa hành nhiệm vụ lãnh sự”. Từ đó, có thể xác định nếu H
thuộc đối tượng nêu trên sẽ không bị Tòa án Việt Nam xét xử về mặt hình sự nếu
thực hiện tội phạm trên lãnh thổ Việt Nam mà trách nhiệm hình sự đó sẽ được
giải quyết bằng con đường ngoại giao có sự thỏa thuận của nhà nước ủy nhiệm.
Song sau khi phê chuẩn việc gia nhập Công ước Viên 1963, nước ta đã ban hành
một Pháp lệnh về quyền ưu đãi, miễn trừ dành cho cơ quan đại diện ngoại giao,
cơ quan lãnh sự và tổ chức quốc tế tại Việt Nam lấy Công ước này làm tiền đề
trong đó, khoản 1 Điều 13 nêu rõ: “Viên chức ngoại giao và những người được
quy định tại Điều 17 (những đối tượng đã nêu) vẫn có thể bị xét xử về hình sự,
dân sự và xử phạt hành chính, nếu nước cử từ bỏ một cách rõ ràng quyền miễn
trừ này đối với họ”.
Như vậy, việc chịu TNHS không còn phụ thuộc vào tính chủ quan của H mà
còn được quyết định bởi nhà nước mà H được cử (ở đây là Hàn quốc). Qua
những luận điểm trên có thể thấy, việc H thuộc đối tượng được hưởng đặc quyền
ngoại giao cũng không thể chắc chắn về việc không phải chịu trách nhiệm hình

sự theo BLHS Việt Nam. Như thế, ở trương hợp này, không thể xác định chắc
chắn H có phải chịu TNHS theo BLHS Việt Nam hay không.

Câu 4: Xác định khách thể, đối tượng tác động của tội phạm mà H đã thực hiện?


* Khách thể của tội phạm được hiểu là quan hệ xã hội được luật hình sự bảo
vệ và bị tội phạm xâm hại. Giống như các hoạt động khác của con người, hoạt
động phạm tội cũng nhằm vào những khách thể cụ thể, tồn tại ngoài ý thức và
độc lập với ý thức của chủ thể nhưng không phải là cải biến khách thể mà là gây
thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại cho chính những khách thể đó.
Khoa học Luật hình sự Việt Nam phân biệt ba loại khách thể của tội
phạm là khách thể chung, khách thể loại và khách thể trực tiếp. Cả ba khách thể
đều là mức độ khác nhau. Trong đó, khách thể trực tiếp của tội phạm là quan hệ
xã hội cụ thể bị loại tội phạm cụ thể trực tiếp xâm hại và có ý nghĩa quan trọng
trong việc xây dựng pháp luật cũng như trong thực tiễn xét xử. Khách thể trực
tiếp của tội phạm trước hết phải là những quan hệ xã hội bị tội phạm trực tiếp
gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại. Chính qua sự gây thiệt hại hoặc đe dọa
gây thiệt hại này mà tội phạm xâm hại đến khách thể loại và khách thể chung.
Trong tình huống, khách thể của tội phạm trong trường hợp phạm tội của H
là quan hệ xã hội phải được luật hình sự bảo vệ và phải bị hành vi thực tế của H
xâm hại tới. Điều 71 Hiến pháp 1992 khẳng định: “Công dân có quyền bất khả
xâm phạm về thân thể, được pháp luật bảo hộ về tính mạng, sức khỏe, danh dự
và nhân phẩm.” Như vậy, quyền bảo hộ về sức khỏe của con người, quyền nhân
thân là một trong những quyền cơ bản, không thể thiếu của công dân. Đối chiếu
với Điều 1, khoản 1 Điều 8 BLHS thì ta khẳng định quyền nhân thân là quan hệ
xã hội được luật hình sự bảo vệ.
Vậy theo quy định của pháp luật hình sự Việt Nam thì khách thể của tội
phạm mà H đã thực hiện là quan hệ nhân thân mà nội dung của nó là quyền
được tôn trọng và bảo vệ tính mạng con người

* Đối tượng tác động của tội phạm là bộ phận của khách thể của tội phạm, bị
hành vi phạm tội tác động đến để gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại cho
những quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ. Đối tượng động của tội phạm có
thể là :
- Chủ thể của quan hệ xã hội;
- Nội dung của các quan hệ xã hội: Là hoạt động của các chủ thể khi tham
gia vào các quan hệ xã hội;
- Đối tượng của các quan hệ xã hội: Là các sự vật khác nhau của thế giới bên
ngoài cũng như các lợi ích mà qua đó các quan hệ xã hôi phát sinh và tồn tại .
Như đã phân tích ở trên, khách thể của tội phạm trong trường hợp phạm
tội của H là quyền bảo hộ tính mạng của con người, do đó chủ thể của quan hệ


xã hội này chỉ có thể là con người và muốn xâm hại tới khách thể này thì chỉ có
thể gây thiệt hại cho chủ thể của nó.
Căn cứ từ điều 8 BLHS, ta có thể thấy trong tình huống mà ta có H đã
tiến hành hành vi xâm phạm đến tính mạng của đứa con mới 3 ngày tuổi mà vợ
H đẻ ra chỉ vì nghi ngờ đó không phải là con của mình. Qua đây ta có thể dễ
dàng nhận ra đối tượng tác động của tội phạm trong ví dụ trên là con người.
Hành vi của H đã biến đổi tính trạng bình thường của con người mà ở tình
huống trên đây là đã tước đoạt tính mạng của con người - đứa bé mới 3 ngày
tuổi.
Vậy đối tượng tác động của của tội phạm trong tình huống này là con
người, cụ thể là đứa bé mới 3 ngày tuổi mà vợ H sinh ra, hành vi tội phạm của H
trực tiếp tác động vào đứa bé gây tổn hại đến tính mạng của đứa bé, qua đó gây
thiệt hại đến khách thể của tội phạm – quyền bảo hộ về tính mạng của con
người.




×