Tải bản đầy đủ (.docx) (17 trang)

Phân tích các các yếu tố ảnh hưởng đến sự hình thành dư luận xã hội, cho ví dụ minh họa ở từng yếu tố ý nghĩa thực tiễn của việc nghiên cứu dư luận x

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (68.83 KB, 17 trang )

A, Đặt vấn đề
Dư luận xã hội từ xưa đến nay luôn có sức ảnh hưởng rất lớn đến mọi mặt đời
sống xã hội. Dư luận xã hội có sự tác động đối với lĩnh vực pháp luật, nhưng đồng
thời pháp luật cũng có sự tác động trở lại với dư luận xã hội. Nhất là trong tình
hình hiện nay, tính dân chủ, bình đẳng của con người ngày càng được nâng cao và
coi trọng, nên các vấn đề dư luận xã hội cũng ngày càng trở nên phức tạp. Việc
nghiên cứu về vấn đề này đã trở nên hết sức cần thiết để có thể hiểu và hoàn thiện
thêm về nó. Vì vậy em đã chọn đề tài: “Phân tích các các yếu tố ảnh hưởng đến sự
hình thành dư luận xã hội, cho ví dụ minh họa ở từng yếu tố? Ý nghĩa thực tiễn của
việc nghiên cứu dư luận xa hội đối với lĩnh vực pháp luật?”
B, Giải quyết vấn đề:
I, Định nghĩa dư luận xã hội (DLXH).
Các định nghĩa, quan niệm được đưa ra trong các hoàn cảnh và thời kì lịch sử
khác nhau và mỗi nhà nghiên cứu lại có cách tiếp cận, quan điểm, định hướng sử
dụng khác nhau nên cách đưa ra định nghĩa của mọi người cũng khác nhau.
Theo từ điển Xã hội học: Tập hợp các ý kiến của người dân về các chủ đề của
mối quan tâm công cộng, và sự phân tích những ý kiến này bằng các phương pháp
thống kê trong điều tra chọn mẫu được coi là DLXH.
Theo các nhà xã hội học: DLXH là một hiện tượng xã hội đặc biệt biểu thị
phán xét, đánh giá và thái độ của các nhóm XH đối với những vấn đề liên quan đến
lợi ích của các nhóm trong xã hội; DLXH được hình thành qua các cuộc trao đổi,
thảo luận.


Hoặc, dư luận xã hội là sự đánh giá của một cộng đồng tự ý thức về một vấn
đề nào đó. Dư luận xã hội là ý kiến của nhóm có đủ thông tin cũng có khi của một
nhóm chưa có thông tin đầy đủ. Trường hợp đầu là có sự đánh giá chính xác, nhóm
sau chỉ là đồn thổi. Xét liên hệ dân trí và dư luận nó là tỉ lệ thuận. Dân trí có văn
hóa thường có dư luận chính đáng và tin đồn thường có trong xã hội sơ khai.
II, Đặc điểm của dư luận xã hội.
Chủ thể của dư luận xã hội không phải là các cá nhân mà là toàn thể xã hội,


là quần chúng nhân dân, các tổ chức của xã hội. vì thế, lập trường giai xấp được
xem là cơ sở để xác định chủ thể của dư luận xã hội. Nó không phản ánh trung
thực, khách quan những gì đang xảy ra mà chỉ thể hiện những đánh giá của công
chúng đối với những vấn đề theo lợi ích, vị thế, vai trò của họ với tư cách là những
thành viên trong các nhóm xã hội nhất định. Dư luận xã hội có thể được định
hướng theo những hướng xác định bởi các nhóm xã hội có ảnh hưởng đối với xã
hội toàn thể.
Thông thường, khi nghiên cứu về dư luận xã hội, chúng ta thấy nổi lên các
đặc điểm sau:
-

Dư luận xã hội là tập hợp những ý kiến, quan điểm, thái độ mang

tính chất phán xét, đánh giá của nhiều người trước thực tế xã hội nhất
định.
-

Sự phán xét, đánh giá đó chỉ nảy sinh khi trong xã hội có những

vấn đề mang tính thời sự, có liên quan đến lợi ích chung của nhóm xã
hội, cộng đồng xã hội.


-

Vấn đề mang tính thời sự đó phải thu hút được sự quan tâm, chú ý

của nhiều người, của đa số các thành viên trong xã hội.
-


Dư luận xã hội phản ánh một cách tổng hợp ý thức xã hội nhưng

dễ thay đổi. Nó luôn gắn liền với quyền lợi cá nhân và các nhóm xã hội.

III. Các giai đoạn hình thành dư luận xã hội
Các sự kiện, các hiện tượng xã hội được dư luận xã hội phản ánh phải diễn
ra theo một quá trình khá phức tạp. Trong điều kiện bình thường, quá trình hình
thành dư luận xã hội có thể chia thành các bước( các giai đoạn) sau:
1.

giai đoạn hình thành thuộc ý thức cá nhân
Các cá nhân trong cộng đồng xã hội được tiếp xúc, làm quen, được trực

tiếp chứng kiến hoặc nghe kể lại về các sự việc, sự kiện, hiện tượng xảy ra
trong xã hội. Họ tìm kiếm, hoặc thu thập thêm thông tin, trao đổi với nhau về
nó, từ đó nảy sinh những suy nghĩ, tình cảm, ý kiến bước đầu về nội dung, tính
chất của các sự việc, sự kiện. Nhưng lúc này, các suy nghĩ, tình cảm, ý kiến
bước đầu đó là thuộc về mỗi người, thuộc lĩnh vực ý thức cá nhân.
2.

giai đoạn trao đổi thông tin giữa mọi người
Các ý kiến cá nhân được chia sẻ, trao đổi, bàn luận với nhau trong nhóm

xã hội. Cơ sở cho quá trình thảo luận trong nhóm xã hội này là lợi ích chung
của cả nhóm và hệ thống các giá trị, chuẩn mực xã hội đang chi phối các khuôn
mẫu tư duy và khuôn mẫu hành vi của các thành viên trong nhóm. Thông qua
quá trình trao đổi, bàn luận các suy nghĩ, các ý kiến xung quanh đối tượng của


dư luận mà ý kiến đã được trao đổi chuyển dần từ lĩnh vực ý thức cá nhân sang

lĩnh vực ý thức xã hội.
3.

giai đoạn tranh luận có tính chất tập thể về các vấn đề quan trọng
Ở giai đoạn này, các thông tin, vấn đề không quan trọng, không phù

hợp hoặc những thông tin nhiễu về đối được sẽ bị lược bỏ. Các nhóm trao đổi,
tranh luận với nhau về những nội dung quan trọng, đưa ra các loại ý kiến khác
nhau và thống nhất lại xung quanh các quan điểm cơ bản, cùng tìm đến những
điểm chung trong quan điểm và ý kiến. Từ đó mà hình thành cách phán xét,
đánh giá chung, thỏa mãn được ý chí chung của địa đa số các thành viên trong
cộng đồng người. Cơ sở cho quá trình tranh luận này vẫn là lợi ích chung và hệ
thống các giá trị, chuẩn mực xã hội chung cùng được các nhóm xã hội chia sẻ
và thừa nhận.
4.

giai đoạn đi từ dư luận xã hội đến hành động thực tiễn
Nếu như luồng dư luận xã hội chỉ hình thành một cách thuần túy rồi để

đấy, chẳng có vai trò, tác dụng gì đối với cộng đồng thì có lẽ nó chỉ là hiện
tượng vô nghĩa.Trên thực tế, vấn đề không chỉ dừng lại ở đấy. Từ sự phán xét,
đánh giá chung, các nhóm xã hội và cộng đồng xã hội đi tới hành động thống
nhất, nêu lên những kiến nghị, những biện pháp về hoạt động thực tiễn của họ
trước thực tế cuộc sông nhất định.
Như vậy, dư luận xã hội là sản phẩm của quá trình giao tiếp xã hội.
Không có sự trao đổi, bàn bạc, thảo luận, thậm chí va đập các ý kiến với nhau
thì không thể có ý kiến phán xét, đánh giá chung được đông đảo mọi người chia
sẻ, tán thành và ủng hộ. Tất nhiên, sự phân tích khách quan về mối tương quan
giữa ý kiến của tập thể, của cộng đồng cần phải được đặt vào cơ cấu xã hội hiện



hành, phải xem xét đến các yếu tố trình độ kinh tế, chính trị, tinh thần, trình độ
văn hóa, tính tổ chức...của tập thể cộng đồng ấy.
IV: Các yếu tố ảnh hưởng đến sự hình thành dư luận xã hội
Nghiên cứu về dư luận xã hội, cũng nhằm phát hiện ra những yếu tố
chính tác động đến sự hình thành nên dư luận xã hội. Có như vậy, mới có thể
định hướng hoặc điều chỉnh nhằm phục vụ lợi ích chung. Sự hình thành dư luận
xã hội phụ thuộc vào nhiều yếu tố, điều kiện khác nhau, cả về chủ quan và
khách quan về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, trình độ nhận thức, tâm lí xã
hội...đây là những yếu tố chính tác động đến dư luận xã hội
1.

Tính chất của các sự việc, sự kiện, hiện tượng xã hội, quá trình xã hội

đang diễn ra trong xã hội
Thực tế xã hội luôn diễn ra đa dạng, phong phú và phức tạp với nhiều sự
việc, hiện tượng xã hội hay quá trình xã hội khác nhau. Dư luận xã hội là hiện
tượng tinh thần phản ánh tồn tại xã hội. Sự phản ánh đó trước hết phụ thuộc vào
quy mô, cường độ, tính chất của các sự việc, sự kiện, hiện tượng xã hội mà nó
phản ánh; đồng thời phụ thuộc và ý nghĩa của các sự việc, hiện tượng đó đối với
các nhu cầu, lợi ích về vật chất, tinh thần của cộng đồng người mang dư luận.
Khuynh hướng chung trong các ý kiến đánh giá và thái độ của công chúng là sự
bày tỏ tán thành, ủng hộ đối với các sự việc, sự kiện phù hợp với các nhu cầu,
lợi ích của mình và lên tiếng phê phán hay phản đối những sự việc, sự kiện đi
ngược lại, xâm hại tới lợi ích của họ. Trong thực tế xã hội, có những sự việc sự
kiện xảy ra ban đầu chỉ ảnh hưởng tới lợi ích của nhóm xã hội nhất định, nhưng
sự phát triển tiếp theo đã cho thấy sự liên quan của chúng tới lợi ích của các
nhóm xã hội khác. Trong bối cảnh đó, các nhóm xã hội sẽ bước vào cuộc trao



đổi ý kiến, thảo luận tại các thời điểm khác nhau. Bên cạnh đó, những sự kiện,
hiện tượng có ảnh hưởng mạnh mẽ, trực tiếp đến đại đa số người dân như dịch
bệnh, thiên tai, đồng tiền mất giá... sẽ tạo ra các luồng dư luận xã hội nhanh
chóng chỉ trong tời gian ngắn. Như vậy, muốn nghiên cứu, tìm hiểu nguồn gốc
phát sinh dư luận xã hội thì phải xuất phát từ chính bản thân các sự việc, hiện
tượng xảy ra trong thực tế xã hội với quy mô, cường độ và tính chất của chúng
Ví dụ như: Theo thông tin từ Bộ y tế các chuyên gia nghiên cứu về chất
độc trong môi trường trên thế giới thì chất melamine có chứa trong một số loại
sữa bột có thể hủy hoại hệ thống miễn dịch ở con người. Với tính chất nguy
hiểm, nghiêm trọng, những dư luận, ý kiến bàn bạc về các loại sữa không rõ
nguồn gốc chứa chất gây độc hại-melamine đã lan truyền di nhanh. Do tính chất
cấp bách của sự kiện này, nó đã tạo ra một luồng dư luận lớn trong xã hội, tìm
cách nào đó để ngăn chặnviệc buôn bán các loại sữa, cũng như thảo luận về
việc làm thế nào để không mua phải sữa giả. Chính tính nóng sốt, sự cấp thiết
và nghiêm trọng của tình hình này, đã tạo ra dư luận xã hội nhanh chóng.
2.

Hệ tư tưởng, trình độ học vấn, kiến thức, hiểu biết, kinh nghiệm thực tế

xã hội của con người
Sự hình thành dư luận xã hội phụ thuộc vào hệ tư tưởng, trình độ học
vấn, kiến thức, hiểu biết, kinh nghiệm thực tế xã hội của các cá nhân, các nhóm
xã hội trong xã hội. Nói cách khác là mức độ chuẩn bị của cộng đồng người để
tiếp nhận các sự việc, sự kiện, hiện tượng cần thiết. Nếu thông tin không đầy đủ
thì dẫn đến khả năng tranh luận kéo dài, không hình thành dư luận xã hội. Hệ tư
tưởng, trình độ học vấn của con người cũng ảnh hưởng quan trọng tới khuynh
hướng, chiều sâu, tính chất phản ánh đúng sai của các ý kiến, các quan điểm
phán xét, đánh giá đối với sự việc, sự kiện. Chẳng hạn, ở những nhóm xã hội có



trình độ học vấn cao, các cá nhân có thể dễ dàng tiếp cận nguồn thông tin, phân
tích một cách khoa học về nội dung, bản chất, nguồn gốc, nguyên nhân của các
sự việc, sự kiện... từ đó mà đưa ra các phán xét, đánh giá phù hợp về sự việc,
góp phần hình thành những dư luận xã hội tích cực, có lợi ích cho cộng đồng,
cho dân tộc hay quốc gia. Ngược lại, ở những nhóm xã hội có trình độ học vấn
thấp, người ta có thể dễ dàng tin tưởng vào những điều nhảm nhí, những tin tức
thất thiệt, vô tình tham gia vào việc làm lan truyền các những tin đồn nhảm, gây
ra hậu quả xấu cho các cá nhân, các nhóm xã hội.
Ví dụ: nói về chế độ chính trị ở Việt Nam, một số thành phần chống phá
chính quyền, phản cách mạng sẽ nói rằng Nhà nước ta là nhà nước Đơn Đảng.
Điều đó sẽ tạo ra sự độc quyền, chuyên chế, không mang tính dân chủ. Nhưng
bộ phận trí thức, am hiểu sẽ nhận ra rằng: Những dư luận chúng tạo ra chỉ làm
ảnh hưởng đến quốc gia, dân tộc và đi sai lệch định hướng của Đảng và nhà
nước. chế độ xã hội chủ nghĩa của Việt Nam do một chính Đảng duy nhất lãnh
đạo- Đảng cộng sản Việt Nam- là nhà nước của dân, do dân và vì dân, có sự
thống nhất chặt chẽ giữa các cơ quan, chuyên ngành và ý chí, nguyện vọng của
dân. Thế nhưng, một số người dân không thiếu hiểu biết, sẽ nhiều phần tin vào
những lời nói của những thành phần phản loạn và tham gia vào các cuộc biểu
tình, chống phá, đả đảo Đảng đương thời hay tuyên truyền những điều không
hay về Đảng,.. Chính vì vậy, trình độ học vấn, tri thức cũng là yếu tố rất quan
trọng làm ảnh hưởng tới dư luận xã hội.
3.

thông tin đại chúng
Hoạt động của hệ thống các phương tiện thông tin đại chúng bao gồm

báo, tạp chí, phát thanh, truyền hình, ấn phẩm in, mạng máy tính... có tác động,


ảnh hưởng mạnh mẽ tới sự hình thành dư luận xã hội. điều đó thể hiện trên các

phương diện sau:
-các phương tiện thông tin đại chúng cung cấp thông tin, truyền tải kịp
thời và đầy đủ thông tin về các mặt, các lĩnh vực của đời sống xã hội: việc đáp
ứng nhu cầu và sở thích thông tin của công chúng được coi là những tiền đề cơ
bản cho sự phát triển của hệ thống truyền thông đại chúng. Trên phương diện
này, hệ thống truyền thông đại chúng ở đất nước ta đã có những bước tiến nổi
bật trong những năm đổi mới. các chương trình phát thanh, truyền hình, xuất
bản phẩm trở nên đa dạng, phong phú hơn, cập nhật hơn với các thông tin về
đời sống chính trị, kinh tế, văn hóa, chính trị của đất nước; sự phản ánh của các
thông tin cũng chân thực và khách quan hơn.
-Các phương tiện thông tin đại chúng là diễn đàn ngôn luận công khai :
ngày nay, trình độ dân trí của người dân được nâng cao. Các tầng lớp nhân dân
cũng ngày càng tham gia rộng rãi hơn vào đời sống chính trị xã hội của đất
nước. Trong bối cảnh đó, các phương tiện thông tin đại chúng có trách nhiệm
truyền tải thông tin về các ý kiến phán xét, đánh giá, thái độ của công chúng đối
với các sự kiện, hiện tượng, diễn ra trong đời sống xã hội. bằng cách này, công
chúng sẽ có được cơ hội tham gia ngày càng tích cực và có trách nhiệm hơn
vào quá trình chuẩn bị, thực hiện và giám sát và đánh giá các chủ trương, chính
sách của đảng và Nhà nước cũng như các hoạt động cụ thể, thường xuyên của
các tổ chức chính quyền.
- các phương tiện thông tin đại chúng điều chỉnh, định hướng sự phát
triển của dư luận xã hội:hệ thống truyền thông đại chúng phải dành phần thích
đáng cho việc đăng tải các thông tin được kiểm chứng và mang tính định hướng
xây dựng. Đặc biệt, khi các sự việc, sự kiện diễn ra có tầm quan trọng và liên


quan đến lợi ích của đất nước, của dân tộc, đụng chạm đến các giá trị chuẩn
mực của xã hội cơ bản, khi đó định hướng thông tin phải phản ánh được quan
điểm của Đàng và Nhà nước, ý kiến chính thức của cơ quan chức năng và phản
ánh được sự phán xét, đánh giá chung của xã hội

Ví dụ: Hiện nay, ở nông thôn, tình trạng tham nhũng của cán bộ chính
quyền cơ sở diễn ra phức tạp. Nổi lên là tình trạng vi phạm các quy định về
quản lý đất đai. Điều này làm ảnh hưởng trực tiếp đến quyền lợi của người lao
động. Đây là nguyên nhân dẫn đến khiếu kiện đông người vượt cấp, kéo dài và
lây lan diện rộng. Hoặc một lĩnh vực khác cũng xảy ra tham nhũng là hoạt động
tư pháp. Trong các vụ án được phanh phui, nhiều cán bộ không chỉ ở cấp cơ sở
mà ngay tại các cơ quan trung ương cũng có hành vi nhận hối lộ, thiếu tinh thần
trách nhiệm, cố ý làm trái… với mục đích bảo kê, tiếp tay cho hoạt động tội
phạm. Việc nguyên viện phó VKSND Tối cao Phạm Sĩ Chiến hầu tòa trong vụ
án Năm Cam và đồng bọn là ví dụ. Thế nhưng bên cạnh việc thông tin về những
vụ việc tham nhũng như thế, báo chí đã xây dựng lòng tin cho người dân về
những cách giải quyết hợp luật, hợp tình của chính quyền: kẻ sai trái phải bị
trừng trị, người bị oan phải được mình oan, đền bù v.v…
4. Những nhân tố thuộc về tâm lí xã hội
Trạng thái tâm lí xã hội thường biểu hiện ở nhiều nhân tố như thói quen,
nếp sống, ý chí, tâm trạng hay tình cảm của nhóm xã hội, cộng đồng người đã
được hình thành do ảnh hưởng trực tiếp của các điều kiện sống, lao động, sinh
hoạt hàng ngày hoặc do tác động của công tác tuyên truyền, giáo dục. Ảnh
hưởng của nhân tố này có nhiều mặt đôi khi khó nhận biết. tùy từng thời điểm
nhất định, tâm trạng của con người có thể được thể hiện ở các trạng thái khác
nhau, thậm chí đối lập nhau như hưng phấn hoặc ức chế, tích cực hoặc tiêu cực,


lạc quan hoặc bi quan, yêu đời hoặc chán nản, hy vọng hoặc thất vọng... Khi
con người đang ở trong tâm trạng phấn chấn, hồ hởi thì nội dung phán xét, đánh
giá về sự kiện, hiện tượng xã hội sẽ có những khía cạnh khác với khi đang ở
trong tâm trạng bi quan, chán nản. Thường khi phấn chấn, lạc quan thì thấy
nhiều thuận lợi hơn, ít thấy khó khăn và ngược lại. những nếp nghĩ bảo thủ, di
sản của quá khứ cũng có thể ảnh hưởng tới sự hình thành dư luận xã hội nếu
không có sự định hướng đúng đắn.

Ví dụ: Khi nhà nước quyết định việc cấm các loại hình bán hàng rong
trên đường phố Hà Nội thì sẽ có rất nhiều luồng tư tưởng dư luận xã hội khác
nhau, do tâm lí của mỗi người dân là khác nhau. Trước tiên, những người bán
hàng rong sẽ vô cùng bất bình vì đây là công việc kiếm kế sinh nhai của họ từ
trước dến nay. Một bộ người dân khác quen mua bán hàng rong cũng sẽ cảm
thấy không thoải mái, không hợp lí khi việc này xảy ra.Hay những người nghĩ
rằng mất đi những gánh hàng rong, sẽ là mất đi một nét đẹp truyền thống từ
ngàn đời nay.Nhưng sẽ có những người ủng hộ quyết định này vì họ cho rằng
việc này sẽ khiến đường phố trở nên sạch sẽ, đẹp đẽ hơn hoặc họ thường mua
đồ ở siêu thị, của hàng tạp hóa hơn là hàng rong,…,…
5. Hoàn cảnh sinh hoạt chính trị- xã hội
Mức độ dân chủ hóa đời sống xã hội, khả năng và sự tham gia thực tế
của người dân vào các sinh hoạt chính trị- xã hội của đất nước có ảnh hưởng rất
quan trọng tới sự hình thành dư luận xã hội. trong điều kiện xã hội có dân chủ
rộng rãi, có thông tin đa dạng, phong phú thì mọi người dân sẵn sàng thẳng
thắn, cởi mở, bộc lộ các ý kiến, quan điểm của mình, tham gia bàn bạc các vấn
đề chung, do vậy, dư luận xã hội có điều kiện hình thành thuận lợi. ngược lại,
trong điều kiện xã hội thiếu dân chủ, thông tin nghèo nàn, thậm chí bị cắt xén,


xuyên tạc thì dư luận xã hội thường hình thành khó khăn, chậm chạp. Dưới các
chế độ độc tài, phát xít, mọi quyền dân chủ bị tiêu diệt, dư luận xã hội càng khó
hình thành và phát huy tác dụng, khi nó thường biểu hiện dưới dạng hình thức
biểu tượng, hò vè, tiếu lâm, châm biếm.
Ví dụ: Trong thời kì kháng chiến cứu nước, khi mà quyền dân chủ chưa
được hình thành thì nhân dân ta không có quyền tự do ngôn luận, không được
thông tin, đưa tin về bất cứ điều gì mà nhà nước không cho phép. Thậm chí, vào
thời kì này, nhiều tác phẩm văn học, thơ ca, và nhiều bài hát cũng bị cấm lưu
hành.
6. Các phong tục tập quán, hệ thống các giá trị, chuẩn mực xã hội đang hiện

hành trong xã hội
Các phong tục tập quán, hệ thống các giá trị, chuẩn mực xã hội đang hiện
hành trong xã hội trong chừng mực nhất định tác động tới sự hình thành dư luận
xã hội. về cơ bản, các phong tục tập quán, các giá trị, chuẩn mực xã hội hiện
hành, tạo ra những khuôn mẫu tư duy, khuôn mẫu hành động làm cơ sở cho việc
phán xét, đánh giá, khác nhau về cùng vấn đề. Điều này thể hiện rõ nét qua sự
nhìn nhận khác nhau giữa các thế hệ đối với những biểu hiện của lối sống hiện
đại như cách ăn mặc, các sản phẩm ca nhạc và phim ảnh, cách sinh hoạt, vui
chơi, giải trí...
Ví dụ: Vào thời kì bao cấp, khi mà những suy nghĩ, tư tưởng của người
dân chưa tiến bộ, cởi mở, thì lối ăn mặc được cho là không đứng đắn như quần
ống loe, áo hở bị phê phàn một cách nặng nề, và bị cho là không hợp với thuần
phong mĩ tục, là hư hỏng,…


V, Ý nghĩa thực tiễn của việc nghiên cứu của việc nghiên cứu xã hội học đối với
lĩnh vực pháp luật.
1, Phát huy quyền làm chủ của người dân.
Thông qua dư luận xã hội, nhân dân có điều kiện bày tỏ quan điểm, ý kiến của
mình về các vấn đề kinh tế, chính trị, đạo đức...
Việc hiểu được vai trò của dư luận xã hội sẽ giúp những người làm công tác lãnh
đạo và quản lý có được cái nhìn đa chiều. Lắng nghe dư luận cũng có nghĩa là lắng
nghe lòng dân để từ đó có những biện pháp xây dựng pháp luật phù hợp xác đáng
với mọi công dân đồng thời cũng có những chính sách khắc phục những quyết
định, những ý chí biểu hiệu quan liêu, xa rời quần chúng.
2, Trong xây dựng và hoàn thiện pháp luật.
“Pháp luật không phải là công cụ quản lý vạn năng” do vậy trong pháp luật
sẽ có những lỗ hổng thiếu sót nhất định. Và bằng thực tiễn, dư luận xã hội có thể
tìm ra được những lỗ hổng đó, góp phần không nhỏ trong việc hoàn thiện pháp
luật, có thể đưa ra những giải pháp sữa chữa các sai lầm mà pháp luật mắc phải.

Dư luận xã hội có thể hoan nghênh, chào đón, ủng hộ một văn bản pháp luật nào
đó, ngược lại cũng có thể phản đối việc ban hành quy định pháp luật cụ thể nào
đó.Vì vậy, các cơ quan nhà nước khi ban hành bất kỳ một quy định pháp luật cụ
thể nào đó, mang tính nhạy cảm thì nên tiến hành thăm dò dư luận xã hội về vấn đề
đó, nắm bắt được phản ứng của xã hội ủng hộ hay phản đối, có những băn khoăn
gì, các chủ thể có liên quan sẽ “mách nước”, khuyên nhủ nên xử lý vấn đề đó như
thế nào.


Từ đó cho thấy các cơ quan có thẩm quyền khi ban hành hay bãi bỏ các vấn đề xã
hội nhạy cảm thì không thể không tính đến dư luận xã hội.
3, Trong việc thực hiện pháp luật.
Việc thực hiện pháp luật là một họat động mang ý nghĩa thực tiễn, nó được
phản ánh thông qua dư luận xã hội. Nếu dư luận xã hội đồng tình, ủng hộ họat
động đó thì sẽ có thể thực hiện một cách dễ dàng. Nhưng ngược lại, nếu dư luận
không ủng hộ thì sẽ gây rất nhiều trở ngại, khó khăn. Việc cần thiết khi tổ chức
thực hiện pháp luật đó là cần phải chú ý đến dư luận xã hội, tùy theo tình hình phản
ứng mà có những động thái cho phù hợp.
Trong hoạt động xét xử của toà án hay hoạt động truy cứu trách nhiệm pháp lý của
các cơ quan, nhà chức trách có thẩm quyền luôn gây được sự chú ý của dư luận xã
hội, nhất là các vụ án dân sự, hôn nhân gia đình, rồi những vụ tham nhũng... Dư
luận (quần chúng) thường quan tâm xem việc xử lý của các cơ quan có thẩm quyền
có nghiêm minh, công bằng, hay còn có sự bao che nương nhẹ...
Tuỳ theo tính chất, tầm quan trọng của vấn đề, tuỳ theo phản ứng của dư luận và
kết quả nó mang lại hay hậu quả mà nó có thể gây ra, sẽ làm thay đổi cách ứng xử
trong việc thực hiện pháp luật khác nhau. Nếu dư luận đi sai vấn đề, truyền bá tư
tưởng, hoạt động sai trái thì việc thực hiện pháp luật cũng không còn nữa. Thay
vào đó là những vi phạm pháp luật, và ngược lại. Chính lẽ đó mà việc thấy được,
hiểu được dư luận trong tư tưởng của mỗi người luôn phải được chú trọng, quan
tâm một cách đầy đủ về cả thông tin lẫn sự hiểu biết.

4, Trong việc bảo vệ pháp luật.


Đối với những mối quan hệ pháp luật quan trọng, mang tính chất quốc gia
như nền kinh tế, chính trị, chủ quyền lãnh thổ… nếu bị xâm phạm thì ngay lập tức,
dư luận xã hội sẽ lên tiếng mạnh mẽ nhằm bảo vệ các mối quan hệ pháp luật một
cách chính đáng, thể hiện ý chí, quyền tự chủ của một dân tộc.
Ví dụ điển hình nhất là tình hình tranh chấp quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của
Việt Nam và Trung Quốc. Khi tình hình giữa 2 nước trong việc tranh chấp trở nên
căng thẳng, dư luận Việt Nam luôn đóng vai trò quan trọng trong việc khẳng định
chủ quyền của Việt nam đối với 2 quần đảo này.
5, Trong việc giáo dục ý thức pháp luật.
Dư luận xã hội luôn hỗ trợ cùng pháp luật trong việc điều chỉnh hành vi của con
người, duy trì trật tự trong toàn xã hội cũng như trong mỗi cộng đồng. Dư luận có
tác động mãnh mẽ tới ý thức, tư tưởng của con người. Nó góp phần giáo dục nhận
thức đúng đắn về điều tốt, cái xấu, điều gì đúng pháp luật, điều nào sai pháp luật…
để từ đó, nó có cả tác dụng răn đe con người cần tránh xa những cái xấu xa trong
xã hội.
Đồng thời, dư luận xã hội cũng góp phần nâng cao sự hiểu biết pháp luật của người
dân, và cũng là phương tiện để các cơ quan nhà nước có thể đánh giá được khả
năng nhận thức, việc sử dụng pháp luật và phản ứng của nhân dân đối với các vấn
đề pháp luật đề từ đó tiến hành các hoạt động thực hiện pháp luật như thế nào cho
phù hợp với khả năng nhận thức và thực hiện pháp luật ở đại số quần chúng nhân
dân.
C, KẾT LUẬN.


Như vậy, thông qua tính chất cơ bản và ý nghĩa thực tiễn của việc nghiên
cứu dư luận xã hội đối với lĩnh vực pháp luật, ta có thể thấy rõ tầm quan trọng của
nó đối với các lĩnh vực pháp luật nói chung và việc xây dựng, hoàn thiện các mối

quan hệ khác nói riêng. Việc nghiên cứu, tìm hiểu thêm về dư luận xã hội có ý
nghĩa rất lớn đối với cả về mặt vật chất và tinh thần của con người. Dư luận xã hội
càng phát triển đồng nghĩa với việc tính dân chủ càng được nâng cao, con người có
thể thoải mái bày tỏ những quan điểm, nguyện vọng của mình. Vì vậy việc cần
thiết là phải hoàn thiện ngày càng tốt hơn hệ thống dư luận xã hội, để nâng cao lợi
ích của nó đối với xã hội ngày nay.


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1,Vai trò của pháp luật trong đời sống xã hội - Nguyễn Minh Đoan
2, Tập bài giảng “Xã hội học” - Trường Đại học Luật Hà Nội.
3. Xã hội học đại cương, Nguyễn Sinh Huy, NXB đại học quốc gia
4. trang web: />5. Trang web xahoihoc.com.vn
6. Trang web vi.wikipedia.com.org


A.ĐẶT VẤN ĐỀ
B.GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
I.Định nghĩa dư luận xã hội
II.Đặc điểm dư luận xã hội
III.Các giai đoạn hình thành dư luận xã hội
1. giai đoạn hình thành thuộc ý thức cá nhân
2. giai đoạn trao đổi thông tin giữa mọi người
3. giai đoạn tranh luận có tính chất tập thể về các vấn đề quan trọng
4. giai đoạn đi từ dư luận xã hội đến hành động thực tiễn
IV. Các yếu tố ảnh hưởng đến sự hình thành dư luận xã hội
1.

Tính chất của các sự việc, sự kiện, hiện tượng xã hội, quá trình xã



hội đang diễn ra trong xã hội
2.

Hệ tư tưởng, trình độ học vấn, kiến thức, hiểu biết, kinh nghiệm
thực tế xã hội của con người

3.

thông tin đại chúng

4.

Những nhân tố thuộc về tâm lí xã hội

5.

Hoàn cảnh sinh hoạt chính trị- xã hội

6.

Các phong tục tập quán, hệ thống các giá trị, chuẩn mực xã hội
đang hiện hành trong xã hội

V, Ý nghĩa thực tiễn của việc nghiên cứu của việc nghiên cứu xã hội
học đối với lĩnh vực pháp luật.
1. Phát huy quyền làm chủ của người dân.
2.

Trong xây dựng và hoàn thiện pháp luật.


3.

Trong việc thực hiện pháp luật.

4. Trong việc bảo vệ pháp luật.
5. Trong việc giáo dục ý thức pháp luật.

C.KẾT LUẬN



×