Tải bản đầy đủ (.doc) (19 trang)

Nghĩa vụ chứng minh trong tố tụng dân sự việt nam thực trạng và giải pháp hoàn thiện (9điểm)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (181.59 KB, 19 trang )

Bài tập nhóm tháng số 2

N03.TL1.Nhóm 1

MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU1
NỘI DUNG............................................................................................................................1
I. Khái quát chung................................................................................................................1
1. Khái niệm nghĩa vụ chứng minh trong tố tụng dân sự....................................................1
2. Cơ sở quy định về nghĩa vụ chứng minh trong tố tụng dân sự.......................................2
a, Cơ sở lý luận.......................................................................................................................2
b, Cơ sở pháp lý......................................................................................................................3
II. Nghĩa vụ chứng minh trong tố tụng dân sự Việt Nam..................................................3
1. Nghĩa vụ chứng minh của đương sự........................................................................3
2 . Nghĩa vụ chứng minh của người đại diện của đương sự...........................................6
3. Nghĩa vụ chứng minh của người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự.
7
4. Nghĩa vụ chứng minh của các cá nhân, cơ quan, tổ chức khởi kiện yêu cầu bảo
vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người khác..................................................................8
5.Nghĩa vụ chứng minh của Tòa án.................................................................................9
6. Nghĩa vụ chứng minh của Viện kiểm sát................................................................11

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO......................................................................18

Trang 0


Bài tập nhóm tháng số 2

N03.TL1.Nhóm 1



MỞ ĐẦU
Mỗi vụ việc dân sự phát sinh tại Tòa án thường chứa đựng những mâu thuẫn
nhất định giữa các bên đương sự nên rất phức tạp. Để giải quyết được vụ việc
dân sự thì mọi vấn đề của vụ việc dân sự dù ai nêu ra cũng đều phải được làm rõ
trước khi Tòa án quyết định giải quyết vụ việc dân sự. Do vậy, việc nghiên cứu
để hiểu rõ về nghĩa vụ chứng minh trong tố tụng dân sự là rất cần thiết để từ đó
có cái nhìn bao quát nhất về hoạt động chứng minh trong tố tụng dân sự.
NỘI DUNG
I. Khái quát chung
1. Khái niệm nghĩa vụ chứng minh trong tố tụng dân sự
Chứng minh trong tố tụng dân sự là hoạt động tố tụng của các chủ thể tố tụng
theo quy định của pháp luật trong việc làm rõ các sự kiện, tình tiết của vụ việc
dân sự.
Nghĩa vụ chứng minh trong tó tụng dân sự được hiểu là các đương sự có
quyền tham gia vào quá trình tranh luận tại phiên tòa,được đưa ra các chứng cứ
để chứng tỏ cho các đương sự khác cũng như Tòa án thấy rằng yêu cầu của mình
là chính đáng cần được pháp luật bảo vệ.Các đương sự có quyền sử dụng chứng
cứ của mình,thông qua tranh luận sử dụng chứng cứ của các đương sự khác,của
Tòa án,của Viện kiểm sát để giúp Tòa án làm sáng tỏ vấn đề.Tuy vậy,Tòa án vẫn
giữ vai trò chủ động trong hoạt động xét xử,chủ động thu thập chứng cứ,chủ
độgn xem xét,nghiên cứu và đánh giá chứng cứ
2. Cơ sở quy định về nghĩa vụ chứng minh trong tố tụng dân sự
a, Cơ sở lý luận
Trong quan hệ tố tụng dân sự, Tòa án, Viện kiểm sát và những người tham gia
tố tụng có mối liên hệ mật thiết với nhau trong một vụ án. Mọi hành vi tố tụng
của các chủ thể trong toàn bộ quá trình tố tụng đều nhằm làm rõ sự thật khách
quan của vụ án đó. Mặt khác, pháp luật nội dung và pháp luật hình thức là hai bộ
phận có mối liên hệ mật thiết, không thể tách rời. Luật tố tụng dân sự điều chỉnh
Trang 1



Bài tập nhóm tháng số 2

N03.TL1.Nhóm 1

các quan hệ xã hội phát sinh giữa Tòa án nhân dân và những người tham gia tố
tụng trong quá trình Tòa án giải quyết vụ án, bảo vệ lợi ích hợp pháp của công
dân, thiết lập lại các quan hệ pháp luật về nội dung bị vi phạm hay tranh chấp.
Pháp luật nội dung ghi nhận các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Khi
các quyền và lợi ích này bị xâm phạm, họ có quyền khởi kiện để đòi quyền lợi
hợp pháp của mình. Như vậy, khách thể của quan hệ pháp luật tố tụng dân sự là
đối tượng xem xét của Tòa án nhân dân do chính các yêu cầu của đương sự, tổ
chức xã hội khởi kiện và mong muốn được Tòa án giải quyêt. Họ là những
người có khả năng đưa ra chứng cứ chính xác nhất làm căn cứ chứng minh có
những yêu cầu của mình nên họ có nghĩa vụ phải chứng minh.
Như vậy, việc quy định nghĩa vụ chứng minh trong tố tụng dân sự là cần thiết
nhằm nâng cao ý thức trách nhiệm của những chủ thể có nghĩa vụ chứng minh,
đảm bảo việc thực hiện pháp luật được công bằng, nghiêm minh, giải quyết vụ
việc dân sự hiệu quả và tuân theo pháp luật.
b, Cơ sở pháp lý
Để đảm bảo nguyên tắc “Mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật” được
quy định trong Hiến pháp 1992 cũng như đảm bảo nguyên tắc nguyên tắc quyền
tự định đoạt của đương sự trong tố tụng dân sự, BLTTDS 2004 đã quy định
quyền và nghĩa vụ chứng minh của đương sự thành một nguyên tắc (Điều 6) và
cụ thể hóa tại các Điều 58, 63, 79, 117, 118…BLTTDS 2004. Theo đó, các chủ
thể có nghĩa vụ chứng minh trong tố tụng dân sự bao gồm: đương sự, người đại
diện của đương sự, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự, cá
nhân, cơ quan, tổ chức khởi kiện bảo vệ lợi ích công cộng, lợi ích của Nhà nước
hoặc yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người khác, Tòa án

và Viện kiểm sát. Để giải quyết đúng được các vụ việc dân sự thì tất cả các sự
kiện, tình tiết liên quan đến vụ việc đều phải chứng minh, bao gồm những tình
tiết, sự kiện mà các chủ thể căn cứ vào đó đưa ra yêu cầu hay phản đối yêu cầu

Trang 2


Bài tập nhóm tháng số 2

N03.TL1.Nhóm 1

của người khác và những tình tiết, sự kiện có ý nghĩa cho việc giải quyết vụ việc
dân sự.
II. Nghĩa vụ chứng minh trong tố tụng dân sự Việt Nam.
1.

Nghĩa vụ chứng minh của đương sự.

Kế thừa và đồng thời cũng khắc phục được những hạn chế trước đây của các
quy định trong Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự năm 1989 (Điều 3),
Pháp lệnh thủ tục giải quyết vụ án kinh tế năm 1994 (Điều 3) và Pháp lệnh thủ
tục giải quyết tranh chấp lao động năm 1996 (Điều 2), BLTTDS năm 2004 đã
quy định nghĩa vụ chứng minh của đương sự thành một nguyên tắc, đó là
nguyên tắc về việc cung cấp chứng cứ và chứng minh trong tố tụng dân sự “các
đương sự có quyền và nghĩa vụ cung cấp chứng cứ cho tòa án và chứng minh
cho yêu cầu của mình là có căn cứ và hợp pháp. Cá nhân, cơ quan, tổ chức khởi
kiện yêu cầu bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người khác có quyền và
nghĩa vụ cung cấp chứng cứ và chứng minh như đương sự” (khoản 1 Điều 6
BLTTDS 2004) và cụ thể hóa nguyên tắc đó tại Điều 79 BLTTDS năm 2004:
“1. Đương sự có yêu cầu tòa án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình

phải đưa ra chứng cứ để chứng minh cho yêu cầu của mình là có căn cứ và hợp
pháp.
2. Đương sự phản đối yêu cầu của người khác đối với mình phải chứng minh
sự phản đối đó là có căn cứ và phải đưa ra chứng cứ để chứng minh.
3. Cá nhân, cơ quan tổ chức khởi kiện bảo vệ lợi ích công cộng, lợi ích của
nhà nước hoặc yêu cầu tòa án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người khác
thì phải đưa ra chứng cứ để chứng minh cho việc khởi kiện, yêu cầu của mình là
có căn cứ và hợp pháp.
4. Đương sự có nghĩa vụ đưa ra chứng cứ để chứng minh mà không đưa ra
được chứng cứ hoặc không đưa ra đủ chứng cứ thì phải chịu hậu quả của việc
không chứng minh được hoặc chứng minh không đầy đủ đó.”

Trang 3


Bài tập nhóm tháng số 2

N03.TL1.Nhóm 1

Đương sự có thể thực hiện quyền, nghĩa vụ cung cấp chứng cứ của mình
thông qua hai cách là tự mình thu thập chứng cứ hoặc nhờ Tòa án thu thập hộ
khi đủ điều kiện quy định tại khoản 2 Điều 85 BLTTDS năm 2004.
“Trong trường hợp đương sự không thể tự mình thu thập được chứng cứ và
có yêu cầu thì Thẩm phán có thể tiến hành một hoặc một số biện pháp sau đây
để thu thập chứng cứ:
a) Lấy lời khai của đương sự, người làm chứng;
b) Trưng cầu giám định;
c) Quyết định định giá tài sản;
d) Xem xét, thẩm định tại chỗ;
đ) Ủy thác thu thập chứng cứ;

e) Yêu cầu cá nhân, cơ quan, tổ chức cung cấp tài liệu đọc được, nghe được,
nhìn được hoặc hiện vật khác liên quan đến việc giải quyết vụ việc dân sự”.
Nhìn chung, việc thu thập chứng cứ là trách nhiệm của đương sự đối với yêu
cầu của mình, họ có sự chủ động trong các thao tác thu thập, yêu cầu thu thập.
Tuy nhiên không thể nói là việc thu thập không có sự can thiệp của Nhà nước,
bởi nếu không can thiệp sẽ gây ra tình trạng lộn xộn và đôi khi chứng cứ thu
thập được không có giá trị pháp lý. BLTTDS năm 2004 đã quy định trình tự và
điều kiện để đương sự thực hiện quyền năng này. Khi vi phạm về thủ tục luật
định thì chứng cứ do đương sự thu thập được cũng sẽ không được chấp nhận.
Trong giai đoạn cung cấp chứng cứ thì đương sự chính là người cung cấp
chứng cứ cho tòa án. Đây chính là hoạt động giao nộp chứng cứ vào hồ sơ vụ
án, chứng cứ nhiều hay ít sẽ giới hạn việc tranh luận giữa các bên, chứng cứ
càng cụ thể, xác đáng bao nhiêu thì việc tranh luận và trách nhiệm của tòa án
càng đơn giản bấy nhiêu. Người khởi kiện phải thực hiện nghĩa vụ cung cấp
chứng cứ ngay khi nộp đơn khởi kiện tại tòa án theo quy định tại Điều 165
BLTTDS năm 2004: “Người khởi kiện phải nộp kèm theo đơn khởi kiện tài liệu,
chứng cứ để chứng minh cho những yêu cầu của mình là có căn cứ và hợp
pháp”. Bị đơn, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có quyền cung cấp chứng
Trang 4


Bài tập nhóm tháng số 2

N03.TL1.Nhóm 1

cứ khi tòa án thông báo về việc khởi kiện của nguyên đơn: “Trong thời hạn
mười năm ngày kể từ ngày nhận được thông báo, người được thông báo phải
nộp cho tòa án văn bản ghi ý kiến của mình đối với yêu cầu của người khởi kiện
và tài liệu chứng cứ kèm theo, nếu có” (khoản 1 Điều 175 BLTTDS năm 2004).
Trong quá trình giải quyết vụ án đương sự có quyền cung cấp chứng cứ ở bất kỳ

giai đoạn nào, nếu không cung cấp hoặc cung cấp không đầy đủ sẽ phải chịu
những hậu quả pháp lý nhất định. Hậu quả pháp lý này là việc được Tòa án công
nhận các quyền và lợi ích hợp pháp dựa trên kết quả của quá trình đương sự thực
hiện nghĩa vụ chứng minh.Theo quy định tại khoản 1 Điều 84 BLTTDS năm
2004 thì “Trong quá trình tòa án giải quyết vụ việc dân sự, đương sự có quyền
và nghĩa vụ giao nộp chứng cứ cho tòa án; Nếu đương sự không nộp hoặc nộp
không đầy đủ thì phải chịu hậu quả của việc không nộp hoặc không nộp đầy đủ
đó...”. Tại phiên tòa sơ thẩm “Đương sự, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của đương sự có quyền bổ sung chứng cứ để chứng minh cho yêu cầu của
mình là có căn cứ và hợp pháp” (khoản 3 Điều 221 BLTTDS năm 2004). Đương
sự còn có thể giao nộp chứng cứ tại cấp phúc thẩm “kèm theo đơn kháng cáo là
tài liệu, chứng cứ bổ sung nếu có để chứng minh cho kháng cáo của mình là có
căn cứ và hợp pháp”, tại phiên tòa phúc thẩm “đương sự, Kiểm sát viên có
quyền xuất trình bổ sung chứng cứ” (khoản 3 Điều 271 BLTTDS năm 2004).
Trong giai đoạn giám đốc thẩm, tái thẩm theo quy định của pháp luật, đương sự
cũng có thể giao nộp chứng cứ bổ sung tại tòa án hoặc viện kiểm sát để bảo vệ
cho quyền lợi của mình. Việc quy định đương sự có nghĩa vụ cung cấp chứng cứ
và thời điểm cung cấp mở rộng tại tất cả quá trình giải quyết là tạo điều kiện để
đương sự có thể phát huy hết khả năng của mình trong việc cung cấp chứng cứ.1
2 . Nghĩa vụ chứng minh của người đại diện của đương sự.
Người đại diện của đương sụ trong tố tụng dân sự là người thay mặt cho
đương sự trong việc xác lập, thực hiện các quyền và nghĩa vụ tố tụng nhằm mục
1

“ Vai trò chứng minh của đương sự trong tố tụng dân sự- vấn đề cơ bản nhất của tố tụng dân sự Việt Nam
hiện nay”, Khóa luận tốt nghiệp, Quách Mạnh Quyết, Lớp DS31B, Người hướng dẫn. THS. Trần Phương
Thảo, Hà Nội, 2009.

Trang 5



Bài tập nhóm tháng số 2

N03.TL1.Nhóm 1

đích bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng cho đương sự. Tương tự như pháp luật
nội dung, pháp luật tố tụng dân sự cũng phân chia người đại diện ra thành người
đại diện theo pháp luật và người đại diện theo ủy quyền.
Theo quy định tại Điều 141 BLDS năm 2005 thì người đại diện theo pháp luật
bao gồm có cha mẹ đối với con chưa thành niên, người giám hộ đối với người
được giám hộ, người được tòa án chỉ định đối với người bị hạn chế năng lực
hành vi dân sự, người đứng đầu pháp nhân theo quy định của điều lệ hoặc theo
quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền, chủ hộ gia đình đối với gia
đình, tổ trưởng tổ hợp tác đối với tổ hợp tác. Ngoài ra, cơ quan tổ chức khởi kiện
bảo vệ lợi ích của người khác cũng là người đại diện theo pháp luật cho người
được khởi kiện (Điều 73 BLTTDS năm 2004), người được tòa án chỉ định để đại
diện cho đương sự tham gia tố tụng (Điều 76 BLTTDS năm 2004).
Theo quy định tại Điều 142 BLDS năm 2005 thì người đại diện theo ủy quyền
là người thay mặt cho đương sự thực hiện những quyền và nghĩa vụ tố tụng
nhưng thông qua một giấy ủy quyền thể hiện ý chí của người đại diện và người
được đại diện, phạm vi đại diện được ghi nhận một cách cụ thể trong giấy ủy
quyền đó. Có thể đại diện một phần hay toàn bộ nhưng trong vụ án ly hôn,
đương sự không thể ủy quyền cho người khác tham gia thay mình.
Quyền và nghĩa vụ của người đại diện cho đương sự trong tố tụng dân sự và
trong hoạt động chứng minh được thực hiện theo quy định tại điều 74 BLTTDS
2004:
“1. Người đại diện theo pháp luật trong tố tụng dân sự thực hiện các quyền
và nghĩa vụ tố tụng dân sự của đương sự mà mình đại diện.
2.


Người đại diện theo ủy quyền trong tố tụng dân sự thực hiện các quyền và
nghĩa vụ tố tụng dân sự theo nội dung văn bản ủy quyền”.

Khi tham gia vào hoạt động chứng minh, người đại diện có toàn quyền trong
việc đề ra các yêu cầu, phản yêu cầu và chứng minh cho những ý kiến đó.
Nhưng dù là đại diện theo pháp luật hay đại diện theo ủy quyền của đương sự thì
Trang 6


Bài tập nhóm tháng số 2

N03.TL1.Nhóm 1

vai trò chứng minh của họ cũng phát sinh sau khi phát sinh vai trò chứng minh
của đương sự. Đương sự không thể hoặc có hạn chế nhất định không thực hiện
được quyền và nghĩa vụ của mình thì theo quy định của pháp luật họ có thể nhờ
đến sự giúp đỡ của người đại diện hoặc tòa án sẽ chỉ định người đại diện cho họ.
Hoạt động chứng minh của người đại diện là “thay mặt” đương sự, hành vi
chứng minh của họ cũng chính là hành vi của đương sự và hướng đến việc bảo
vệ quyền và lợi ích của đương sự. Khi tư cách đương sự chấm dứt thì tư cách đại
diện của họ cũng chấm dứt.
Như vậy, so với đương sự, hoạt động chứng minh của người đại diện của
đương sự gặp nhiều khó khăn hơn nên hiệu quả chứng minh hạn chế hơn. Còn
đương sự là chủ thể của quan hệ tranh chấp, họ là người hiểu nhất về quyền và
nghĩa vụ của mình, về nguyên nhân phát sinh tranh chấp, về thực trạng quan hệ
pháp luật của mình,... nên hoạt động chứng minh sẽ dễ dàng và hiệu quả hơn.
3. Nghĩa vụ chứng minh của người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
đương sự.
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự là người được đương
sự nhờ và tòa án chấp nhận để tham gia tố tụng bảo vệ quyền và lợi ích hợp

pháp của đương sự (khoản 1 Điều 64 BLTTDS). Những người này có thể là luật
sư hoặc bất cứ chủ thể nào đủ điều kiện mà đương sự tin tưởng. Đây cũng là một
chủ thể của hoạt động chứng minh, họ có thể tham gia vào vụ án ở bất cứ giai
đoạn nào, được tham gia phiên tòa sơ thẩm, phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm.
Liên quan đến hoạt động chứng minh, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của đương sự có quyền:
“2. Xác minh, thu thập chứng cứ và cung cấp chứng cứ cho tòa án, nghiên
cứu hồ sơ vụ án và được sao chụp những tài liệu cần thiết trong hồ sơ để thực
hiện việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự.

Trang 7


Bài tập nhóm tháng số 2

N03.TL1.Nhóm 1

5. Giúp đương sự về mặt pháp lý liên quan đến việc bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của họ” (Điều 64 BLTTDS).
Trong trường hợp này, vai trò chứng minh của người bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của đương sự chỉ dừng lại ở việc giúp đỡ đương sự khi được “nhờ”,
đương sự vẫn là người đề ra việc chứng minh, yêu cầu hoặc phản yêu cầu nhưng
do có hạn chế về mặt pháp lý cũng như kinh nghiệm tố tụng nên họ phải cầu cứu
đến sự hỗ trợ, những người này chỉ có quyền chứ không có nghĩa vụ chứng
minh, việc chứng minh được hay không không ảnh hưởng đến quyền và lợi ích
của họ. Người bảo vệ quyền và lợi ích của đương sự có thể không có mặt tại
phiên tòa ( Điều 203 BLTTDS năm 2004).
Theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam người bảo vệ quyền lợi
của đương sự không có quyền thay mặt đương sự mà chỉ có thể giúp đỡ đương
sự. Suy cho cùng, trong hoạt động chứng minh đương sự vẫn tự mình quyết

định, tự mình thực hiện các quyền và nghĩa vụ.
4. Nghĩa vụ chứng minh của các cá nhân, cơ quan, tổ chức khởi kiện yêu
cầu bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người khác.
Ngoài các đương sự, trong trường hợp cần khởi kiện vụ án dân sự để bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân khác, lợi ích công cộng và lợi ích của
Nhà nước thì cơ quan về dân số, gia đình và trẻ em, Hội liên hiệp phụ nữ có
quyền khởi kiện vụ án về hôn nhân gia đình, công đoàn cấp trên của công đoàn
cơ sở có quyền khởi kiện vụ án lao động theo quy định của pháp luật về lao
động. Cơ quan, tổ chức trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có quyền
khởi kiện vụ án dân sự để yêu cầu Tòa án bảo vệ lợi ích công cộng, lợi ích của
Nhà nước. BLTTDS quy định các cá nhân, cơ quan, tổ chức khởi kiện yêu cầu
tòa án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người khác cũng có nghĩa vụ chứng
minh (khoản 3 điều 79 BLTTDS). Tuy không có quyền và lợi ích gắn liền với vụ
việc dân sự như đương sự, nhưng các cơ quan, tổ chức này khi đưa ra các yêu
cầu cần phải nắm bắt rõ sự việc. Do đó, tương tự như đương sự, cá nhân, cơ
Trang 8


Bài tập nhóm tháng số 2

N03.TL1.Nhóm 1

quan, tổ chức khởi kiện yêu cầu Tòa án bảo vệ lợi ích công cộng, lợi ích của
Nhà nước hoặc quyền và lợi ích hợp pháp của người khác cũng có nghĩa vụ
chứng minh cho yêu cầu của mình là có căn cứ và hợp pháp. Trong trường hợp
các cá nhân, cơ quan, tổ chức này không thực hiện được nghĩa vụ chứng minh
của mình thì sẽ dẫn đến sự bất lợi cho các đương sự.
5.Nghĩa vụ chứng minh của Tòa án
Tòa án là chủ thể có nhiệm vụ giải quyết vụ việc dân sự. Vai trò chứng minh
của tòa án thể hiện ở một số quyền và nghĩa vụ như: tự mình tiến hành thu thập

chứng cứ trong một số trường hợp quy định tại mục 1.2 phần IV nghị quyết số
04/2005/NQ – HĐTP ngày 19/9/2005 của HĐTPTANDTC về chứng cứ và
chứng minh. Để giải quyết đúng vụ việc dân sự thì Tòa án vẫn phải xác định
xem trong vụ việc dân sự phải chứng minh làm rõ là những sự kiện, tình tiết
nào? Các chứng cứ, tài liệu của đương sự và những người tham gia tố tụng cung
cấp có đủ để giải quyết vụ việc dân sự hay không?


Hoạt động thu thập chứng cứ của Tòa án .

Các đương sự có quyền, nghĩa vụ thu thập chứng cứ cho Tòa án và chứng
minh cho yêu cầu của mình.Tòa án chỉ xem xét và đưa ra phán quyết trên cơ sở
chứng cứ mà các bên đưa ra. Để quyết định giải quyết vụ việc của mình có sức
thuyết phục thì Tòa án không thể không làm rõ những cơ sở của quyết định đó,
tức là phải chứng minh những sự kiện làm cơ sở cho các kết luận của Tòa án.
Khi thấy chứng cứ có trong hồ sơ vụ việc dân sự chưa đủ cơ sở để giải quyết thì
Tòa án phải yêu cầu đương sự giao nộp bổ sung chứng cứ (Khoản 1 điều 85
BLTTDS). Đối với trường hợp đương sự không thể tự mình thu thập được chứng
cứ và có yêu cầu thì Tòa án có thể tiến hành thu thập chứng cứ (Khoản 2 điều 85
BLTTDS). Khi nhận được yêu cầu của đương sự, Tòa án phải yêu cầu đương sự
trình bày rõ việc đương sự tự thu thập chứng cứ như thế nào, lý do tại sao
không thể tự mình thu thập chứng cứ và những biện pháp đương sự đã áp dụng
mà vẫn không có kết quả trên cơ sở đó để chấp nhận hay không chấp nhận yêu
Trang 9


Bài tập nhóm tháng số 2

N03.TL1.Nhóm 1


cầu của đương sự. Nếu có cơ sở kết luận đương sự chưa tự mình chủ động thu
thập chứng cứ, chưa áp dụng khả năng mà đương sự có thể thu thập chứng cứ thì
Thẩm phán không chấp nhận yêu cầu của đương sự và thông báo cho đương sự
biết bằng văn bản.
Việc thu thập chứng cứ của Tòa án không phải là nghĩa vụ mà chỉ mang tính
hỗ trợ cho việc thu thập chứng cứ của đương sự làm căn cứ để giải quyết vụ việc
dân sự và phục vụ cho việc làm rõ cơ sở quyết định của Tòa án. Tòa án thực
hiện việc đánh giá, công bố công khai chứng cứ trước khi sử dụng (Điều 96,
Điều 97 BLTTDS năm 2004). BLTTDS không quy định việc thu thập chứng cứ
của Tòa án với tính chất là một nhiệm vụ. Các Pháp lệnh trước đây giao trách
nhiệm cho Tòa án trong việc thu thập, điều tra chứng cứ để bảo đảm việc xét xử
đúng sự thật, việc điều tra không đầy đủ được quy định là một căn cứ kháng
nghị giám đốc thẩm (điểm a Khoản 1 điều 71 PLTTGQCVADS ), điều này đã
gây ra áp lực cho các tòa án trong quá trình điều tra. BLTTDS năm 2004 đã tạo
cơ sở pháp lí tại Điều 6, Điều 79, Điều 84 và Khoản 1 Điều 85; khẳng định
nghĩa vụ cung cấp chứng cứ để chứng minh chủ yếu thuộc trách nhiệm của
đương sự. Đương sự phải thu thập chứng cứ để chứng minh chủ yếu thuộc trách
nhiệm của đương sự. đương sự phải thu thập chứng cứ và Tòa án chỉ tiến hành
công việc này trong phạm vi hạn chế khi có đủ hai điều kiện theo quy định tại
Khoản 2 điều 85 BLTTDS. Căn cứ do điều tra không đầy đủ đã không được đưa
vào để xác định một trong các căn cứ kháng nghị thủ tục giám đốc thẩm theo
quy định tại điều 283 BLTTDS.


Hoạt động đánh giá,sử dụng chứng cứ tại phiên tòa của Tòa án.

Mặc dù các đương sự có nghĩa vụ xuất trình chứng cứ trước Tòa án nhằm
thuyết phục về những yêu cầu mà mình đưa ra là có căn cứ, song chứng cứ do
các đương sự cung cấp không phải là lúc nào cũng chính xác và đáng tin cậy (vì
có thể có sự giả mạo hoặc nhầm lẫn). Do đó, Tòa án phải trực tiếp xem xét, phân

tích, so sánh chứng cứ tại phiên tòa. Đây là một nội dung chủ yếu, cơ bản và có
ý nghĩa quyết định trong hoạt động của Tòa án. Tòa án có nhiệm vụ xác minh
Trang
10


Bài tập nhóm tháng số 2

N03.TL1.Nhóm 1

chứng cứ thông qua việc nghe các đương sự trình bày, giải thích, thẩm vấn các
nhân chứng, nghe ý kiến của giám định viên, sự tranh luận của các đương sự,
xem xét vật chứng này với chứng cứ khác. Trách nhiệm chứng minh của Tòa án
nổi bật nhất ở vai trò nghiên cứu và đánh giá về giá trị chứng minh của các
chứng cứ. Đây là sự đánh giá chính thức về mặt pháp lí, mang tính chất quyết
định đối với các chứng cứ của vụ việc, còn đối với các chủ thể khác (VKS, chủ
thể khởi kiện vì lợi ích chung, đương sự…) việc đánh giá chứng cứ có thể được
tiến hành trực tiếp bằng sự bác bỏ hay công nhận chứng cứ này hoặc chứng cứ
kia hoặc bằng sự hoài nghi về tính xác thực của các chứng cứ. Tuy nhiên, đây
chỉ là hoạt động hỗ trợ, tham gia mang tính chất tham khảo khi Tòa án ban hành
bản án (quyết định) về vụ việc. Nó có thể được Tòa án chấp nhận hay bác bỏ
trong bản án hay quyết định về vụ việc dân sự.
6.

Nghĩa vụ chứng minh của Viện kiểm sát.

Trách nhiệm chứng minh của Viện kiểm sát trong Tố tụng dân sự phụ thuộc
vào vị trí, vai trò của Viện kiểm sát trong tố tụng dân sự. Vì vậy, để xác định
trách nhiệm chứng minh của Viện kiểm sát, trước hết cần hiểu rõ vị trí, vai trò
của Viện kiểm sát trong TTDS.

Nghiên cứu các quy định của BLTTDS cho thấy, vị trí, vai trò của Viện kiểm
sát trong tố tụng dân sự được thể hiện rõ nét bởi hai hoạt động đặc trưng là tham
gia phiên tòa, phiên họp giải quyết vụ việc dân sự và kháng nghị các bản án,
quyết định dân sự của Tòa án.


Hoạt động tham gia phiên tòa, phiên họp của Viện kiểm sát:

Theo quy định tại khoản 2 Điều 21 BLTTDS năm 2004 và nội dung hướng
dẫn tại Thông tư liên tịch số 03/2005/TTLT-VKSNDTC-TANDTC ngày
1/9/2005 về hướng dẫn thi hành một số quy định của BLTTDS về kiểm sát việc
tuân theo pháp luật trong tố tụng dân sự và sự tham gia của Viện kiểm sát nhân
dân trong việc giải quyết các vụ việc dân sự, Viện kiểm sát nhân dân tham gia
phiên tòa, phiên họp trong các trường hợp sau đây:
- Những vụ án do Tòa án thu thập chứng cứ mà đương sự có khiếu nại.
Trang
11


Bài tập nhóm tháng số 2

N03.TL1.Nhóm 1

- Các việc dân sự thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án được quy định tại
các chương 20, 21, 22, 23, 24, 25, 26, 27, 28, 29 tức là từ Điều 311 đến Điều
374 của BLTTDS năm 2004.
- Các vụ việc dân sự mà Viện kiểm sát đã kháng nghị các bản án và quyết
định của Tòa án theo các trình tự phúc thẩm, giám đốc thẩm và tái thẩm. Đồng
thời tham gia các phiên tòa giám đốc thẩm và tái thẩm do Tòa án kháng nghị
theo thẩm quyền.

- Viện kiểm sát còn tham gia các phiên tòa phúc thẩm đối với các quyết định
tạm đình chỉ, đình chỉ giải quyết vụ án dân sự của Tòa án cấp sơ thẩm bị đương
sự kháng cáo.
Khi tham gia phiên tòa, phiên họp sơ thẩm, phiên tòa, phiên họp phúc thẩm
do đương sự kháng cáo, Kiểm sát viên có quyền tham gia hoạt động nghiên cứu
(thông qua việc hỏi, xem xét vật chứng, nhận xét kết luận giám định…) và đánh
giá chứng cứ thông qua phát biểu quan điểm của Viện kiểm sát về việc giải
quyết vụ việc dân sự. Khi tham gia phiên tòa, phiên họp giám đốc thẩm, tái thẩm
do Tòa án kháng nghị, Kiểm sát viện tham gia hoạt động nghiên cứu, đánh giá
chứng cứ bằng cách: nghiên cứu hồ sơ vụ việc, đưa ra ý kiến về quyết định
kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm trước khi Hội đồng giám đốc thẩm, tái thẩm
thảo luận (khoản 1, 2 Điều 295, Điều 310 BLTTDS); và phát biểu quan điểm của
Viện kiểm sát về việc giải quyết vụ việc dân sự trước khi Hội đồng giám đốc
thẩm, tái thẩm biểu quyết (khoản 3, 4 Điều 295, Điều 310 BLTTDS).


Hoạt động kháng nghị bản án, quyết định dân sự của Tòa án:

Theo quy định của BLTTDS năm 2004, Viện kiểm sát có quyền kháng nghị
bản án, quyết định giải quyết vụ việc dân sự của Tòa án theo thủ tục phúc thẩm,
giám đốc thẩm, tái thẩm khi xét thấy có căn cứ. Khi đó Viện kiểm sát phải thực
hiện nghĩa vụ của mình theo quy định tại các điểm b khoản 1 Điều 251, khoản 5
Điều 287 BLTTDS, có quyền nghiên cứu hồ sơ (Điều 262), tham gia phiên tòa
(khoản 2 Điều 264), có quyền phát biểu ý kiến (điểm b khoản 1 Điều 271, khoản
1 Điều 295, Điều 310). Trong những trường hợp cần thiết, để đảm bảo cho việc
Trang
12


Bài tập nhóm tháng số 2


N03.TL1.Nhóm 1

thực hiện thẩm quyền kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái
thẩm, Viện kiểm sát có quyền tham gia hoạt động cung cấp, thu thập chứng cứ
bằng cách yêu cầu đương sự, cá nhân, cơ quan, tổ chức cung cấp hồ sơ, tài liệu,
vật chứng (khoản 3 Điều 85 BLTTDS).
III. Thực trạng và giải pháp hoàn thiện
1. Thực trạng
a) Ưu điểm:
Thứ nhất: Các quy định về chứng minh trong TTDS có nhiều điểm tiến bộ.
- Bảo đảm việc làm rõ các tình tiết của vụ việc dân sự như: quy định đúng các
chủ thể chứng minh trong TTDS; quyền và nghĩa vụ chứng minh của các chủ
thể. Mặt khác, các quy định hiện nay cũng rõ ràng hơn, hợp lý hơn, từ đó đã đề
cao được trách nhiệm của các chủ thể khác trong việc thực hiện nghĩa cụ chứng
minh của họ, tranh ỷ lại vào Tòa án.
- Lần đầu tiên, các sự kiện, tình tiết không phải chứng minh được quy định
trong BLTTDS. Điều này giúp hướng các chủ thể chứng minh không mất quá
nhiều thời gian, công sức vào những tình tiết không cần thiết.
- Bộ luật TTDS quy định rõ ràng trình tự, thủ tục chứng minh (cung cấp
chứng cứ, tranh luận, …) đã tạo điều kiện cho các chủ thể chứng minh thực hiện
được các quyền và nghĩa vụ chứng minh của mình, góp phần giải quyết đúng
đắn vụ việc dân sự.
Thứ hai: Vai trò chứng minh của các chủ thể ngày càng quan trọng hơn trong
giai đoạn hiện nay. Và các chủ thể tiến hành cũng như tham gia tốt tụng dân sự
ngày càng có có những hiểu biết hơn về nghĩa vụ chứng minh của mình. Điều
này là do một số lý do như: Công cuộc đổi mới và hoàn thiện hệ thống tư pháp
dựa trên sự lãnh đạo của Đảng; Xu thế của sự hội nhập; Quyền con người, quyền
công dân trong giai đoạn hiện nay ngày càng được quan tâm
b) Hạn chế

Hiện nay, nghĩa vụ chứng minh còn chưa được thực thi hiệu quả. Nhiều
đương sự không biết mình có nghĩa vụ phải chứng minh hoặc không biết mình
Trang
13


Bài tập nhóm tháng số 2

N03.TL1.Nhóm 1

phải chứng minh bằng cách nào, v.v.. Phần lớn, những hạn chế đều xuất phát từ
các quy định của BLTTDS:
- BLTDS quy định những tình tiết, sự kiện không phải chứng minh nhưng
không có các quy định về những tình tiết, sự kiện phải chứng minh. Điều này
làm mất cân đối giữa các quy định của BLTTDS và ảnh hưởng đến việc chứng
minh của các chủ thể. Bởi lẽ, dù là người chủ động cung cấp chứng cứ, nhưng
các đương sự thường không có hiểu biết nhiều về pháp luật nên rất khó khăn
trong việc xác định chứng cứ nào là cần thiết cho việc giải quyết vụ việc.
- Điều 6, Điều 85 BLTTDS hiện hành đã đề cao vai trò chứng minh của
đương sự nhưng lại hạn chế sự chủ động của Tòa án trong việc giải quyết vụ
việc dân sự; không đảm bảo cho Tòa án giải quyết nhanh và đúng đắn các vụ
việc dân sự (ví dụ, trong trường hợp phát hiện thấy chứng cứ đang bị tiêu hủy).
- Điều 64 quy định rằng người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự
có quyền xác minh, thu thập chứng cứ và cung cấp cho Tòa án nhưng lại không
quy định những biện pháp thu thập chứng cứ mà họ được áp dụng. Liệu họ có
được sử dụng các biện pháp của Tòa án không? Trong trường hợp người bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự phía bên kia cho rằng việc thu thập
chứng cứ đó không hợp pháp thì Tòa án căn cứ vào đâu để chấp nhận hay bác
bỏ.
- Để đảm bảo cho các đương sự thực hiện quyền và nghĩa vụ chứng minh,

Điều 7 và 385 BLTTDS quy định trách nhiệm cung cấp chứng cứ của các cá
nhân, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền cho đương sự và biện pháp xử lý với
những trường hợp vi phạm. Tuy nhiên, những quy định này chưa cụ thể nên việc
thực hiện quyền này của đương sự còn gặp rất nhiều khó khăn.
- Các phương tiện chứng minh trong TTDS chưa được quy định, gây ra sự
băn khoăn cho các chủ thể chứng minh trong việc xác định phương tiện chứng
minh nào là hợp pháp hoặc không hợp pháp.
- Trách nhiệm không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ chứng
minh của các chủ thể chưa được BLTTDS quy định cụ thể. Điều 79 có quy định
Trang
14


Bài tập nhóm tháng số 2

N03.TL1.Nhóm 1

rằng đương sự phải chịu hậu quả về việc không thực hiện đúng nghĩa vụ này
nhưng hậu quả đó là gì thì BLTTDS lại chưa quy định. Rất nhiều trường hợp,
đương sự đợi đến xét xử phúc thẩm hoặc giai đoạn xem xét lại bản án có hiệu
lực pháp luật mới đưa ra các chứng cứ mới. Việc này làm kéo dài thời gian tranh
tụng, tốn kém tiền bạc của các bên.
- Theo quy định của bộ luật TTDS hiện hành thì các đương sự khó có thể thực
hiện được quyền “được biết và ghi chép, sao chụp tài liệu, chứng cứ do các
đương sự khác xuất trình hoặc do tòa án thu thập” (điểm d khoản 2 Điều 58).
Bởi lẽ, trong quá trình tiến hành giải quyết vụ án dân sự khi các bên xuất trình
chứng cứ mới hay những chứng cứ do tòa án thu thập được thì các bên đương sự
chỉ có “quyền được biết” thông qua hoạt động sao chụp tài liệu, chứng cứ ở tòa
án. Tuy nhiên, muốn sao chụp thì phải có đơn yêu cầu sao chụp các đối tượng cụ
thể trong khi chính các đương sự cũng không biết rõ đối tượng đó là những gì.

Vì vậy, đây là một quy định không thực tế.
2. Giải pháp
Tiếp tục hoàn thiện thủ tục tố tụng dân sự, trong đó có việc xây dựng Dự án
Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Tố tụng dân sự là một trong
những nhiệm vụ quan trọng về cải cách tư pháp nhằm thực hiện Nghị quyết 49NQ-TW ngày 02-06-2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến
năm 2020 đã đề ra. Để phát huy hiệu quả trong việc thực hiện nghĩa vụ chứng
minh của các chủ thể, pháp luật hiện hành cần có những sự thay đổi sau:
- Cần bổ sung các quy định về các tình tiết, sự kiện phải chứng minh, bao
gồm: các tình tiết,sự kiện mà quan hệ giữa các bên phụ thuộc vào nó và việc giải
quyết vụ việc dân sự. Trong đó, có cả các tình tiết mà các bên đương sự đưa ra
làm cơ sở cho yêu cầu của mình hay phản đối yêu cầu của đương sự khác.
- Pháp luật cần có những quy định trong việc tạo điều kiện cho Tòa án chủ
động quyết định áp dụng một số biện pháp thu thập chứng cứ như: chủ động lấy
lời khai của đương sự, người làm chứng; quy định các biện pháp bảo vệ chứng
Trang
15


Bài tập nhóm tháng số 2

N03.TL1.Nhóm 1

cứ trong trường hợp chứng cứ đang bị tiêu hủy, có nguy cơ bị tuy hủy mà sau
này khó có thể thu thập được.
- Cần quy định cụ thể các phương tiện chứng minh được sử dụng trong TTDS
bao gồm: lời khai của đương sự; lời khai của người làm chứng; các tài liệu đọc
được, nghe được, nhìn được; các vật chứng; kết luận giám định; biên bản ghi kết
quả thẩm định tại chỗ; kết quả định giá tài sản; tạp quán và các phương tiện khác
mà pháp luật có quy định.
- BLTTDS nên có sự sửa đổi về quy định tại Điều 58 về ghi chép, sao chụp tài

liệu, chứng cứ theo hướng tạo điều kiện hơn cho các đương sự, ví dụ quy định
bắt buộc các bên đương sự khi cung cấp một chứng cứ mới cho tòa án để giải
quyết yêu cầu của mình thì đồng thời với đó phải thông báo bằng văn bản hoặc
có thể photo một bản cung cấp cho bên còn lại.
- Tòa án có thể định cho đương sự một thời hạn để giao nộp chứng cứ. Hết
thời hạn này mà không giao nộp thì phải nêu rõ lý do, nếu không sẽ phải chịu
hậu quả, như: phạt tiền,… Nếu đương sự vẫn không giao nộp, khi Tòa án đã giải
quyết xong vụ việc dân sự mới giao nộp để căn cứ vào đó kháng cáo, khiếu nại
thì không được chấp nhận nữa.
KẾT LUẬN
Như vậy, có thể thấy rằng việc nhận thức một cách đầy đủ về nghĩa vụ chứng
minh trong tố tụng dân sự của Việt Nam giai đoạn hiện nay là vô cùng cần thiết.
Đó là cơ sở cho việc hoàn thiện các quy định của pháp luật về nghĩa vụ chứng
minh, góp phần tạo ra những cơ chế, biện pháp thiết thực, hữu hiệu để các chủ
thể có nghĩa vụ chứng minh có thể phát huy được hết khả năng tích cực của
mình, đảm bảo cho việc giải quyết các vụ việc dân sự được tiến hành khách
quan, công bằng và hiệu quả.

Trang
16


Bài tập nhóm tháng số 2

N03.TL1.Nhóm 1

Trang
17



Bài tập nhóm tháng số 2

N03.TL1.Nhóm 1

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Giáo trình
1. Trường Đại học Luật hà Nội, Giáo trình Luật tố tụng dân sự, Nxb.
CAND, Hà Nội, 2009.
2. Học viện tư pháp, Giáo trình Luật tố tụng dân sự, Nxb. CAND, Hà
Nội, 2007.
Văn bản quy phạm pháp luật
3. Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004.
4. Pháp lệnh thủ tục giải quyết vụ án dân sự năm 1989.
5. Pháp lệnh thủ tục giải quyết vụ án kinh tế năm 1994.
6. Pháp lệnh thủ tục giải quyết các tranh chấp lao động năm 1996.
7. Thông tư liên tịch số 03/2005/TTLT-VKSNDTC-TANDTC ngày
1/9/2005 về hướng dẫn thi hành một số quy định của BLTTDS về
kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng dân sự
8. Nghị quyết số 04/2005/NQ – HĐTP ngày 19/9/2005 của
HĐTPTANDTC về chứng cứ và chứng minh
Luận án, luận văn
9. “ Vai trò chứng minh của đương sự trong tố tụng dân sự- vấn đề cơ
bản nhất của tố tụng dân sự Việt Nam hiện nay”, Khóa luận tốt
nghiệp, Quách Mạnh Quyết, Lớp DS31B, Người hướng dẫn. THS.
Trần Phương Thảo, Hà Nội, 2009.
Website
1.
2. http:// www.luatvietnam.com,vn
3. http:// www.vietlaw.gov.vn
4.


Trang
18



×