Tải bản đầy đủ (.doc) (16 trang)

Pháp luật về kiểm soát thỏa thuận hạn chế cạnh tranh môn luật cạnh tranh và bảo vệ người tiêu dùng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (154.27 KB, 16 trang )

Bài Tập Lớn học kỳ

Môn: Luật Cạnh tranh và bảo vệ người tiêu dùng.

~MỤC LỤC~
---o0o---

~MỤC LỤC~......................................................................................1
II.GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ........................................................................2
1.Lý luận cơ bản về thỏa thuận hạn chế cạnh tranh.........................2
1.1. Khái niệm thỏa thuận hạn chế cạnh tranh.................................2
1.2. Đặc điểm của thỏa thuận hạn chế cạnh tranh...........................2
1.3. Các hình thức thỏa thuận hạn chế cạnh tranh...........................2
2. Các trường hợp miễn trừ đối với thỏa thuận hạn chế cạnh tranh
bị cấm theo Luật cạnh tranh 2004....................................................3
2.2.Những trường hợp miễn trừ đối với thỏa thuận hạn chế cạnh
tranh bị cấm......................................................................................5
2.2.1.Chiến lược liên doanh và hợp tác phát triển............................7
2.2.2.Chiến lược xây dựng các tiêu chuẩn chung về sản phẩm và
các điều kiện kinh doanh..................................................................7
2.3. Thủ tục xin được hưởng miễn trừ.............................................11
3.Thực tế áp dụng pháp luật và kiến nghị về Các trường hợp miễn
trừ đối với thỏa thuận hạn chế cạnh tranh bị cấm theo Luật cạnh
tranh 2004......................................................................................12
3.1. Thực tế áp dụng pháp luật về Các trường hợp miễn trừ đối với
thỏa thuận hạn chế cạnh tranh bị cấm theo Luật cạnh tranh 2004.
........................................................................................................12
3.2. Kiến nghị về Các trường hợp miễn trừ đối với thỏa thuận hạn
chế cạnh tranh bị cấm theo Luật cạnh tranh 2004.........................13
III.KẾT LUẬN.....................................................................................15
~DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO~...............................................15



BÀI LÀM
I.ĐẶT VẤN ĐỀ
Pháp luật về kiểm soát thỏa thuận hạn chế cạnh tranh (TTHCCT) thực sự rất cần
thiết cho nền kinh tế nhằm mục đích để cho cuộc cạnh tranh được diễn ra một cách
đúng đắn. Để đảm bảo cho cạnh tranh là động lực phát triển của nền kinh tế thì nhà
nước phải dùng các công cụ để giám sát, ngăn ngừa và vô hiệu hóa các hành vi cản trở
hoặc tiêu hủy cạnh tranh trên thị trường của các Doanh nghiệp.

1


Bài Tập Lớn học kỳ

Môn: Luật Cạnh tranh và bảo vệ người tiêu dùng.

Tuy nhiên, nhìn từ góc độ hiều quả kinh tế theo một hướng tích cực thì TTHCCT
trong một số trường hợp có tác dụng tiết kiệm chi phí và nguồn lực của xã hội thông
qua việc hình thành các điều kiện kinh doanh chung, khắc phục khủng hoảng, chuyên
môn hóa các quy trình công nghệ cao,… Do đó pháp luật về chống hạn chế cạnh tranh
trên thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng đều đặt ra những ngoại lệ đối với một số
TTHCCT nhất định trên cơ sở chính sách cạnh tranh của từng nước, song việc công
nhận và áp dụng ngoại lệ đều phải tuân thủ chặt chẽ và nghiêm ngặt.
II.GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
1.Lý luận cơ bản về thỏa thuận hạn chế cạnh tranh
1.1. Khái niệm thỏa thuận hạn chế cạnh tranh
Dưới góc độ nghiên cứu trong khoa học pháp lý có thể hiểu: “thỏa thuận hạn chế cạnh
tranh là sự thống nhất ý chí của từ 2 chủ thể kinh doanh trở lên được thể hiện dưới bất
kỳ hình thức nào, có hậu quả làm giảm, sai lệnh, cản trở cnahjt ranh trên thị trường.”
1.2. Đặc điểm của thỏa thuận hạn chế cạnh tranh

Thứ nhất, chủ thể tham gia thỏa thuận hạn chế cạnh tranh là các doanh nghiệp hoạt động
độc lập.
Thứ hai, một TTHCCT chỉ được hình thành khi có sự thống nhất về ý chí của các bên
tham gia thỏa thuận. Sự thống nhất cùng hành động giữa các doanh nghiệp tham gia
thỏa thuận được thể hiện công khai hoặc không công khai.
Thứ ba, hậu quả của thỏa thuận hạn chế cạnh tranh là làm giảm sức ép cạnh tranh, làm
sai lệch hoặc cản trở cạnh tranh trên thị trường.
1.3. Các hình thức thỏa thuận hạn chế cạnh tranh.
Được quy định tại Điều 8 Luật Cạnh tranh và hướng dẫn chi tiết tại các điều từ Điều 14
đến Điều 21 Nghị định 116/2005/NĐ-CP ngày 15 tháng 9 năm 2005 quy định chi tiết thi
hành một số điều của Luật Cạnh tranh. Theo đó các hình thức của thỏa thuận hạn chế
cạnh tranh bao gồm:
+ Thỏa thuận ấn định giá hàng hóa, dịch vụ một cách trực tiếp hoặc gián tiếp.
+ Thỏa thuận phân chia thị trường tiêu thụ, nguồn cung cấp hàng hóa, cung ứng dịch vụ.

2


Bài Tập Lớn học kỳ

Môn: Luật Cạnh tranh và bảo vệ người tiêu dùng.

+ Thỏa thuận hạn chế hoặc kiểm soát số lượng, khối lượng sản xuất, mua, bán hàng
hóa, dịch vụ.
+ Thỏa thuận hạn chế phát triển kỹ thuật, công nghệ, hạn chế đầu tư.
+ Thỏa thuận áp đặt cho doanh nghiệp khác điều kiện ký kết hợp đồng mua, bán hàng
hóa, dịch vụ hoặc buộc doanh nghiệp khác chấp nhận các nghĩa vụ không liên quan trực
tiếp đến đối tượng của hợp đồng.
+ Thỏa thuậ ngăn cản, kìm hãm, không cho doanh nghiệp khác tham gia thị trường
hoặc phát triển kinh doanh.

+ Thỏa thuận loại khỏi thị trường những doanh nghiệp không phải là các bên của thỏa
thuận.
+ Thông đồng để một hoặc các bên của thỏa thuận thắng thầu trong việc cung cấp hàng
hóa, cung ứng dịch vụ.
2. Các trường hợp miễn trừ đối với thỏa thuận hạn chế cạnh tranh bị cấm theo
Luật cạnh tranh 2004.
2.1 Cơ sở cho việc miễn trừ trách nhiệm cho các thỏa thuận hạn chế cạnh tranh
Việc xử lý các thỏa thuận hạn chế cạnh tranh luôn đòi hỏi Nhà nước cần cẩn
trọng bởi thực tế và kinh nghiệm của các nước cho thấy không phải mọi thỏa thuận đều
gây hại cho thị trường. Theo đó, các quy định về việc miễn trừ đối với thỏa thuận hạn
chế cạnh tranh được xây dựng trên những cơ sở lý luận và thực tiễn sau:
+ Quyền tự do kinh doanh
Tự do kinh doanh luôn bao hàm trong nó quyền được khế ước và lập hội. Các
chủ thể tham gia thị trường hoàn toàn có quyền chủ động trong việc liên kết để thiết lập
và thực hiện các chiến lược kinh doanh của mình một cách hiệu quả. Công quyền và
pháp luật không những không được can thiệp mà còn phải xây dựng các cơ chế bảo hộ
cho những hoạt động nói trên.
Với tư cách là lực lượng bảo vệ công lý và lẽ phải, Nhà nước và pháp luật chỉ có
thể can thiệp vào sự tự do khi hành vi của một nhóm người là nguy cơ đe doạ sự tự do,
quyền và lợi ích chính đáng của người khác. Khi sự liên kết của các doanh nghiệp tạo ra
khả năng xâm hại lợi ích của doanh nghiệp khác, của người tiêu dùng và của thị trường,
pháp luật cần có các biện pháp để ngăn chặn và trừng phạt.
+ Sự cân xứng về các lợi ích mà pháp luật bảo vệ

3


Bài Tập Lớn học kỳ

Môn: Luật Cạnh tranh và bảo vệ người tiêu dùng.


Dưới góc độ tác động đối với cạnh tranh, các thỏa thuận luôn có tính hai mặt.
Theo đó, ngoài những khả năng gây hại cho cạnh tranh, nhiều thỏa thuận không có khả
năng gây hại, hoặc bên cạnh khả năng gây ra nhiều tác hại làm giảm cạnh tranh, nhiều
thoả thuận còn đem lại nhiều tác dụng tích cực cho sự phát triển của thị trường. Vì vậy,
pháp luật của các nước đều đòi hỏi người thực thi phải luôn cân nhắc và tính toán đến
mọi khả năng có thể xảy ra để có thái độ trừng phạt hay cho phép thực thi các thỏa
thuận trên thực tế. Có những trường hợp, cơ quan thực thi pháp luật cần xem xét sự cân
xứng giữa lợi ích mà thỏa thuận đem lại với thiệt hại có thể gây ra cho thị trường để đưa
ra quyết định cuối cùng về việc trừng phạt hay cho phép thỏa thuận.
Pháp luật của các nước sử dụng quy tắc hợp lý để đánh giá sơ bộ về tác động của
thỏa thuận hạn chế cạnh tranh nhằm giới hạn phạm vi áp dụng của các quy định cấm.
Quy tắc hợp lý cho phép loại bỏ việc áp dụng các quy định cấm đối với những thõa
thuận vừa có hệ quả tích cực đối với cạnh tranh, vừa có hậu quả phản cạnh tranh nếu
như hệ quả tích cực nhiều hơn hệ quả phản cạnh tranh. Do đó mục II chương III của
Luật mẫu về cạnh tranh của Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế, hoặc trong điều 81
Hiệp ước Rome của Cộng đồng châu Âu quy định “những thỏa thuận bị cấm tại khoản 1
có thể được tuyên bố miễn áp dụng nếu thỏa thuận đó góp phần cải thiện sản xuất hay
phân phối hàng hóa, hay khuyến khích ứng dụng tiến bộ kinh tế, kỹ thuật, trong khi cho
phép người tiêu dùng hưởng lợi một cách tương ứng”. Luật cạnh tranh của nhiều nước
như Đức, Nhật, Tây Ban Nha, Thụy Điển, Liên bang Nga… đều cho phép trong những
trường hợp cụ thể và trong một thời hạn nhất định như trong điều kiện suy thoái của nền
kinh tế, nhu cầu hợp lý hoá sản xuất… các cartel có thể được pháp luật thừa nhận mà
các lợi ích mà nó có khả năng đem lại là cơ sở kinh tế quan trọng để pháp luật và cơ chế
thực thi xem xét công nhận hay loại trừ các thỏa thuận hạn chế cạnh tranh. Dưới góc độ
của lý thuyết cạnh tranh, khả năng gây hại và tác dụng của thỏa thuận giữa các doanh
nghiệp phản ánh mức độ hạn chế cạnh tranh của hành vi. Pháp luật và công quyền sẽ
chỉ có thể lên án thỏa thuận nếu như có đủ cơ sở kinh tế để kết luận về khả năng gây hại
đến lợi ích mà họ bảo vệ.
Tóm lại, là một sự liên kết trong kinh doanh giữa các doanh nghiệp, các thỏa

thuận hạn chế cạnh tranh có thể đươc phân tích, xem xét dưới nhiều góc độ khác nhau,
từ đó pháp luật và công quyền có thái độ thích hợp. Bên cạnh những quy định cấm đoán
và trừng phạt đối với các thỏa thuận có khả năng gây hại cho thị trường, pháp luật cạnh
4


Bài Tập Lớn học kỳ

Môn: Luật Cạnh tranh và bảo vệ người tiêu dùng.

tranh của hầu hết các quốc gia trên thế giới đều ghi nhận những trường hợp thỏa thuận
hạn chế cạnh tranh có tác dụng tích cực đối với thị trường, đều được coi là hợp pháp.
Tùy theo chính sách cạnh tranh của từng nước mà mức độ cấm đoán hoặc thừa nhận
tính hợp pháp của các thỏa thuận trong pháp luật cạnh tranh sẽ khác nhau.
2.2.Những trường hợp miễn trừ đối với thỏa thuận hạn chế cạnh tranh bị cấm
Theo quy định của Luật Cạnh tranh Việt Nam 2004 thì những TTHCCT quy
định tại các Khoản 1,2,3,4 và 5 của Điều 8 sẽ được miễn trừ khi các bên tham gia thỏa
thuận có thị phần kết hợp trên thị trường liên quan từ 30% trở lên, cụ thể thì những thỏa
thuận sau đây được xếp vào đối tượng có thể được hưởng miễn trừ:
- Thỏa thuận ấn định giá hàng hoá, dịch vụ một cách trực tiếp hoặc gián tiếp;
- Thỏa thuận phân chia thị trường tiêu thụ, nguồn cung cấp hàng hoá, cung ứng dịch vụ;
- Thỏa thuận hạn chế hoặc kiểm soát số lượng, khối lượng sản xuất, mua bán hàng hoá,
dịch vụ;
- Thỏa thuận hạn chế phát triển kỹ thuật, công nghệ, hạn chế đầu tư;
- Thỏa thuận áp đặt cho doanh nghiệp khác điều kiện ký kết hợp đồng mua, bán hàng
hoá, dịch vụ hoặc buộc doanh nghiệp khác chấp nhận các nghĩa vụ không liên quan trực
tiếp đến đối tượng của hợp đồng.
Tuy nhiên, sự miễn trừ được quy định có thời hạn và phải đáp ứng điều kiện nhất
định. Những trường hợp miễn trừ chủ yếu dựa trên mục đích của TTHCCT mà các bên
đưa ra và việc cân nhắc lợi ích của quốc gia sự phát triển kinh tế của đất nước với hậu

quả của các TTHCCT trong một số trường hợp nhất định.
Theo quy định của Điều 9 và Khoản 1 Điều 10 Luật Cạnh tranh 2004 thì các thỏa thuận
quy định tại các Khoản 6,7, và 8 của Điều 8 Luật Cạnh tranh bị cấm tuyệt đối. Lý do để
áp dụng quy định cấm triệt để đối với 3 loại thỏa thuận này là các thỏa thuận này luôn
có bản chất hạn chế cạnh tranh và không có cơ sở nào để biện hộ cho các thỏa thuận đó.
Cũng cần lưu ý rằng quy định này có hơi khác so với thông lệ quốc tế. Pháp luật các
nước như Châu Âu, Hoa Kỳ, Singapore… thường cấm triệt để theo nguyên tắc vi phạm
mặc nhiên đối với 4 loại thỏa thuận: thỏa thuận ấn định giá, thỏa thuận phân chia thị
trường, thỏa thuận hạn chế sản lượng và thông đồng trong đấu thầu. Các loại thỏa thuận
này luôn bị coi là có tác động hạn chế cạnh tranh đáng kể và vi pahmj luật cạnh tranh
mà không cần điều tra tác hại cụ thể mà chúng gây ra hay lý do thực hiện thỏa thuận.

5


Bài Tập Lớn học kỳ

Môn: Luật Cạnh tranh và bảo vệ người tiêu dùng.

Các thỏa thuận còn lại có thể được miễn trừ khi đáp ứng điều kiện do luật định. Đối với
các quy định tại mục a, b, c, d của khoản 1 Điều 10 Luật Cạnh tranh Việt Nam cũng
tương tự như quy định về điều kiện miễn trừ trong luật của nhiều quốc gia trên thế giới.
Còn đối với quy định tại mục đ, e thì được coi là điều kiện khá đặc trưng của Luật Cạnh
tranh Việt Nam, xuất phát từ đặc thù nền kinh tế chủ yếu bao gồm các DN vừa và nhỏ,
do đó mà sự tăng cường sức cạnh tranh của các DN này hết sức cần thiết trong quá trình
phát triển nền kinh tế. Hơn nữa, với chủ trương của Đảng và nahf nước là chủ động hội
nhập vào nền kinh tế khu vực và thế giới thì việc tăng cường sức cạnh tranh, đẩy mainhj
xuất khẩu của các DN Việt Nam trên trường quốc tế là mục tiêu hết sức quan trọng. Do
đó, những thỏa thuận mang tính chất cạnh trnah không lành mạnh, HCCT trong nước ở
một chừng mực nhất định có thể chấp nhận và được phép miễn trừ.

Các TTHCCT quy định tại Khoản 1, 2, 3, 4, và 5 Điều 8 sẽ được hưởng miễn trừ
nếu như chúng được thực hiện nhằm hạ giá thành và đem lại lợi ích cho người tiêu dùng
bằng các chiến lược sau đây(Khoản 1 Điều 10 Luật Cạnh tranh):
“A) Hợp lý hoá cơ cấu tổ chức, mô hình kinh doanh, nâng cao hiệu quả kinh
doanh;
B) Thúc đẩy tiến bộ kỹ thuật, công nghệ, nâng cao chất lượng hàng hoá, dịch vụ;
C) Thúc đẩy việc áp dụng thống nhất các tiêu chuẩn chất lượng, định mức kỹ thuật
của chủng loại sản phẩm;
D) Thống nhất các điều kiện kinh doanh, giao hàng, thanh toán nhưng không liên
quan đến giá và các yếu tố của giá;
Đ) Tăng cường sức cạnh tranh của doanh nghiệp nhỏ và vừa;
E) Tăng cường sức cạnh tranh của doanh nghiệp Việt Nam trên thị trường quốc
tế.”
Các trường hợp miễn trừ được quy định nhìn chung là phù hợp với nguyên tắc lập
luận hợp lý (là cân nhắc giữa tác động hạn chế cạnh tranh và những lợi ích có được từ
thỏa thuận hạn chế cạnh tranh đối với nền kinh tế và người tiêu dùng) theo thông lệ
6


Bài Tập Lớn học kỳ

Môn: Luật Cạnh tranh và bảo vệ người tiêu dùng.

quốc tế nhằm mục tiêu bảo vệ lợi ích quốc gia và nâng cao hiệu quả kinh tế. Một thỏa
thuận hạn chế cạnh tranh vẫn có thể được cho phép thực hiện khi xét thấy lợi ích đối với
nền kinh tế và người tiêu dùng vẫn lớn hơn tác động hạn chế cạnh tranh, nói cách khác
là tác động tích cực nhiều hơn tiêu cực đối với người tiêu dùng (pháp luật nhiều nước
thường không cấm các –ten xuất khẩu, các –ten hình thành trong thời kỳ khủng hoảng
kinh tế, các –ten giữa các doanh nghiệp vừa và nhỏ, các –ten nhằm phát triển khoa học
công nghệ hay nâng cao mức độ tiêu chuẩn hóa…)

2.2.1.Chiến lược liên doanh và hợp tác phát triển.
Thực tế đã cho chúng ta thấy, là đối thủ cạnh tranh của nhau, các doanh nghiệp
đôi khi còn liên kết lại để có thể cạnh tranh tốt hơn trên thị trường bằng cách hợp tác, hỗ
trợ nhau để nâng cao khả năng kinh doanh trên thương trường. Sự bổ trợ để phát huy thế
mạnh và hạn chế những yếu điểm của từng thành viên tham gia thỏa thuận sẽ đem lại
hiệu quả cho sự phát triển của từng doanh nghiệp và cho cả thị trường liên quan. Điều
đó có thể thấy rõ thông qua chiến lược liên doanh và hợp tác của các doanh nghiệp.
Chiến lược liên doanh và hợp tác phát triển giữa các doanh nghiệp được thực
hiện để nhằm:
- Hợp lý hoá cơ cấu tổ chức, mô hình kinh doanh, nâng cao hiệu quả kinh doanh;
- Thúc đẩy tiến bộ kỹ thuật, công nghệ, nâng cao chất lượng hàng hoá, dịch vụ.
Có thể minh họa chiến lược này bằng các trường hợp sau: trường hợp 1, hai doanh
nghiệp cùng cạnh tranh trên thị trường, trong đó một doanh nghiệp có chất lượng sản
phẩm tốt nhưng mạng lưới phân phối kém có thể phối hợp với doanh nghiệp có sản
phẩm với chất lượng trung bình nhưng lại có mạng lưới phân phối hiệu quả. Sự liên kết
này giúp cho hiệu quả hoạt động của hai doanh nghiệp tốt hơn và đem lại hiệu quả cho
người tiêu dùng trong việc hưởng thụ sản phẩm với chất lượng đảm bảo yêu cầu.
Trường hợp 2, các doanh nghiệp có thể hợp tác phát triển và thực hiện các công trình
nghiên cứu, ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật có liên quan mà nếu như làm một mình
sẽ không đạt được kết quả mong muốn. Trường hợp này thường xảy ra với những ngành
kinh tế kỹ thuật đòi hỏi công nghệ có trình độ cao như chế tạo máy bay, khoa học viễn
thông….
2.2.2.Chiến lược xây dựng các tiêu chuẩn chung về sản phẩm và các điều kiện kinh
doanh.
Các thỏa thuận nằm trong chiến lược chuẩn hoá những yêu cầu về sản phẩm và
các điều kiện kinh doanh thường bao gồm hai nội dung là:

7



Bài Tập Lớn học kỳ

Môn: Luật Cạnh tranh và bảo vệ người tiêu dùng.

- Thỏa thuận giữa các doanh nghiệp nhằm thống nhất các tiêu chuẩn chất lượng, định
mức kỹ thuật của chủng loại sản phẩm;
- Thỏa thuận thống nhất các điều kiện kinh doanh, giao hàng, thanh toán nhưng không
liên quan đến giá và các yếu tố của giá.
Dưới góc độ kinh tế, các thỏa thuận về việc đặt ra các tiêu chuẩn nói trên nhìn
chung là có lợi cho người tiêu dùng và có thể làm cho thị trường hoạt động một cách có
hiệu quả hơn nếu như những tiêu chuẩn đó là tiến bộ và phản ánh sự đi lên trong công
nghệ, kỹ thuật, chất lượng và trình độ kinh doanh. Mặc dù lý thuyết về cạnh tranh đều
cho thấy rằng, các tiêu chuẩn về chất lượng, định mức kỹ thuật của chủng loại sản phẩm
hoặc các điều kiện kinh doanh có thể làm hạn chế cạnh tranh giữa những người tham
gia thỏa thuận, có thể làm cho các doanh nghiệp không đáp ứng đủ những tiêu chuẩn đó
phải rời khỏi thị trường, thậm chí còn có thể sinh ra những rào cản cho sự gia nhập đối
với những doanh nghiệp tiềm năng. Song các nhà hoạch định chính sách cạnh tranh của
Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế lại cho rằng, các thỏa thuận đặt ra tiêu chuẩn cho
sản phẩm và cho hoạt động kinh doanh đem lại lợi ích nhiều hơn so với thiệt hại mà
chúng gây ra vì làm giảm cạnh tranh. Điều đó được thể hiện ở hai góc độ: Đầu tiên là
việc đặt ra các tiêu chuẩn cho sản phẩm sẽ có lợi ích rất nhiều cho xã hội nếu các tiêu
chuẩn này là tích cực và tiến bộ. Bởi thị trường sẽ có được một mặt bằng về sản phẩm
đủ chất lượng, đáp ứng nhu cầu của người tiêu dùng và sẽ loại bỏ được những sản phẩm
kém chất lượng trên thị trường.
Mặt khác, nó còn giúp cho người tiêu dùng có thêm nhiều thông tin để đưa ra các
quyết định chính xác hơn về sản phẩm mà họ dự định mua. Đặc biệt, những thỏa thuận
về tiêu chuẩn liên quan đến sức khoẻ và an toàn sẽ bảo vệ người tiêu dùng trước các
toan tính gian dối về chất lượng sản phẩm của những nhà kinh doanh bất chính. Ngoài
ra, các tiêu chuẩn về sản phẩm còn có ý nghĩa là động lực thúc đẩy doanh nghiệp ứng
dụng hiệu quả tiến bộ kỹ thuật vào đời sống kinh doanh. Tiếp đó, việc thống nhất các

điều kiện kinh doanh, thanh toán giữa các doanh nghiệp trên cùng một thị trường có ý
nghĩa trong việc cải tiến trình độ quản lý kinh doanh của họ, đặc biệt với những lĩnh vực
hoặc ngành nghề đang trong giai đoạn hình thành và phát triển. Sự thống nhất các điều
kiện kinh doanh và thanh toán có thể tạo ra những chuẩn mực trong kinh doanh của
ngành nghề để từ đó hình thành nên các tập quán tốt đẹp cho hoạt động sản xuất, mua
bán trên thị trường đó, đem lại hiệu quả cho doanh nghiệp và cho khách hàng của họ.
8


Bài Tập Lớn học kỳ

Môn: Luật Cạnh tranh và bảo vệ người tiêu dùng.

Tuy nhiên, để những thỏa thuận thống nhất về điều kiện thương mại được pháp luật
cạnh tranh thừa nhận thì chúng không được hủy hoại cạnh tranh, đặc biệt là cạnh tranh
về giá và các yếu tố của giá. Điều đó có nghĩa là, các doanh nghiệp khi thiết lập và thực
hiện thỏa thuận vẫn còn là đối thủ cạnh tranh của nhau về giá, về các yếu tố của giá….
2.2.3.Chiến lược nâng cao năng lực cạnh tranh
Chiến lược nâng cao năng lực cạnh tranh được Luật Cạnh tranh dự liệu theo hai
tiêu chí:
+ Các thỏa thuận nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp nhỏ và vừa
Hiện nay ở nước ta, có hơn 90% trên tổng số doanh nghiệp đang họat động là
doanh nghiệp vừa và nhỏ, mức vốn đầu tư trung bình mặc dù có sự tăng lên theo từng
thời kỳ nhưng nhìn chung vẫn còn thấp. Với số vốn thấp thì khả năng tiếp cận thị trường
quốc tế và thậm chí cả thị trường trong nước gặp nhiều khó khăn do quy mô nhỏ, vốn
thấp, trình độ công nghệ lạc hậu, kỹ năng quản lý yếu, chủ yếu dựa vào kinh nghiệm
bản thân hoặc gia đình, thiếu thông tin thị trường.... Dẫn đến chất lượng sản phẩm
thường thấp hơn so với các hàng hoá nhập khẩu.
Với điều kiện nền kinh tế kém hiệu qủa và khả năng cạnh tranh thấp, nhiệm vụ
nâng cao năng lực kinh doanh của doanh nghiệp sẽ là chìa khóa cho việc củng cố và

phát triển năng lực cạnh tranh quốc gia. Trong các cuộc tranh luận nên hay không nên
bảo hộ các doanh nghiệp vừa và nhỏ, có những ý kiến cho rằng ích lợi mà người tiêu
dùng (đại diện cho thị trường) là chuẩn mực phán xét hiệu quả của Luật Cạnh tranh, nên
không cần phải trao cho đạo luật này nhiệm vụ bảo hộ các doanh nghiệp nói trên. Quan
điểm này còn dựa vào lập luận rằng, cạnh tranh tự nó đã có cơ chế thưởng phạt. Pháp
luật chỉ nên can thiệp khi nhà kinh doanh nào đó có ý định làm biến dạng cơ chế thưởng
phạt tự nhiên trong thị trường cạnh tranh mà thôi. Bình luận về quan điểm trên, chúng ta
nên xuất phát từ ý tưởng được đưa ra là pháp luật cạnh tranh và giới hạn của nó phụ
thuộc vào quan niệm về chính sách cạnh tranh của mỗi quốc gia mà chính sách cạnh
tranh lại là bộ phận không tách rời của chính sách phát triển kinh tế. Ở Việt Nam, với
quan điểm và nhu cầu xây dựng một nền kinh tế “phát triển nhanh, hiệu quả và bền
vừng, tăng trưởng kinh tế đi đôi với thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội và bảo vệ môi
trường. Phát huy mọi nguồn lực để phát triển nhanh và có hiệu quả những sản phẩm,
ngành, lĩnh vực mà nước ta có lợi thế, đáp ứng nhu cầu trong nước và đẩy mạnh xuất
khẩu, không ngừng nâng cao sức cạnh tranh trên thị trường trong nước và ngoài nước”,
9


Bài Tập Lớn học kỳ

Môn: Luật Cạnh tranh và bảo vệ người tiêu dùng.

thì việc nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp là cần thiết để tạo nên nội
lực cho sự phát triển chung của thị trường. Trong đó việc giành những quy chế hỗ trợ
phát triển cho doanh nghiệp vừa và nhỏ là cần thiết. Vì lẽ đó, với các thỏa thuận hướng
đến phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ luôn được Nhà nước quan tâm thừa nhận và tạo
điều kiện cho chúng thực hiện hiệu quả.
+ Các thỏa thuận nhằm tăng cường sức cạnh tranh của doanh nghiệp Việt Nam trên
thị trường quốc tế.
Theo cuốn Từ điển chính sách thương mại quốc tế, cartel công cộng là một loại

thỏa thuận trong đó Chính phủ tạo điều kiện cho việc thiết lập và điều tiết các quy tắc
thị trường vì các lý do chính sách rộng lớn hơn, bao gồm việc chấp nhận các cartel xuất
khẩu nhằm tăng cường sức cạnh tranh cho các hãng trong nước. Trong pháp luật của
nhiều nước, nhu cầu nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế nội địa trong bối
cảnh xây dựng và phát triển thị trường chung khu vực và quốc tế là cần thiết. Ngay ở
Hoa Kỳ, người ta có thể tìm thấy các quy định về cho phép thỏa thuận hạn chế cạnh
tranh được thực hiện nếu nó góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp
nội địa của họ ở nước ngoài trong đạo luật Webb - Pomerene. Có thể thấy rằng, việc
thừa nhận các thỏa thuận có mục đích nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp
nội địa trên thị trường quốc tế đã được chính sách thương mại quốc tế và kinh nghiệm
pháp lý của nhiều nước thừa nhận.
Toàn cầu hoá đã bộc lộ những mặt khó chịu của nó đối với nước nghèo, những
quốc gia chưa kịp cải cách đã phải chấp nhận những luật chơi quốc tế phần lớn do
những nước phương Tây đặt ra. Muốn giành lợi thế so sánh, không còn con đường nào
khác là buộc phải chủ động tiếp thu những chuẩn mực của pháp luật thương mại quốc tế
đã được thừa nhận. Trong đó, pháp luật phải chuyển từ công cụ quản lý kinh tế Nhà
nước sang một trật tự bảo vệ tự do sở hữu, tự do khế ước và bảo vệ môi trường cạnh
tranh toàn cầu. Trên tinh thần ấy, bên cạnh việc tạo lập các biện pháp bảo vệ cho sản
xuất nội địa như một yêu cầu tất yếu của quá trình hội nhập, còn cần phải nỗ lực xây
dựng và phát triển nội lực. Vì vậy mà mọi nỗ lực của các doanh nghiệp trong việc nâng
cao khả năng kinh doanh, khả năng cạnh tranh khi tham gia vào thị trường quốc tế cần
được Nhà nước và pháp luật thừa nhận nếu những nỗ lực đó không gây hại cho nền kinh
tế nội địa và không vi phạm pháp luật, tập quán của thương mại quốc tế. Có như vậy,
hội nhập kinh tế quốc tế mới có khả năng thực hiện hiệu qủa.
10


Bài Tập Lớn học kỳ

Môn: Luật Cạnh tranh và bảo vệ người tiêu dùng.


Để các trường hợp thỏa thuận hạn chế cạnh tranh thuộc diện có thể được miễn trừ phải
thực hiện thủ tục xin được hưởng miễn trừ theo pháp luật cạnh tranh.
2.3. Thủ tục xin được hưởng miễn trừ
Trong mọi trường hợp, các doanh nghiệp xin hưởng miễn trừ phải chứng minh
được thỏa thuận hạn chế cạnh tranh có thể làm hạ giá thành và có lợi cho người tiêu
dùng ( điều này có nghĩa là các doanh nghiệp có thể bắt tay hợp tác với nhau nhằm cắt
giảm chi phí sản xuất, chẳng hạn trong các thỏa thuận mua chung hay bán chung, nhưng
sự hợp tác này chỉ có thể được hưởng miễn trừ nếu việc cắt giảm chi phí này dẫn đến
việc người tiêu dùng được hưởng mức giá thấp hơn trước kia, việc hợp tác đơn thuần
chỉ nhằm tăng mức lợi nhuận của các doanh nghiệp tham gia thỏa thuận, không mang
lại lợi ích cho người tiêu dùng không thuộc phạm vi hưởng miễn trừ). Ngoài ra, việc
thực hiện một thỏa thuận hạn chế cạnh tranh, dù được miễn trừ luôn luôn chỉ “có thời
hạn”.
Hành vi thuộc các trường hợp được miễn trừ chỉ được phép thực hiện sau khi
được cơ quan quản cạnh tranh xem xét và chấp nhận bằng văn bản. Theo quy định tại
Khoản 1 Điều 25 Luật Cạnh tranh Việt Nam thì Bộ trưởng Bộ Thương mại là người có
quyền xem xét, quyết định việc miễn trừ bằng văn bản đối với các trường hợp TTHCCT
quy định tại Điều 10 của Luật. Điều 26 xác định đối tượng nộp hồ sơ đề nghị hưởng
miễn trừ phải là đối tượng trực tiếp của các bên dự định tham gia TTHCCT hoặc tập
trung kinh tế quy định tại Điều 10. Điều 27 Luật Cạnh tranh quy định các bên tham gia
TTHCCT có thể cư một đại diện làm thủ tục hưởng miễn trừ và việc cử này phải được
lập thành văn bản, trong đó quy định rõ quyền, nghĩa vụ và phạm vi trách nhiệm của
bên đại diện trong phạm vi ủy quyền. quy định này nhằm tập trung vào một đầu mối
liên hệ đại diện cho các bên thỏa thuận để đảm bảo tính hiệu quả trong việc thực thi thủ
tục trên. Về cử đại diện các bên dự định tham gia TTHCCT để làm thủ tục đề nghị
hưởng miễn trư được thực hiện trên cơ sở thỏa thuận của các bên bằng văn bản. Theo
đó, quyền và nghĩa vụ của bên đại diện do các bên thỏa thuận quy định và các bên chịu
trách nhiệm về hành vi của bên đại diện trong phạm vi ủy quyền.
Khoản 1 Điều 28 Luật cạnh tranh quy định cụ thể về hồ sơ đề nghị hưởng miễn

trừ đối với thỏa thuận hạn chế cạnh tranh. Đây được coi là cơ sở pháp lý quan trọng để
doanh nghiệp tham gia TTHCCT thực hiện các thủ thục đề nghị hưởng miễn trừ, đồng

11


Bài Tập Lớn học kỳ

Môn: Luật Cạnh tranh và bảo vệ người tiêu dùng.

thời tạo cơ sở pháp lý để cơ quan quản lý cạnh tranh thụ lý hồ sơ theo Luật định. theo
đó, hồ sơ đề nghị hưởng miễn trừ đối với TTHCCT bao gồm: đơn theo mẫu của cơ quan
quản lý cạnh tranh; bản sao hợp lệ giấy chứng nhận đăng lý kinh doanh của từng DN
thao gia TTHCCT và điều lệ của hiệp hội đối với trường hợp TTHCCT có sự tham gia
của hiệp hội; báo cáo tài chính trong hai năm liên tiếp gần nhất của từng DN tham gia
TTHCCT có xác nhận của tổ chức kiểm toán được thành lập theo quy định của pháp
luật); báo cáo thị phần trong hai năm liên tiếp gần nhất của từng DN thao gia TTHCCT
trên thị trường liên quan; báo cáo các giải trình cụ thể việc đáp ứng các trường hợp
được hưởng miễn trừ quy định tại Điều 10 của Luật này; văn bảo ủy quyền của các bên
tham gia TTHCCT cho bên đại diện.
Theo quy định tại Khoản 2 Điều 28 Luật Cạnh tranh, bên nộp hồ sơ và các bên
tham gia TTHCCT chịu trách nhiệm về tình trạng trung thực của hồ sơ. Quy định này là
cơ sở pháp lý quan trọng để DN tham gia TTHCCT thực hiện các thủ tục đề nghị hưởng
miễn trừ, đồng thời tạo cơ sở pháp lý để cơ quan quản lý cạnh tranh thụ lý hồ sơ theo
luật định. Như vậy, quy định xin miễn trừ này sẽ ảnh hưởng đến hoạt động của các hiệp
hội DN do các chính sách kinh doanh chung của các hội viên trong hiệp hội có thể bị
đặt dưới sự kiểm soát của cơ quan quản lý cạnh tranh.
3.Thực tế áp dụng pháp luật và kiến nghị về Các trường hợp miễn trừ đối với thỏa
thuận hạn chế cạnh tranh bị cấm theo Luật cạnh tranh 2004.
3.1. Thực tế áp dụng pháp luật về Các trường hợp miễn trừ đối với thỏa thuận hạn

chế cạnh tranh bị cấm theo Luật cạnh tranh 2004.
Luật cạnh tranh năm 2004 nhìn chung khá đầy đủ tuy nhiên vẫn còn có một vài
thiếu sót cũng như một số điều luật khó áp dụng trên thực tế. Một đặc trưng trong xã hội
Việt Nam nói chung và các doanh nghiệp Việt Nam nói riêng là không tìm hiểu và
nghiên cứu sâu về pháp luật. chính vì thế hiện nay phần lớn các doanh nghiệp chưa hiểu
rõ về pháp luật nói chung và pháp luật cạnh tranh nói riêng dẫn đến việc vi phạm pháp
luật.
Điển hình là vụ 19 doanh nghiệp bảo hiểm Việt Nam ký thỏa thuận tăng mức phí
tối thiểu đối với dịch vụ bảo hiểm vật chất xe ô tô vào cuối nam 2008 vi phạm nghiêm
trọng pháp luật cạnh tranh. Do thiếu hiểu biết về pháp luật đại diện một số công ty lập
luận rằng một số điểm trong bản thỏa thuận mang tính tích cực góp phần phát triển thị
trường bảo hiểm vật chất xe cơ giới nên được hưởng miễn trừ. Họ lập luận việc tăng phí
12


Bài Tập Lớn học kỳ

Môn: Luật Cạnh tranh và bảo vệ người tiêu dùng.

bảo hiểm chỉ nhằm mục đích phục vụ cho việc trả bảo hiểm, bởi giá bảo hiểm quá thấp
sẽ không đủ để chi trả cho những rủi ro lớn. Việc thống nhất này nhằm ổn định thì
trường bảo hiểm, góp phần phát triển thị trường bảo hiểm Việt Nam, góp phần phát triển
kinh tế đất nước, vì thế họ phải được hưởng miễn trừ.
Vậy nhưng như đã phân tích ở phần trên, doanh nghiệp thuộc trường hợp miễn
trừ, muốn được hưởng miễn trừ phải lập hồ sơ đề nghị hưởng miễn trừ, và chỉ sau khi
có quyết định chấp nhận của Bộ trưởng Bộ Thương mại thì doanh nghiệp mới được
hưởng miễn trừ, điều này được quy định cụ thể tại Khoản 1 Điều 36 Luật Cạnh tranh
2004: “Các bên tham gia thoả thuận hạn chế cạnh tranh được hưởng miễn trừ chỉ được
thực hiện thoả thuận hạn chế cạnh tranh sau khi có quyết định cho hưởng miễn trừ của
Bộ trưởng Bộ Thương mại.” Đối chiếu với trường hợp này thỏa thuận của 19 công ty

bảo hiểm được ký trước và sau đó các doanh nghiệp này mới lập luận là thuộc trường
hợp miễn trừ là trái với quy định của pháp luật.
Một ví dụ thực tế nữa là đầu tháng 7/2004 dưới sự chủ trì của Hiệp hội Ngân
hàng Việt Nam, các ngân hàng thương mại nhà nước bao gồm Ngân hàng Ngoại thương,
ngân hàng Đầu tư và Phát triển, Ngân hàng Công thương, Ngân hàng Nông nghiệp và
Phát triển nông thôn, Ngân hàng Phát triển nhà Đồng bằng Sông Cửu Long, chiếm
khoảng 70% thị phần huy động vốn ở Việt Nam đã đồng loạt ấn định lãi suất huy động
tiền gửi 6 tháng là 0.5%/tháng, 12 tháng là 0.63%/tháng, còn các kỳ hạn dưới 6 tháng
tuy không ấn định trần lãi suất huy động nhưng các ngân hàng này cũng chỉ đạo các chi
nhánh phải án định theo mức thấp hơn các kỳ hạn liền kề, bên cạnh đó các ngân hàng
này cũng đồng loạt tăng lãi suất cho vay.
Rõ ràng Luật Cạnh tranh và các văn bản hướng dẫn đã quy định cụ thể về các
thỏa thuận hạn chế cạnh tranh, vậy mà ngay cả các công ty, ngân hàng nhà nước những doanh nghiệp lớn vẫn ngang nhiên vi phạm. Rõ ràng thực tế là công tác phổ biến
pháp luật trong xã hội chưa mang tính hiệu quả cao, các doanh nghiệp vẫn thiếu hiểu
biết, hoặc chưa hiểu đúng và đầy đủ về pháp luật dẫn đến những sai phạm trong hoạt
động.
3.2. Kiến nghị về Các trường hợp miễn trừ đối với thỏa thuận hạn chế cạnh tranh bị
cấm theo Luật cạnh tranh 2004.
+ Như đã nói không phải mọi TTHCCT đều có hại, mà có những thỏa thuận tuy
có hạn chế tự do cạnh tranh nhưng lại có lợi cho sự phát triển kinh tế xã hội, tiên bộ kỹ
13


Bài Tập Lớn học kỳ

Môn: Luật Cạnh tranh và bảo vệ người tiêu dùng.

thuật, có lợi cho người tiêu dùng,… Do đó, cần phải xem xét bảo vệ các thỏa thuận này.
Hơn nữa, để bảo đảm thực hiện chủ trương của nhà nước ta trong việc “xây dựng một só
tập đoàn doanh nghiệp lớn đi đầu trong cạnh tranh và hiện đại hóa, nâng cao sức cạnh

tranh của các doanh nghiệp trong nền kinh tế đặc biệt là các doanh nghiệp vừa và nhỏ
khi chúng ta tiến hành phát triển nền kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế”. Việc quy
định những trường hợp miễn trừ đối với các TTHCCT có lợi cho nền kinh tế quốc dân,
cho người tiêu dùng và cho các doanh nghiệp là hết sức cần thiết.Tuy nhiên hiện nay,
pháp luật Việt Nam còn thiếu quy định về hai điều kiện quan trọng để hưởng miễn trừ,
đó là:
- Việc thực hiện thỏa thuận hạn chế cạnh tranh phải là cần thiết và không thể
tránh khỏi nhằm đặt được các mục tiêu nói trên;
- Và việc thực hiện thỏa thuận hạn chế cạnh trnah không được tạo cho các doanh
nghiệp tham gia thỏa thuận khả năng loại bỏ đáng kể cạnh tranh đối với hàng hóa và
dịch vụ có liên quan.
Theo kinh nghiệm của nhiều nước thì một thỏa thuận hạn chế cạnh tranh dù có
thể được coi là đem lại hiệu quả kinh tế vẫn không được hưởng miễn trừ, trừ phi thỏa
thuận đó là cần thiết và không thể tránh khỏi, nghĩa là nếu như không có thỏa thuận hạn
chế cạnh tranh thì sự hợp tác giữa các doanh nghiệp sẽ không mang lại hiệu quả như
mong muốn (ví dụ, các thỏa thuận sản xuất chung có thể đi kèm với thỏa thuận bán
chung, thỏa thuận này sẽ là hiệu quả nếu như không có thỏa thuận này các doanh nghiệp
sẽ không hợp tác đầu tư sản xuất do chi phí hoặc rủi ro quá lớn). Ngoài ra, một thỏa
thuận hạn chế cạnh tranh được cho là đem lại hiệu quả kinh tế cũng sẽ không được
hưởng miễn trừ nếu thỏa thuận đó dẫn đến việc loại bỏ đáng kể cạnh tranh trên thị
trường dựa trên việc đánh giá tính cạnh tranh trên thị trường trước và sau khi thỏa thuận
được thực hiện ( chẳng hạn khi tình hình cạnh tranh trên thị trường đối với một sản
phảm vốn dĩ đã yếu thì việc cho phép thực hiện một thỏa thuận hạn chế cạnh tranh trong
trường hợp này là hoàn toàn không nên).
+ Để giảm thiểu những hậu quả do quá trình chuyển đổi nền kinh tế gây ra, chính
phủ có thể phải ban hành một số những biện pháp cần thiết, đặc biệt là những biện pháp
bảo hộ sản xuất trong nước. Trong số những biện pháp này có những biện pháp cho
phép những DN được liên kết, thỏa thuận với nhau, song những biện pháp này cần được
suy xét thận trọng nhằm phù hợp với thông lệ quốc tế, phù hợp với khung pháp lý của
14



Bài Tập Lớn học kỳ

Môn: Luật Cạnh tranh và bảo vệ người tiêu dùng.

các tổ chức quốc tế mà chúng ta là thành viên, đặc biệt là pháp luật của WTO. Đồng
thời cũng đảm bảo lợi ích lâu dài cho Việt Nam, thiết nghĩ pháp luật cạnh tranh Việt
Nam nên bổ xung thêm 2 trường hợp miễn trừ trong Điều 10 Luật Cạnh tranh 2004 như
sau: “Thỏa thuận giữa các doanh nghiệp trong hoàn cảnh khó khăn chung của cả
ngành hay của nền kinh tế nếu các thỏa thuận đó nằm trong chủ trương chung của Nhà
nước và cần thiết để vượt qua khó khăn.”
+ Để đảm bảo thực hiện pháp luật cạnh tranh nói chung và pháp luật cạnh tranh
về các trường hợp miễn trừ đối với TTHCCT bị cấm thì công tác tuyên truyền phổ biến
pháp luật cần phải được tiến hành một cách bài bản và có hiệu quả. Việc thực hiện pháp
luật có hiệu quả hay không phần lớn phụ thuộc vào ý thức của người chấp hành pháp
luật, vì thế quy định của pháp luật đưa ra cần phải đến tay người dân, để họ hiểu và có ý
thức chấp hành pháp luật. Những vụ việc, sai phạm như trên chỉ có thể biến mất khi các
doanh nghiệp, người dân hiểu và nắm vững pháp luật để tránh những trường hợp ngang
nhiên vi phạm pháp luật một cách trắng trợn nhưng lại không biết rằng minh đang vi
phạm pháp luật chỉ vì do chưa hiểu biết rõ về pháp luật.
III.

KẾT LUẬN

Thỏa thuận hạn chế cạnh tranh như phân tích trong bài xét dưới một góc độ nhất
định, với một mức độ nhất định và đặt lên bàn cân kinh tế thì nó có những tác động tích
cực đến nền kinh tế quốc dân, góp phần ổn định phát triển thị trường. Tuy nhiên việc
chấp nhận các trường hợp miễn trừ của những thỏa thuận hạn chế cạnh tranh bị cấm cần
phải được xem xét một cách thận trọng nếu không sẽ có thể gây những hậu quả tiêu cực

cho người tiêu dùng cũng như cho cả nền kinh tế, bởi chỉ khi thị trường nội địa được
bảo đảm lành mạnh thì mới thu hút được các nguồn đầu tư trong và ngoài nước phục vụ
cho quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa.

~DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO~
---o0o--1. Luạt Cạnh tranh năm 2004.

15


Bài Tập Lớn học kỳ

Môn: Luật Cạnh tranh và bảo vệ người tiêu dùng.

2. Nghị định 116/2005/NĐ-CP ngày 15 tháng 9 năm 2005 quy định chi tiết thi
hành một số điều của Luật Cạnh tranh.
3. Tập bài giảng Luật Cạnh tranh, Trường đại học Luật Hà Nội, TS. Nguyễn
Thị Vân Anh chủ biên, Hà Nội – 2011.
4. Giáo trình Luạt Cạnh tranh, Trường Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí
Minh,, PGS.TS. Lê Danh Vĩnh chủ biên, TP. Hồ Chí Minh – 2010.
5. Phạm Hoàng Giang, Xây dựng pháp luật cạnh tranh ở việ nam – một số
vấn đề lý luận và thực tiễn, Luận văn thạc sĩ luật học, Hà Nội – Năm 2001.
6. Hoàng Thị An Khánh, Cơ quan quản lý cạnh tranh trong xử lý vụ việc liên
quan đến hành vi hạn chế cạnh tranh, Luận văn thạc sĩ luật học, Hà Nội Năm 2008.
7. Đồng Ngọc Dám, Kiểm soát thỏa thuận hạn chế cạnh tranh - những vấn
đề lý luận và thực tiễn, Luận văn thạc sĩ luật học, Hà Nội – 2007.
8. Trần Thị Thu Thủy, Thực trạng pháp luật về cạnh tranh và phương hướng
xây dựng luật cạnh tranh ở Việt Nam, Khóa luận tốt nghiệp đại học. Hà Nội
– 2008.
9. Websile tham khảo:




16



×