Tải bản đầy đủ (.docx) (17 trang)

Phân tích để làm rõ các yếu tố chi phối pháp luật thuế ở nước ta hiện nay, ý kiến pháp lí của nhóm thực hiện về sự thể hiện các yếu tố chi phối này tr

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (199.65 KB, 17 trang )

Bài tập nhóm tháng 2 Môn Luật Tài chính
Nhóm 2 Lớp N08 – TL2

MỤC LỤC

1


Bài tập nhóm tháng 2 Môn Luật Tài chính
Nhóm 2 Lớp N08 – TL2

A. LỜI MỞ ĐẦU
Sau khi nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời, song song với việc xóa bỏ hệ
thống thuế phi nhân đạo (thuế thân, thuế muối, thuế thổ trạch,...), Nhà nước dần dần
hình thành hệ thống thuế mới. Cùng với sự phát triển của kinh tế, xã hội, yêu cầu đặt
ra trong từng giai đoạn cụ thể, hệ thống thuế cũng chịu sự chi phối bởi nhiều yếu tố
và ngày càng đi tới sự ổn định và hoàn thiện. Để hiểu rõ hơn về đề tài này, nhóm xin
được trình bày Đề số 01: “Phân tích để làm rõ các yếu tố chi phối pháp luật thuế
ở nước ta hiện nay, ý kiến pháp lí của nhóm thực hiện về sự thể hiện các yếu tố
chi phối này trong Luật thuế nhập khẩu”.

B. NỘI DUNG
I. CƠ SỞ LÝ LUẬN
1. Khái niệm pháp luật thuế
Pháp luật thuế được định nghĩa là tổng hợp các quy phạm pháp luật điều chỉnh
các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình thu, nộp thuế giữa cơ quan nhà nước
có thẩm quyền và người nộp thuế nhằm hình thành nguồn thu ngân sách nhà nước
để thực hiện các mục tiêu xác định trước1.
Pháp luật thuế chính là những căn cứ pháp lý nhất định mà quan hệ thu, nộp
thuế giữa nhà nước và dân cư phải được thực hiện dựa trên những căn cứ đó. Pháp
luật thuế có những đặc điểm sau:


• Về đối tượng điều chỉnh:
Đối tượng điều chỉnh của pháp luật thuế bao gồm các nhóm quan hệ sau:
- Nhóm các quan hệ phát sinh trong quá trình quản lý thuế.
- Nhóm các quan hệ phát sinh trong quá trình thực hiện nghĩa vụ thuế.
- Nhóm các quan hệ phát sinh trong quá trình xử lý vi phạm và khiếu nại thuế.
• Về phương pháp điều chỉnh:
Luật thuế sử dụng phương pháp mệnh lệnh quyền uy, không có sự bình đẳng
giữa cơ quan có thẩm quyền về thuế với người nộp thuế. Nhà nước có quyền đơn
phương đưa ra những quyết định theo ý chí của mình mà không cần có sự thỏa thuận
của các đối tượng còn lại. Trường hợp cần thiết, nhà nước có thể áp dụng các biện
pháp cưỡng chế, buộc đối tượng nộp thuế phải thực hiện nghĩa vụ.
• Về nguồn của pháp luật thuế:
Nguồn của pháp luật thuế bao gồm:
- Các văn bản pháp luật do cơ quan có thẩm quyền ban hành điều chỉnh các
1 Trường đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật thuế Việt Nam, Nxb. CAND, Hà Nội, 2012, trang 24.

2


Bài tập nhóm tháng 2 Môn Luật Tài chính
Nhóm 2 Lớp N08 – TL2
quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình thu, nộp thuế: bao gồm các văn bản luật
(Luật thuế giá trị gia tăng, Luật thuế tiệu thụ đặc biệt, Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập
khẩu, Luật thuế thu nhập doanh nghiệp...) và các văn bản dưới luật (Pháp lệnh thuế
do Ủy ban thường vụ Quốc hội ban hành, sửa đồi, bổ sung, các văn bản dưới luật
khác do Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng các bộ quản lí ngành ban hành
quy định chi tiết thi hành các luật, pháp lệnh thuế).
- Các văn bản pháp luật quốc tế điều chỉnh các quan hệ phát sinh trong quá
trình thực hiện quyền thu thuế mà Việt Nam đã kí kết hoặc cam kết thực hiện (như
OECD- 1977 về "Hiệp định mẫu về tránh đánh thuế hai lần đối với các loại thuế

đánh vào tài sản và thu nhập"; Hiệp định ưu đãi thuế quan có hiệu lực chung CEPT;
hay GATT 1994...)
2. Căn cứ xây dựng hệ thống pháp luật thuế
• Căn cứ khi xây dựng hệ thống pháp luật thuế:
Thứ nhất là căn cứ về đảm bảo nguồn vật chất cho chi tiêu của nhà nước, bởi hệ
thống pháp luật thuế được ban hành giúp cho nhà nước có được nguồn thu, qua đó,
với tư cách là người đại diện cho công chúng, thực hiện chi tiêu, phân bổ hợp lý cho
xã hội.
Thứ hai là căn cứ về điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội. Những yếu tố liên quan
tới tình hình kinh tế, chính trị, xã hội có tác động trực tiếp đến việc ban hành hay
thay đổi cơ cấu của hệ thống pháp luật thuế.
Thứ ba là căn cứ về yêu cầu phải bao quát hết nguồn thu, bởi đáp ứng yêu cầu
này, pháp luật thuế không chỉ tạo ra căn cứ pháp lý để có được nguồn thu tối đa mà
còn đảm bảo được sự công bằng, bình đẳng.
Thứ tư là căn cứ về yêu cầu của các quan hệ kinh tế đối ngoại, quan hệ quốc tế
trong từng giai đoạn cụ thể để nề kinh tế trong nước phát triển và để đảm bảo quyền
lợi công dân quốc gia mình.
• Căn cứ ban hành luật về một sắc thuế cụ thể:
Thứ nhất, phải đảm bảo tính thống nhất của đạo luật thuế cụ thể trong cơ cấu hệ
thống pháp luật thuế. Luật thuế được ban hành phải tuân thủ những nguyên tắc, yêu
cầu chung của hệ thống pháp luật thuế.
Thứ hai, phái đảm bảo tính ổn định nội tại trong quá trình áp dụng từng luật thuế
và ổn định trong tổng thể hệ thống pháp luật thuế, do đó phải có sự cân nhắc kỹ
lưỡng trước khi ban hành, sửa đổi, bãi bỏ một hoặc một số quy định về thuế.
Thứ ba, phải đảm bảo tính công bằng trong việc thực hiện nghĩa vụ thuế. Công
bằng chỉ có thể được thực hiện khi có những quy định pháo luật về nội dung thực
3


Bài tập nhóm tháng 2 Môn Luật Tài chính

Nhóm 2 Lớp N08 – TL2
hiện nghĩa vụ thuế cũng như đủ biện pháp pháp lý buộc các bên có liên quan thực
hiện nguyên tắc công bằng.
3. Vai trò của pháp luật thuế
Pháp luật thuế tạo cơ sở pháp lý quan trọng và ổn định cho nguồn thu, đáp ứng
yêu cầu chi tiêu nhà nước. Nguồn thu từ thuế có vị trí quyết định đến cơ cấu nguồn
thu NSNN. Do đó, bất kì quốc gia nào cũng có và mong muốn có được hệ thống
pháp luật thuế đầy đủ với tư cách là căn cứ pháp lý vững chắc để tạo ra nguồn thu ổn
định cho NSNN.
Pháp luật thuế được sử dụng như một công cụ điều tiết nền kinh tế , thực hiện
đường lối trong một thời kì nhất định của nhà nước. Nhà nước, bằng pháp luật có
khả năng quản lý điều tiết tới mọi mặt của đời song kinh tế xã hội. Bằng hệ thống
pháp luật thuế, nhà nước thể hiện ý chí của mình đối với đường lối phát triển kinh tế
một cách gián tiếp, thông qua đó thực hiện công bằng xã hội. Ở Việt Nam, bên cạnh
những vai trò chung đối với nền kinh tế xã hội, pháp luật thuế còn được nhà nước sử
dụng như một công cụ thể hiện chính sách xã hội.
Nhà nước có thể sử dụng công cụ pháp luật thuế để kiểm tra gián tiếp hoạt
động sản xuất kinh doanh. Để thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ nộp thuế, các cơ
quan quản lý thuế cùng với đối tượng nộp thuế buộc phải quan tâm đến những thủ
tục và tuân thủ những quy định. Bằng những quy định đó, nhà nước gián tiếp quản lí
nền kinh tế, trên cơ sở đó có những sửa đổi, bổ sung pháp luật phù hợp. Mặt khác,
cũng thông qua việc việc kiểm tra tuân thủ pháp luật thuế, các cơ quan nhà nước có
thẩm quyền cũng có khả năng phát hiện và xử lí kịp thời những hành vi vi phạm
pháp luật thuế nói riêng và vi phạm trong quá trình hoạt động gắn với tư cách của
đối tượng nộp thuế nói chung.
II. CÁC YẾU TỐ CHI PHỐI PHÁP LUẬT THUẾ Ở NƯỚC TA HIỆN NAY
1. Yếu tố trong nước
1.1. Điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội
Tình hình kinh tế, chính trị, xã hội trong nước ở một thời kì nhất định là yếu tố
có ảnh hưởng quyết định đến nội dung chính sách pháp luật về thuế. Điều này hoàn

toàn dễ hiểu bởi suy cho cùng chính sách pháp luật về thuế là tấm gương phản chiếu
thực trạng tình hình kinh tế xã hội của một quốc gia.
Pháp luật luôn phản ánh dưới hình thức pháp lí vào quan hệ xã hội, một sự
phản ánh lệ thuộc vào những biến đổi xã hội. để phát huy được vai trò, tác dụng của
mình trong đời sống xã hội, pháp luật luôn phản ánh đúng đầy đủ hiện thực khách
quan những tiến trình đang diễn ra trong cuộc sống xã hội. nếu không có những khảo
4


Bài tập nhóm tháng 2 Môn Luật Tài chính
Nhóm 2 Lớp N08 – TL2
sát, đánh giá từ thực tiễn cuộc sống thì khó có cơ sở khoa học và thực tiễn xác đáng
để xây dựng và thực hiện pháp luật, không phát huy được vai trò của pháp luật trong
đời sống.
Pháp luật về thuế có mục tiêu quan trọng là công cụ khuyến khích, hỗ trợ và
bảo vệ nền sản xuất trong nước, xuất khẩu nước ngoài, ổn định nguồn thu cho ngân
sách nhà nước… việc ban hành, sửa đổi bổ sung pháp luật về thuế cũng là căn cứ
vào tình hình phát triển chung của toàn xã hội, thay đổi sao cho phù hợp với điều
kiện và hoàn cảnh phát triển trong từng giai đoạn. về nguyên tắc, việc đánh thuế
không được tạo nên sự khánh kiệt của dân chúng. Những yếu tố liên quan đến tình
hình phát triển kinh tế, thu nhập của dân cư, định hướng của nhà nước về phát triển
ngành, miền có tác động trực tiếp đến việc ban hành hay thay đổi cơ cấu của hệ
thống pháp luật thuế. Bên cạnh đó, những yếu tố về chính trị cũng chi phối tới hệ
thống pháp luật thuế của một quốc gia.
Do đó, những yếu tố về chính trị, kinh tế xã hội góp phần không nhỏ trong
việc hoàn thiện pháp luật về thuế, giúp cho pháp luật thuế trở thành cơ sở pháp lí
quan trọng và ổn định cho nguồn thu, đáp ứng nhu cầu chi tiêu của nhà nước, giúp
cho pháp luật thuế như một công cụ điều tiết nền kinh tế, thực hiện đường lối trong
một thời kì nhất định của nhà nước; đồng thời thông qua pháp luật về thuế nhà nước
có thể kiểm tra gián tiếp hoạt động sản xuất kinh doanh của tổ chức, cá nhân…

1.2. Nhu cầu ngân sách nhà nước
Ngân sách nhà nước được hình thành để nhà nước thực hiện việc điều tiết các
hoạt động kinh tế, xã hội, đồng thời tạo ra các hàng hóa, dịch vụ công cộng phục vụ
người dân. Thuế là nguồn thu chủ yếu của ngân sách nhà nước. Đây là vai trò quan
trọng nhất của thuế đối với nền kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia. Việc các chủ thể
nộp thuế - thực hiện nghĩa vụ nộp thuế theo quy định của pháp luật thuế đã tạo ra
nguồn tài chính quan trọng, chiếm tỷ trọng lớn trong cơ cấu ngồn thu nội bộ của nền
kinh tế quốc dân. Mỗi loại thuế mà nhà nước ban hành đều nhằm vào mục đích là tạo
nguồn thu cho ngân sách nhà nước. Do đó, pháp luật thuế có thể bị chi phối bởi nhu
cầu của NSNN. Thuế xuất hiện do nhu cầu chi tiêu của Nhà nước, của các chủ thể
quản lý xã hội. Vì mang tính không hoàn trả trực tiếp nên nhà nước có thể dùng thuế
làm công cụ chủ yếu để thu ngân sách, phục vụ chi tiêu quốc gia,… Từ năm 1990,
thuế đã chiếm tỷ trọng rất hơn, hiện nay hàng năm, thuế luôn góp khoảng trên 90%
vào tổng thu ngân sách nhà nước. với việc đóng góp một tỷ trọng cao và ngày càng
tăng lên trong tổng thu ngân sách nhà nước, thuế đang ngày càng chứng tỏ vai trò
chủ đạo của mình trong việc huy động tài chính công phục vụ chi tiêu cho cả quốc
5


Bài tập nhóm tháng 2 Môn Luật Tài chính
Nhóm 2 Lớp N08 – TL2
gia.
1.3. Ý thức của chủ thể nộp thuế
Đây là một yếu tố quan trọng chi phối đến việc thực thi Luật thuế của nước
ta. Điều 80 hiến pháp 1992 ghi nhận: “Đóng thuế là nghĩa vụ của công dân”. Tuy
nhiên, ý thức của một bộ phận chủ thể nộp thuế chưa cao, họ luôn tìm cách để giảm
thuế, trốn thuế bằng các mánh khóe tinh vi làm cho các cơ quan chức năng rất khó
kiểm soát. Hiện nay có những gian lận trong việc nộp thuế của các chủ thể nộp thuế
như: kê khai, khai báo không trung thực (khai báo số lượng hàng hóa, chất lượng
hàng hóa thấp hơn so với hàng hóa thật,…), gian lận giấy tờ, hóa đơn (khai sai

nguồn gốc xuất xứ,…) với cơ quan thu thuế để trốn thuế. Những hành vi này khiến
cho pháp luật buộc phải có những biện pháp ngăn ngừa hoặc xử lý.
2. Yếu tố nước ngoài: Xu hướng hội nhập và các cam kết quốc tế.
Như chúng ta đã biết, hội nhập quốc tế là một quá trình phát triển tất yếu, do
bản chất xã hội của lao động và quan hệ giữa con người. Hội nhập đã trở thành một
xu thế lớn của thế giới hiện đại, tác động mạnh mẽ đến quan hệ quốc tế và đời sống
của từng quốc gia, hội nhập quốc tế là lựa chọn chính sách của hầu hết các quốc gia
để phát triển trong đó có Việt Nam. Tiến trình hội nhập có thể được thông qua bằng
các hình thức như gia nhập vào các tổ chức kinh tế giữa các quốc gia với nhau, khu
vực cũng như thế giới, sự tham gia đó được bảo đảm bằng việc kí kết các điều ước,
hiệp định, các cam kết do các bên thỏa thuận và có giá trị bắt buộc đối với các bên
khi tham gia.
Khi tham gia kí kết các điều ước quốc tế trên lĩnh vực nào đó, Nhà nước ta
cũng phải có sự điều chỉnh pháp luật trong nước phù hợp với điều ước quốc tế nhằm
tạo được sự thuận lợi cần thiết và thống nhất giữa hai nguồn pháp luật này.
III. SỰ THỂ HIỆN CÁC YẾU TỐ CHI PHỐI PHÁP LUẬT THUẾ TRONG
LUẬT THUẾ NHẬP KHẨU VÀ Ý KIẾN PHÁP LÍ CỦA NHÓM
1. Khái niệm thuế nhập khẩu và pháp luật thuế nhập khẩu
1.1. Khái niệm thuế nhập khẩu
Dựa trên Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu năm 2005 và Luật Hải quan sửa
đổi, bổ sung năm 2005 thì thuế nhập khẩu có thể được định nghĩa là loại thuế đánh
vào “những khu vực trong lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam,
trong vùng đặc quyền kinh tế, thềm lục địa của Việt Nam, nơi Luật Hải quan được
áp dụng”
Trên thực tế chưa có một định nghĩa hoàn chỉnh thống nhất nào mang tính
pháp lý về thuế nhập khẩu. Xét về phương diện kinh tế, thuế nhập khẩu có thể hiểu
6


Bài tập nhóm tháng 2 Môn Luật Tài chính

Nhóm 2 Lớp N08 – TL2
là khoản đóng góp bằng tiền của cá nhân, tổ chức vào ngân sách nhà nước theo quy
định của pháp luật khi họ có hành vi nhập khẩu hàng hóa, dịch vụ qua biên giới một
nước. Qua cách hiểu này thuế nhập khẩu được quan niệm như là một quan hệ phân
phối nguồn lực tài chính, phát sinh giữa chủ thể là tổ chức, cá nhân nộp thuế với
người thu thuế là Nhà nước.
Từ định nghĩa thuế nhập khẩu ta có thể rút ra các đặc điểm của nó như sau:
- Thuế nhập khẩu có đối tượng chịu thuế là các hàng hóa được phép vận chuyển
qua biên giới.
- Thuế nhập khẩu là thuế gián thu nhưng tính gián thu chỉ mang ý nghĩa tương
đối.
- Thuế nhập khẩu được quản lý thu bởi cơ quan chuyên trách là Hải quan.
- Thuế nhập khẩu gắn liền với hoạt động kinh tế đối ngoại của mỗi quốc gia
trong từng thời kỳ.
- Thuế nhập khẩu bị chi phối bởi nhiều yếu tố đặc biệt là yếu tố hội nhập kinh tế
của quốc gia.
1.2. Khái niệm pháp luật thuế nhập khẩu
Pháp luật về thuế nhậu khẩu hay có thể hiểu là tập hợp các quy phạm pháp
luật do Nhà nước ban hành, nhằm điều chỉnh các quan hệ pháp luật phát sinh trong
quá trình đăng ký, kê khai, tính thuế, nộp thuế, quyết toán thuế, hoàn thuế, miễn
giảm thuế và xử lý các vi phạm, tranh chấp về thuế nhập khẩu, phát sinh giữa Nhà
nước và người nộp thuế.
Xét về phương diện hình thức, pháp luật về thuế nhập khẩu bao gồm các văn
bản quy phạm pháp luật như văn bản luật, nghị quyết của Quốc hội, nghị định và
nghị quyết của Chính phủ, quyết định và chỉ thị của Thủ tướng chính phủ, quyết
định, thông tư và chỉ thị của các bộ… Còn xét trên phương diện nội dung, pháp luật
về thuế nhập khẩu lại bao hàm các vấn đề chủ yếu như phạm vi áp dụng (được thể
hiện qua các quy định về chủ thể nộp thuế và đối tượng chịu thuế, đối tượng không
chịu nộp thuế xuất khẩu) ,căn cứ tính thuế nhập khẩu, chế độ miễn giảm thuế nhập
khẩu và hoàn thuế nhập khẩu, xử lý vi phạm và giải quyết tranh chấp về thuế nhập

khẩu.
2. Yếu tố chi phối pháp luật thuế nhập khẩu
2.1 Tình hình kinh tế, chính trị, xã hội trong nước
Tình hình kinh tế, chính trị, xã hội trong nước ở một thời kỳ nhất định là yếu
tố có ảnh hưởng mang tính quyết định đến nội dung chính sách thuế nhập khẩu và
nội dung pháp luật thực định về thuế nhập khẩu trong giai đoạn đó.
Đối với pháp luật thuế nhập khẩu có mục tiêu quan trọng là công cụ khuyến
7


Bài tập nhóm tháng 2 Môn Luật Tài chính
Nhóm 2 Lớp N08 – TL2
khích hỗ trợ bảo vệ nền sản xuất trong nước việc ban hành, sửa đổi, bổ sung bộ phận
pháp luật này cần thiết phải căn cứ vào thực trạng phát triển của nền sản xuất trong
nước, sức cạnh tranh của hàng hóa nước mình trên thị trường quốc tế. Trong điều
kiện hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế các quốc gia phải câm kết giảm thuế quan
theo lộ trình nhất định. Vì vậy, mỗi quốc gia cần phải nghiên cứu đánh giá so sánh
trong từng ngành hàng cụ thể để xác định những ngành hàng sản xuất nào cần được
bảo hộ, mức độ bảo hộ và thời hạn bảo hộ.... Đối với những hàng hóa có uy tín trên
thị trường quốc tế có khả năng cạnh tranh cao thì không cần sự bảo hộ mà lấy đó
làm cơ sở cho việc đàm phán về thuế quan với các quốc gia khác.... Qua đó có những
cơ sở cho việc đàm phán thương mại và quy định mức thuế đối với từng nhóm hàng
hóa nhập khẩu trong pháp luật thuế nhập khẩu của mình. Từ thực trạng hoạt động
sản xuất, nhập khẩu hàng hóa để phát hiện ra hành vi cạnh tranh không lành mạnh
trong thương mại quốc tế và tác động cụ thể của nó đối với hành vi đối với nền kinh
tế quốc gia mình từ đó ban hành, sửa đổi, bổ sung các quy định thuế nhập khẩu nhằm
bảo vệ lợi ích quốc gia mình trong khuôn khổ pháp luật cho phép.
Ví dụ: Vào thời điểm khoảng tháng 2 và tháng 3 năm 2004, mặt hàng sắt thép
trên thị trường đột ngột tăng giá. Từ thực trang đó, Nhà nước đã phải điều chỉnh theo
hướng là giảm thuế nhấp khẩu đối với mặt hàng phôi thép và thép thành phẩm nhập

khẩu. Theo đó, Bộ tài chính đã ban hành quyết định số 22/2004/QĐ-BTC ngày 27
tháng 2 năm 2004 về việc quy định mức thuế suất thuế nhập khẩu ưu đãi đối với một
số mặt hàng sát thép.
2.2. Nhu cầu ngân sách nước đối với thuế nhập khẩu
Thuế nhập khẩu là một nguồn thu quan trọng đối với ngân sách nhà nước. Đối
với những nước đang phát triển như Việt Nam thì thuế xuất khẩu là nguồn thu quan
trọng của ngân sách nhà nước. Những số liệu về tỷ trọng của số thu hải quan so với
tổng thu ngân sách trong những năm qua đã thể hiện rõ điều đó. Nguồn thu ngân
sách nhà nước được cấu thành từ các nguồn chính : thuế, phí và lệ phí. Trong đó,
thuế đóng góp một tỉ trọng lớn, ảnh hưởng đến quy mô ngân sách. Trong cơ cấu
thuế, thuế nhập khẩu chiếm một phần quan trọng. thông qua thuế nhập khẩu, nhà
nước huy động một phần nguồn thu nhập được tạo ra từ hoạt động nhập khẩu hàng
hóa tập trung vào ngân sách. Tùy thuộc vào mỗi thời kỳ, giai đoạn lịch sử khác nhau,
sự phát triển kinh tế đối ngoại, quan điểm sử dụng mà thuế nhập khẩu có vai trò khác
nhau đối với những quốc gia khác nhau trong việc tạo lập nguồn thu ngân sách nhà
nước. Với các nước phát triển, nguồn thu từ thuế nhập khẩu chiếm một tỷ trọng
không đáng kể trong nguồn thu ngân sách nhà nước (chỉ từ 1- 5%). Tuy nhiên, ở các
8


Bài tập nhóm tháng 2 Môn Luật Tài chính
Nhóm 2 Lớp N08 – TL2
nước đang phát triển, thuế nhập khẩu luôn chiếm một tỷ trọng đáng kể trong tổng thu
ngân sách. Ở Việt Nam, trong những năm gần đây, thuế xuất, nhập khẩu (chủ yếu là
thuế nhập khẩu), đóng góp khoảng 25 – 30% tổng thu về thuế.
Tuy nhiên, kể từ khi thực hiện chủ trương cải cách thuế, và thực hiện các cam
kết cắt giảm thuế: ASEAN, ASEAN – Trung Quốc, ASEAN – Hàn Quốc, WTO…
nguồn thu về thuế nhập khẩu giảm dần trong tổng thu về thuế. Khi hội nhập kinh tế
quốc tế, Việt Nam ký kết và thực hiện các cam kết về thương mại quốc tế, trong đó
có những cam kết cắt giảm thuế nhập khẩu dẫn đến hàng hóa nhập khẩu tăng cạnh

tranh với các sản phẩm hàng hóa trong nước. Kết quả là kích thích tiêu dung, từ đó
thu được nhiều loại thuế khác như thuế giá trị gia tăng, thuế thu nhập doanh nghiệp,
thuế tiêu thụ đặc biệt… Các nước thành viên khác cũng phải cắt giảm thuế quan từ
đó dẫn đến việc kích thích các nước khác tăng hàng xuất khẩu dẫn đến tăng thu ngân
sách nhà nước từ các hàng xuất khẩu sang các nước thành viên đó. Như vậy, việc cắt
giảm thuế nhập khẩu vừa làm tăng thu ngân sách vừa làm giảm thu ngân sách do đó
phải có sự tính toán kỹ lưỡng.
2.3. Ý thức của chủ thể nộp thuế trong lĩnh vực thuế nhập khẩu
Khi nói về việc thực thi bất kỳ một đạo luật nào trong cuộc sống không thể
không nói tới ý thức pháp luật của người dân khi tham gia vào các quan hệ xã hội do
đạo luật đó điều chỉnh. Cụ thể đối với các quy định của luật nhập khẩu, một trong số
những chủ thể tham gia vào phải kể đến các nhà nhập khẩu. Tuy nhiên ý thức pháp
luật của những chủ thể này lại đặc biệt yếu kém. Mỗi khi cơ quan nhà nước có chính
sách mới về xuất nhập khẩu là ngay lập tức các chủ thể đó cũng nghiên cứu tìm ra
phương pháp đối phó với chính sách mới đó. Đây là một yếu tố quan trọng ảnh
hưởng đến việc thực thi Luật thuế nhập khẩu. Hiện nay có những gian lận chủ yếu
sau trong việc nộp thuế của các chủ thể nộp thuế.
• Về giá tính thuế nhập khẩu.
Một số thủ đoạn gian lận giá có tính chất phổ biến và điển hình trong quá trình áp
dụng về giá tính thuế nhập khẩu có thể kể đến như:
Thứ nhất, thủ đoạn khai báo giá không trung thực: Với cách này, bên nhập khẩu
sẽ thông đồng với nhà sản xuất để khai báo trị giá hàng hóa nhập khẩu thấp hơn so
với trị giá hàng hóa trong thực tế. Đa số nhà xuất khẩu khi đã có quan hệ giao dịch
với nhà nhập khẩu thì họ đều bảo vệ khách hàng của mình vì điều này có lợi cho nhà
xuất khẩu tiêu thụ được sản phẩm. Do đó giao dịch dễ dàng được thực hiện theo hai
hay nhiều hợp đồng để đối phó với cơ quan hải quan. Điển hình trong trường hợp
này là vụ khai báo sai trị giá hàng hóa là điện thoại di động của công ty Đông
9



Bài tập nhóm tháng 2 Môn Luật Tài chính
Nhóm 2 Lớp N08 – TL2
Nam. Giám đốc của công ty này là Nguyễn Gia Thiều đã móc nối với công ty
Đông Nam Hồng Kông mua trên 40.000 điện thoại di động, khai giá thấp hơn so
với giá thực tế thanh toán từ 75USD đến 375USD/chiếc trốn thuế nhập khẩu
trên 100 tỷ đồng.
Thứ hai, thủ đoạn khai thấp về chất lượng hàng hóa: Doanh nghiệp sẽ khai
báo hàng hóa của họ là hàng thứ phẩm, hàng tồn kho, hàng vỡ vụ nhiều…do
vậy sẽ được giảm thuế suất so với hàng hóa cùng loại thông thường.
Thứ ba, thủ đoạn khai báo hàng không thanh toán, hàng hỗ trợ tiếp thị quảng cáo:
Theo công văn hướng dẫn của ngành hải quan, nếu doanh nghiệp nhập hàng hóa
có kèm hàng hóa khuyến mại thì sẽ được miễn thuế đối với hàng hóa đi kèm. Lợi
dụng điều này, nhiều công ty đã nhập số lượng hàng hóa khuyến mại gấp nhiều lần
hàng hóa nhập khẩu chính. Ví dụ: công ty An Nam nhập khẩu 104 chai nước làm
mềm da có khuyến mãi 96 chai. Toàn bộ lô hàng sau mỗi mục đều có số lượng hàng
siêu F.O.C (hàng mua một tặng nhiều hơn một). Công ty này đã bị Phòng trị giá tính
thuế bác bỏ trị giá giao dịch.
Thứ tư, thủ đoạn đánh đồng tên hàng nhưng chất lượng và phẩm cấp thương mại
cao hơn. Ví dụ doanh nghiệp khai báo đồng hồ treo tường, nếu không để ý rõ, không
yêu cầu doanh nghiệp xuất trình mẫu hàng hoặc ra bãi xem cụ thể thì cán bộ Hải
quan dễ bị nhầm lẫn vì đồng hồ treo tường có hàng trăm loại khác nhau với giá cả rất
chênh lệch.
Với các thủ đoạn tinh vi như trên khiến cho công tác xác định giá gặp nhiều khó
khăn, khó xác định được chính xác giá tính thuế nhập khẩu, từ đó sẽ xác định sai
mức thuế mà doanh nghiệp phải nộp. Điều này đã khiến công tác thực thi pháp luật
thuế nhập khẩu gặp nhiều khó khăn, không đạt được hiệu quả như mong muốn.
• Thuế suất thuế nhập khẩu.
Các nhà nhập khẩu có vô vàn cách biến hóa nhằm trốn thuế hoặc hưởng thuế suất
thấp hơn để thoát khỏi hoặc giảm bớt một phần nghĩa vụ thuế đối với nhà nước như:
Thứ nhất, thủ đoạn gian lận giấy chứng nhận xuất xứ hàng hóa (C/O) để

hưởng thuế suất ưu đãi. Ví dụ : 15 doanh nghiệp nhập khẩu tổng cộng gần 42.000
tấn thép tấm lá cán nguội (CRC) từ Phillipine vào Việt Nam với mức giá thấp hơn cả
mức giá nội địa của sản phẩm tại Phillipine nhằm trốn thuế thông qua việc sử dụng
C/O có lai lịch bất minh: Nội dung C/O From D có thay đổi (dao động từ 400 – 600
USD/tấn) nhưng hàm lượng ASEAN không thay đổi (cùng là 40%); hình thức của
C/O From D có một số điểm không phù hợp với quy định như: lẽ ra số tham chiếu
trên C/O phải có số thứ tự để thể hiện nguồn gốc chính xác của văn bản nhưng hầu
10


Bài tập nhóm tháng 2 Môn Luật Tài chính
Nhóm 2 Lớp N08 – TL2
hết các số tham chiếu trên C/O lại trùng nhau (nội dung khác nhau nhưng lại có cùng
một số tham chiếu); con dấu cách sao theo quy định của ASEAN chỉ được đóng lên
C/O trong trường hợp hải quan cấp C/O không trùng với ngày xếp hàng lên tàu. Với
những nghi vấn trên, Cục hải quan thành phố Hồ Chí Minh đã dừng ngay việc áp
dụng thuế suất ưu đãi 0% (theo quy chế dùng cho hiệp định CEFI) đối với các lô
hàng là theo CRC. Theo cam kết, mức thuế MFN dành cho mặt hàng này là 7%.
Trong năm 2006, 15 doanh nghiệp đã lập về Việt Nam tổng cộng 42.000 tấn thép
CRC, tính ra số tiền nhà nước bị thất thu thuế lên đến khoảng 28,5 tỷ đồng.
Thứ hai, thủ đoạn khai sai nguồn gốc xuất xứ hàng hóa nhằm hưởng lợi từ việc
ưu đãi về thuế đối với các nước mà Việt Nam có cam kết giảm thuế. Điển hình là
trường hợp Vũng Tàu Sinhanco khai sai xuất xứ hàng hóa bột ngọt để trốn
thuế nhập khẩu.
Ngoài ra còn có một số thủ đoạn gian lận khác mà nhà nhập khẩu có thể sử dụng,
ví dụ như khai báo gian dối về tên hàng hóa nhập khẩu để được áp mã và hưởng thuế
suất thấp hơn. Minh chứng cho việc gian lận thuế suất này có thể lấy công ty cổ phần
xuất nhập khẩu Y tế TP.HCM (Yteco) là ví dụ. Khi Yteco nhập khẩu các
loại thuốc như Nimfast, Rofegessic, Ikomin,… là các loại thuốc giảm đau có
thuế suất 10% (mã 3004959), Yteco đã tự sửa toa thuốc, bỏ cụm từ “giảm đau” để

áp mã số thuế 30049099 có thuế suất bằng 0%. Bằng cách này, công ty đã liên tục
nhập khẩu thuốc về Việt Nam mà không tốn một xu tiền thuế nào.
• Không kê khai trung thực thuế nhập khẩu.
Theo quy định hiện hành của pháp luật thuế nhập khẩu, việc kê khai thuế nhập
khẩu là do chủ thể tiến hành hoạt động nhập khẩu tự thực hiện, điều này đòi hỏi nhà
nhập khẩu phải thực hiện tự giác, trung thực, nghiêm chỉnh.
Nội dung kê khai trong các tờ khai hải quan bao gồm kê khai về mặt hàng nhập
khẩu, số lượng hàng nhập khẩu và trị giá hải quan. Cả ba nội dung này trên thực tế
đều không được kê khai một cách trung thực và khó có thể dựa vào ý thức “tự giác”
của nhà nhập khẩu. Về vấn đề hàng hóa, rất khó có thể phân biệt và mã hóa loại hàng
hóa nhập khẩu một cách chính xác, bởi lẽ hàng hóa nhập khẩu là vô cùng đa dạng về
chủng loại. Về số lượng, nếu cán bộ hải quan không ra tận bãi kiểm tra một cách trực
tiếp thì không thể hoàn toàn tin tưởng vào số lượng mà nhà nhập khẩu khai báo.
Phần lớn các lô hàng nhập khẩu đều có số lượng thừa rất nhiều so với số lượng khai
báo, đặc biệt là đối với nguyên liệu dệt may, rất khó có thể kiểm tra được chính xác
số lượng mà doanh nghiệp khai báo và kèm theo trong lô hàng đó có hàng lậu hay
không. Về trị giá hải quan, như đã phân tích ở trên, nhà nhập khẩu có vô vàn màn ảo
11


Bài tập nhóm tháng 2 Môn Luật Tài chính
Nhóm 2 Lớp N08 – TL2
thuật về giá và giá mà nhà nhập khẩu đưa ra bao giờ cũng là giá thấp nhất so với
thực tế. Công tác xác định trị giá hải quan hàng nhập khẩu hiện nay vẫn còn rất
nhiều khó khăn và chưa thể giải quyết dứt điểm tình trạng này.
2.4. Yếu tố nước ngoài
2.4.1. Xu hướng hội nhập và chính sách thương mại quốc gia
Chính sách thương mại là một hệ thống các quan điểm, giải pháp liên quan
đến thuế quan, bảo hộ, các quy chế thương mại, thông qua đó Chính phủ có thể thực
hiện sự phân bổ nguồn lực theo những định hướng nhất định. Chính sách thương mại

liên quan chặt chẽ đến chính sách đầu tư, chính sách tài chính tiền tệ, và nói chung
được quy định bởi đường lối phát triển của quốc gia.
Pháp luật thuế nhập khẩu thể hiện chính sách thương mại quốc tế của quốc
gia. Chính sách thương mại gồm hai dạng điển hình là chính sách tự do hóa thương
mại và chính sách bảo hộ mậu dịch. Hai xu hướng này tuy về mặt lý thuyết chúng
trái ngược nhau nhưng trên thực tế chúng lại tồn tại song song với nhau:
Chính sách tự do hóa thương mại nhằm thúc đẩy khả năng cạnh tranh bình đẳng
giữa hàng hóa trong nước và hàng hóa ngoại nhập thông qua việc cắt giảm thuế xuất
khẩu hoặc các biện pháp khuyến khích khác để thúc đẩy xuất khẩu, xóa bỏ hoặc cắt
giảm thuế nhập khẩu để hàng hóa nước ngoài tràn vào nhằm mở rộng thị trường nội
địa, đặc biệt là hàng hóa nước mình sẩn xuất với chi phí cao. Đây là quá trình giảm
bớt sự can thiệp tình chất bảo hộ của nhà nước vào hoạt động thương mại, theo đó
vai trò của nhà nước chỉ nên giớ hạn ở việc tạo ra môi trường phù hợp cho các quan
hệ thương mại.
Chính sách bảo hộ mậu dịch lại bảo hộ nền sản xuất trước sự cạnh tranh của hàng
hóa nước ngoài bằng cách áp dụng thuế nhập khẩu cao đối với mặt hàng nhập khẩu.
Pháp luật thuế nhập khẩu có chức năng đặc thù là bảo hộ nền sản xuất trong nước
chống lại xu hướng cạnh tranh không cân sức giữa hàng hóa trong nước và hàng hóa
nước ngoài. Nhưng trong điều kiện hội nhập quốc tế, xu hướng tự do thương mại
ngày càng trở thành xu hướng tất yếu trên thế giới thì pháp luật thuế nhập khẩu cũng
phải theo xu hướng giảm dần mức thuế suất.
Như vậy, pháp luật thuế nhập khẩu luôn luôn bị ảnh hưởng của chính sách thương
mại quốc tế trong quá trình hội nhập.
Ví dụ: Trong tình hình trong nước và quốc tế có nhiều biến động, tiềm ẩn nhiều
cơ hội và thách thức đan xen nhau, Báo cáo chính trị Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ IX của Đảng đã nêu rõ chủ trương và phương châm cuả ta là: “chủ động hội
nhập kinh tế quốc tế, bảo đảm độc lập và định hướng xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi
12



Bài tập nhóm tháng 2 Môn Luật Tài chính
Nhóm 2 Lớp N08 – TL2
ích dân tộc, giữ vững an ninh quốc gia, giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc, bảo vệ môi
trường”. Theo đó, thực hiện chủ trương hội nhập kinh tế quốc tế, Việt Nam gia nhập
nhiều tổ chức Quốc tế, tiến hành mở cửa nền kinh tế. Do đó, pháp luật về thuế nhập
khẩu cũng có sự thay đổi. Theo đó, đối với mặt hàng ô tô nhập khẩu từ ASEAN đến
năm 2015 sẽ giảm xuống còn 0-5%.
2.4.2. Các cam kết quốc tế liên quan đến thuế nhập khẩu (AFTA, APEC, WTO)
• Trong khuôn khổ AFTA:
Khu vực Mậu dịch Tự do ASEAN (viết tắt là AFTA từ các chữ cái đầu
của ASEAN Free Trade Area) là một hiệp định thương mại tự do (FTA) đa phương
giữa các nước trong khối ASEAN. Theo đó, sẽ thực hiện tiến trình giảm dần thuế
quan xuống 0-5%, loại bỏ dần các hàng rào phi thuế quan đối với đa phần các nhóm
hàng và hài hòa hóa thủ tục hải quan giữa các nước.
Điểm mấu chốt của AFTA là các nước ASEAN cam kết giảm thuế quan cho
hàng nhập khẩu của các nước thành viên theo biểu thuế quan ưu đãi có hiệu lực
chung (CEPT). Theo CEPT, một kế hoạch giảm thuế cho hàng nhập khẩu trong
phạm vi các nước ASEAN như sau: a) Chương trình giảm thuế ngay ; b) Chương
trình giảm thuế thông thường ; c) Những sản phẩm tạm thời không nằm trong
chương trình giảm thuế; d) Những sản phẩm nằm trong danh mục hàng nhạy cảm ;
e) Những sản phẩm hoàn toàn không bao giờ giảm thuế.
Việt Nam đã là một thành viên của AFTA kể từ khi chúng ta gia nhập ASEAN
vào tháng 7 năm 1995. Điều này nghĩa là, Việt Nam chịu sự ảnh hưởng, ràng buộc
bởi các mục tiêu, kế hoạch của AFTA về việc cắt giảm thuế quan cho hàng nhập
khẩu trong phạm vi các nước ASEAN. Bắt đầu từ năm 1996, Việt Nam đã công bố
danh sách một số lượng lớn các loại hàng hoá của ta nằm trong chương trình giảm
thuế ngay. Đồng thời, chúng ta đã bắt đầu cắt giảm thuế cho 875 mặt hàng, trong đó
57% lượng mặt hàng trên đã có mức thuế từ 0-5% rồi, số mặt hàng đang có mức thuế
20% chỉ chiếm một tỷ trọng nhỏ khoảng từ 17 - 21%.
• Trong khuôn khổ WTO:

Tổ chức Thương mại Thế giới (tiếng Anh: World Trade Organization - WTO)
là tổ chức quốc tế có trụ sở ở Genève, Thụy Sĩ, có chức năng giám sát các hiệp định
thương mại giữa các nước thành viên với nhau theo các quy tắc thương mại. Hoạt
động của WTO nhằm mục đích loại bỏ hay giảm thiểu các rào cản thương mại để
tiến tới tự do thương mại.
Việt Nam đã chính thức trở thành viên của tổ chức kinh tế này từ năm 2007,
do vậy, Việt Nam cần phải có sự điều chỉnh mức thuế quan cho phù hợp với mục
13


Bài tập nhóm tháng 2 Môn Luật Tài chính
Nhóm 2 Lớp N08 – TL2
đích chung của tổ chức.Theo đó, trong khuôn khổ WTO Việt Nam đã cam kết thực
hiện điều chỉnh thuế quan của Việt Nam trong WTO thông qua Biểu cam kết về
Hàng hoá của Việt nam:
+ Việt Nam cam kết ràng buộc với toàn bộ Biểu thuế nhập khẩu hiện hành
gồm 10.600 dòng thuế.
+ Thuế suất cam kết cuối cùng có mức bình quân giảm đi 23% so với mức
thuế bình quân hiện hành (thuế suất MFN) của Biểu thuế (từ 17,4% xuống
còn 13,4%). Thời gian thực hiện sau 5- 7 năm.
+ Trong toàn bộ Biểu cam kết, Việt Nam cắt giảm thuế với khoảng 3.800
dòng thuế (chiếm 35,5% số dòng của Biểu thuế);
• Trong khuôn khổ APEC:
APEC là diễn đàn hợp tác kinh tế Châu Á – Thái Bình Dương ra đời năm
1989, sự ra đời của APEC đã thúc đẩy quá trình hợp tác kinh tế CA-TBD lên một
bước mới. Nó ủng hộ hệ thống thương mại đa phương bằng cách khuyến khích tất cả
các nước thành viên của mình giảm hàng rào thuế quan đối với thương mại và đầu tư
không những cho các nước thành viên mà còn cho những nước ngoài APEC. Chính
phủ các nước này luôn luôn cố gắng tránh tất cả các thoả thuận mang tính phân biệt
dối xử với các nước không phải thành viên của APEC. Phần lớn các nước thành viên

Châu Á của APEC đều nhấn mạnh đến tính chất tư vấn của nhóm với nghĩa là Hiệp
hội kinh tế mở hay chủ nghĩa khu vực mở.
Là một thành viên của APEC, Việt Nam có nghĩa vụ phải điều chỉnh, cắt giảm
dần mức thuế quan đối với thương mại và đầu tư sao cho phù hợp với mục tiêu phát
triển của diễn đàn. Kể từ khi trở thành thành viên chính thức của Diễn đàn APEC
năm 1998, Việt Nam đã thực hiện nghiêm túc các cam kết hợp tác của APEC như
Báo cáo về Chương trình Hành động Quốc gia hàng năm, thực hiện Chương trình
Hành động tập thể, các kế hoạch hợp tác về thuận lợi hoá thương mại, đầu tư...
Nhanh chóng hội nhập vào các tổ chức kinh tế: WTO, APEC, AFTA là yêu cầu
cấp thiết của nước ta, và là một trong những yếu tố quan trọng để thúc đẩy công
nghiệp hoá đất nước ta một cách nhanh chóng, tránh được nguy cơ tụt hậu theo như
Nghị quyết của Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII đã vạch ra. Bởi vậy, xu thế tự
do hoá mậu dịch theo yêu cầu của AFTA, APEC, WTO là cần thiết, muốn thực hiện
được,ta buộc phải thiết lập một biểu thuế nhập khẩu hợp lý, do đó, sẽ khuyến khích
các doanh nghiệp tiến hành các hoạt động nhập khẩu theo đúng luật pháp quy định
mà vẫn có lãi còn hơn là buộc phải chấp nhận rủi ro buôn lậu hoặc thực hiện các biện
pháp gian dối khác mà theo đó phải kéo theo các chi phí phụ để giảm thuế hoặc trốn
14


Bài tập nhóm tháng 2 Môn Luật Tài chính
Nhóm 2 Lớp N08 – TL2
thuế.
3. Ý kiến pháp lí của nhóm nhằm phát huy hiệu quả của các yếu tố chi
phối luật thuế nhập khẩu
Thông qua việc tìm hiểu những yếu tố chi phối pháp luật thuế nhập khẩu,
đồng thời trước thực tế thực hiện pháp luật thuế nhập khẩu ở nước ta hiện nay, nhóm
nhận thấy những mặt hạn chế của các yếu tố chi phối pháp luật thuế nhập khẩu. Do
vậy, việc hoàn thiện pháp luật thuế nhập khẩu là một yêu cầu cấp thiết. Vì vậy, nhóm
xin đưa ra một số giải pháp nhằm phát huy hiệu quả của các yếu tố chi phối luật thuế

nhập khẩu.
3.1. Giải pháp hoàn thiện pháp luật phù hợp thực tế
Cần ban hành, sửa đổi, bổ sung các quy định của pháp luật cho phù hợp với
cam kết quốc tế của Việt Nam trong tiến trình hội nhập quốc tế. Việc hoàn thiện hệ
thống pháp luật sẽ tạo ra hành lang pháp lí đầy đủ và thống nhất cho hoạt động nhập
khẩu. Hoàn thiện các quy định về thuế nhập khẩu, thuế chống bán phá giá, thuế
chống trợ cấp, thuế chống phân biệt đối xử để đảm bảo lợi ích của Việt Nam khi hội
nhập kinh tế quốc tế.
• Về thuế suất: Hiện nay thuế suất của nước ta còn nhiều khung so với các mức thuế
suất khác nhau. Do đó, kiến nghị nên có những quy định giảm bớt sự chênh lệch
giữa các mức thuế suất, xây dựng lộ trình giảm thuế nhập khẩu hợp lí. Đặc biệt, cần
sửa đổi các quy định về tỷ lệ thuế suất thông thường so với thuế suất ưu đãi để tránh
hiểu lầm trong quá trình thực hiện thu và nộp thuế nhập khẩu.
• Về thuế suất tuyệt đối : Trong nhập khẩu hàng hóa nên hạn chế áp dụng và cần quy
định rõ trong luật thuế nhập khẩu danh mục những mặt hàng có thể đưa vào áp dụng
loại thuế suất này.
• Về miễn giảm thuế nhập khẩu: Cần rà soát lại toàn bộ các trường hợp miễn giảm
thuế nhập khẩu trong luật thuế nhập khẩu và các văn bản hướng dẫn. Đối với các loại
phí và lệ phí liên quan đến nhập khẩu cũng cần được rà soát, điều chỉnh lại cho phù
hợp với các cam kết số phí, lệ phí thực thu không vượt quá chi phí của dịch vụ cung
ứng, không nhằm mục đích thu ngân sách, không có phân biệt đối với hàng nhập
khẩu hay hàng xuất khẩu, không có ngoại lệ dựa trên xuất xử của nước xuất hàng
hoặc đích đến …
• Về việc truy thu thuế: Cũng có những quy định của luật tạo ra nhiều kẽ hở để chủ thể
nộp thuế trốn tránh hoặc gian lận thuế. Pháp luật cần có quy định để tạo ra cơ chế
giám sát phù hợp quá trình chuyển nhượng tài sản của đối tượng bị truy thu thuế
nhưng đã thực hiện việc chuyển nhượng cho các đối tượng thuộc diện miễn thuế, xét
giảm thuế …
15



Bài tập nhóm tháng 2 Môn Luật Tài chính
Nhóm 2 Lớp N08 – TL2
3.2. Giải pháp cải cách thủ tục hải quan theo hướng đơn giản, hợp lí
Về vấn đề đơn giản hóa thủ tục hải quan, tổng cục hải quan phải kết hợp với
Bộ tài chính cải cách và phổ biến cách thức quản lí mới. Cần đơn giản hóa bộ hồ sơ
hải quan, cụ thể nên bỏ bớt một số giấy tờ như giấy giói thiệu, tờ khai trị giá, bộ hồ
sơ coppy, hợp đồng thương mại. Đặc biệt với nhóm hành gia công yêu cầu nộp bảng
khai nguyên vật liệu do doanh nghiệp tự cung ứng trong nước là không thực tế.
Đồng thời, cần cải cách khung pháp lí về quản lí hàng nhập khẩu theo hướng
đơn giản, công khai, minh bạch đồng thời tăng cường hiện đại hóa ngành hải quan
thông qua việc áp dụng công nghệ thông tin vào thực hiện thủ tục hải quan.
3.3. Giải pháp nâng cao trình độ hiểu biết pháp luật và ý thức chấp hành
của chủ thể nộp thuế
Cần tăng cường công tác tuyên truyền, hướng dẫn và chỉ đạo chính sách thuế
nhập khẩu cho các doanh nghiệp trong và ngoài nước có tham gia vào quan hệ thuế
nhập khẩu để nâng cao trình độ hiểu biết và ý thức chấp hành pháp luật thuế nhập
khẩu của các doanh nghiệp. Từ đó sẽ đảm bảo cho hoạt động thu, nộp thuế nhập
khẩu được tiến hành dễ dàng và hiệu quả.
Bên cạnh đó, cần cải thiện chế tài xử phạt vi phạm với các hành vi trốn thuế
và hành vi chiếm đoạt tài sản của Nhà nước. Cần thiết phải xử phạt nặng những cá
nhân trốn thuế để răn đe các chủ thể khác, nâng cao ý thức chấp hành pháp luật.

C. KẾT LUẬN
Pháp luật thuế Việt Nam nói chung và pháp luật thuế nói riêng được ban hành
trên cơ sở yêu cầu thực tiễn đòi hỏi, tiếp thu tinh hoa hệ thống pháp luật đã và đang
áp dụng ở các quốc gia điển hình. Các yếu tố chi phối đã phân tích ở trên, nếu Nhà
nước biết phát huy một cách hiệu quả sẽ góp phần hoàn thiện hệ thống pháp luật
nước ta trong bối cảnh hiện nay.


16


Bài tập nhóm tháng 2 Môn Luật Tài chính
Nhóm 2 Lớp N08 – TL2

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình luật ngân sách nhà nước, Nxb.

CAND, Hà Nội, 2009.
2. Hiến pháp nước CHXHCN Việt Nam năm 1992
3. Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu 2005
4. Pháp luật thuế nhập khẩu ở Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế:
Khóa luận tốt nghiệp, La Thị Tuyết Anh, Người hướng dẫn: Th.S Vũ Văn Cương,
năm 2007.
5. Các website:
• />am/ChiTietVeToChucQuocTe?diplomacyOrgId=61
• />%E1%BB%8Bch_T%E1%BB%B1_do_ASEAN
• />ItemID=371
• />option=com_content&view=article&id=140:thuong-mai-quocte&catid=86:khung-phap-ly&Itemid=473&lang=vi
• />
17



×