Tải bản đầy đủ (.doc) (9 trang)

thủ tục tiến hành xét xử phúc thẩm dân sự

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (78.47 KB, 9 trang )

BÀI LÀM:
I_ Đặt vấn đề.
Phúc thẩm dân sự là việc toà án cấp trên trực tiếp xét xử lại vụ án mà bản án,
quyết định của toà án cấp sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật bị kháng cáo hoặc
kháng nghị. Về bản chất phúc thẩm không phải là lần xét xử đầu tiên đối với một vụ
án mà là lần xét xử thứ hai. Thủ tục phúc thẩm được tiến hành sau thủ tục sơ thẩm,
đây cũng là nội dung của nguyên tắc xét xử hai cấp mà hệ thống toà án của Việt Nam
cũng như nhiều nước trên thế giới áp dụng nhằm đảm bảo tính thận trọng cho các
phán quyết nhân danh nhà nước. Tính chất phúc thẩm quy định tại Điều 242 Bộ luật
tố tụng dân sự 2004 ( BLTTDS), từ đó chúng ta có thể đưa ra một khái niệm tương
đối về phiên toà phúc thẩm dân sự như sau: Phiên toà phúc thẩm là phiên họp của toà
án cấp trên trực tiếp xét xử lại vụ án dân sự đã được toà án cấp dưới giải quyết bằng
bản án hoặc quyết định chưa có hiệu lực pháp luật nhưng bị kháng cáo hoặc kháng
nghị nhằm xác định tính hợp pháp và tính có căn cứ của bản án, quyết định đó.
II_ Giải quyết vấn đề.
1. Thủ tục tiến hành phiên toà phúc thẩm dân sự.
1.1. Chuẩn bị khai mạc phiên toà phúc thẩm và thủ tục bắt đầu phiên toà.
Theo quy định tại Điều 267 BLTTDS và theo hướng dẫn tại phần III.3 của
Nghị quyết 05/2006/NQ- HĐTP thì việc chuẩn bị khai mạc phiên toà phúc thẩm và
thủ tục bắt đầu phiên toà phúc thẩm cũng được thực hiện theo các Điều 212, 213,
215, 216 của BLTTDS. Do đó, khi chuẩn bị khai mạc phiên toà phúc thẩm và tiến
hành thủ tục bắt đầu phiên toà phúc thẩm, Hội đồng xét xử phúc thẩm phải thi hành
đúng các quy định tại các điều luật nêu trên của BLTTDS và sự hướng dẫn tại phần
III.5 của Nghị quyết 02/2006/NQ- HĐTP.
1.2. Thủ tục hỏi tại phiên toà phúc thẩm dân sự.
* Theo quy định khoản 1 Điều 268 BLTTDS thì sau khi kết thúc thủ tục bắt
đầu phiên toà phúc thẩm, một thành viên hội đồng xét xử phúc thẩm công bố nội
dung của vụ án, quyết định của bản án sơ thẩm và nội dung kháng cáo, kháng nghị.
Nếu có nhiều đương sự cùng kháng cáo và có kháng nghị của Viện kiểm sát ( VKS)
thì công bố lần lượt kháng nghị của VKS trước rồi đến nội dung kháng cáo của từng
đương sự: nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan đến vụ án.


* Tiếp theo, chủ toạ phiên toà tiến hành hỏi các đương sự về các vấn đề sau:
Căn cứ khoản 2 Điều 268 BLTTDS chủ tọa phiên toà tiếp tục hỏi nguyên đơn
có thay đổi, bổ sung, rút một phần hoặc toàn bộ yêu cầu khởi kiện hay không. Nếu
nguyên đơn trả lời là có rút lại đơn khởi kiện thì theo Điều 269 BLTTDS, Chủ toạ đặt
câu hỏi với bị đơn: Ông ( bà) có chấp nhận việc rút lại đơn khởi kiện của nguyên đơn
hay không? Nếu bị đơn đồng ý thì Hội đồng xét xử chấp nhận việc rút đơn khởi kiện
của nguyên đơn. Theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 269 BLTTDS thì việc chấp
nhận yêu cầu rút đơn được thể hiện bằng quyết định đình chỉ giải quyết vụ án. Khi
đình chỉ, Hội đồng xét xử huỷ bản án sơ thẩm, nếu bị đơn không đồng ý cho nguyên
đơn rút đơn khởi kiện thì Hội đồng xét xử không chấp nhận việc rút đơn khởi kiện
của nguyên đơn. Việc quy định hỏi ý kiến của bị đơn trước khi xét xử phúc thẩm
trong trường hợp nguyên đơn rút đơn khởi kiện là cần thiết bởi mọi vấn đề phát sinh,
thay đổi, chấm dứt trong quá trình tố tụng về thực chất đều dựa trên yêu cầu của các
đương sự.
Trường hợp nguyên đơn không rút đơn khởi kiện hoặc rút đơn khởi kiện nhưng
không được bị đơn đồng ý thì hội đồng xét xử đặt câu hỏi với người kháng cáo, kiểm


sát viên trong trường hợp VKS có kháng nghị về việc thay đổi, bổ sung, rút kháng
cáo, kháng nghị hay không. Nếu người kháng cáo thay đổi, bổ sung kháng cáo; VKS
thay đổi, bổ sung kháng nghị thì hội đồng xét xử phải xem xét việc thay đổi, bổ sung
có vượt quá nội dung kháng cáo, kháng nghị ban đầu hay không. Nếu người kháng
cáo rút toàn bộ kháng cáo, VKS rút toàn bộ kháng nghị thì hội đồng xét xử quyết
định đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với phần có kháng cáo, kháng nghị đã rút.
Trong tố tụng dân sự các đương sự có quyền tự định đoạt nên có quyền thay
đổi, bổ sung, rút các yêu cầu của mình; có quyền thoả thuận với nhau các vấn đề
tranh chấp mà không trái với pháp luật và đạo đực xã hội. Việc chủ toạ phiên toà hỏi
đương sự các vấn đề như trên trước khi hỏi về nội dung vụ án nhằm khẳng định
quyền tự định đoạt của đương sự trong việc giải quyết vụ án mà toà án chỉ tíêp tục
giải quyết vụ án khi đương sự vẫn tiếp tục yêu cầu.

Ngoài ra, để bảo đảm quyền tự định đoạt của đương sự, Điều 270 BLTTDS
quy định sau khi các đương sự đã trả lời xong về yêu cầu kháng cáo, hội đồng xét xử
hỏi các đương sự có thoả thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án hay không?
Nếu đương sự thoả thuận được với nhau, hội đồng xét xử cần hỏi rõ họ đã thoả thuận
với nhau như thế nào để làm cơ sở cho việc có chấp nhận thoả thuận đó hay không?
Sau khi xét thấy thoả thuận của họ là tự nguyện, không trái pháp luật và đạo đức xã
hội, hội đồng xét xử phúc thẩm ra bản án phúc thẩm, sửa bản án sơ thẩm, công nhận
sự thoả thuận của đương sự theo quy định của Điều 270 BLTTDS.
* Sau khi chủ toạ phiên toà đã hỏi các đương sự mà nguyên đơn không rút đơn
khởi kiện, người kháng cáo giữ nguyên kháng cáo, VKS giữ kháng nghị và các
đương sự không thoả thuận với nhau về việc giải quyết vụ án thì hội đồng xét xử bắt
đầu xét xử bằng việc nghe lời trình bày của các đương sự theo thứ tự sau đây:
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự kháng cáo trình bày về
nội dung kháng cáo, căn cứ kháng cáo. Sau khi người bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của đương sự trình bày xong yêu cầu kháng cáo thì hỏi người kháng cáo có
đồng ý với phần trình bày của người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ không?
Có bổ sung gì thêm không? Nếu tất cả các đương sự đều kháng cáo thì thứ tự trình
bày là nguyên đơn trình bày trước rồi tới bị đơn, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên
quan. Nếu chỉ có VKS kháng nghị thì kiểm sát viên trình bày về nội dung kháng nghị
và các căn cứ của việc kháng nghị. Nếu vừa có kháng cáo và kháng nghị thì chủ toạ
yêu cầu người kháng cáo trình bày kháng cáo trước, sau đó kiểm sát viên trình bày về
kháng nghị. Tiếp theo người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các đương sự khác
có liên quan đến kháng cáo, kháng nghị được trình bày ý kiến về nội dung kháng cáo,
kháng nghị. Sau đó, đương sự có quyền bổ sung ý kiến. Trong trường hợp đương sự
không có người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho mình thì họ tự trình bày ý kiến
về nội dung kháng cáo, kháng nghị và đề nghị của mình. Tại phiên toà phúc thẩm,
đương sự, Kiểm sát viên, có quyền xuất trình, bổ sung chứng cứ.
* Thủ tục hỏi và công bố tài liệu, xem xét vật chứng tại phiên toà phúc thẩm.
Sau khi nghe các đương sự trình bày yêu cầu đề nghị của mình hội đồng xét xử
tiến hành hỏi các vấn đề nhằm làm sáng tỏ nội dung vụ án. Theo Điều 272 BLTTDS

thủ tục hỏi, công bố tài liệu, xem xét vật chứng tại phiên toà phúc thẩm được thực
hiện giống như ở phiên toà sơ thẩm. Tuy nhiên, ở phiên toà phúc thẩm Hội đồng xét
xử phúc thẩm chỉ hỏi những vấn đề thuộc phạm vi xét xử phúc thẩm quy định tại
Điều 263 BLTTDS. Mặt khác, Hội đồng xét xử phúc thẩm không có Hội thẩm nhân
dân tham gia nên sau khi chủ toạ phiên toà hỏi thì các thẩm phán khác là thành viên


của Hội đồng xét xử hỏi, sau đó đến người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của đương
sự, đương sự, kiểm sát viên và những người tham gia tố tụng khác.
Sau khi hỏi các đương sự, công bố các tài liệu có trong hồ sơ và xem xét tài
liệu, vật chứng, Hội đồng xét xử tiến hành hỏi người giám định nếu người giám định
được mời tới phiên toà. Theo Điều 230 BLTTDS, Chủ toạ phiên toà yêu cầu người
giám định trình bày kết luận của mình về vấn đề giám định. Kiểm sát viên, những
người tham gia tố tụng có mặt tại phiên toà có quyền nhận xét về kết luận giám định,
được hỏi những vấn đề còn chưa rõ, hoặc có mâu thuẫn trong kết luận giám định hoặc
có mâu thuẫn với những tình tiết khác của vụ án. Khi người tham gia tố tụng không
đồng ý với kết luận giám định được công bố tại phiên toà và có yêu cầu giám định bổ
sung, giám định lại nếu thấy việc giám định bổ sung, giám định lại là cần thiết cho
việc giải quyết vụ án thì hội đồng xét xử quyết định giám định bổ sung, giám định lại;
trong trường hợp này Hội đồng xét xử quyết định hoãn phiên toà.
Khi nhận thấy tình tiết vụ án được xem xét đầy đủ thì chủ toạ phiên toà hỏi
kiểm sát viên, đương sự, người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự, những
người tham gia tố tụng khác xem họ có yêu cầu hỏi vấn đề gì nữa không; trường hợp
có yêu cầu và xét thấy yêu cầu đó là có căn cứ thì chủ toạ phiên toà quyết định tiếp
tục việc hỏi.
1.3. Tranh luận tại phiên toà phúc thẩm dân sự.
Theo Điều 273 BLTTDS thì “ tranh luận tại phiên toà phúc thẩm được thực
hiện như tranh luận tại phiên toà sơ thẩm, thứ tự phát biểu được thực hiện theo quy
định tại Điều 271 của bộ luật này và chỉ được tranh luận về các vấn đề thuộc phạm vi
xét xử phúc thẩm và đã được hỏi tại phiên toà phúc thẩm”. Như vậy, ngoài việc vận

dụng các quy định tại Điều 273 BLTTDS, chủ toạ phiên toà còn phải vận dụng các
quy định từ Điều 232 đến Điều 235 BLTTDS để điều khiển phần tranh luận. Theo các
quy định này, thứ tự phát biểu khi tranh luận được thực hiện như sau:
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn phát biểu, sau đó nếu
nguyên đơn có ý kiến thì nguyên đơn có quyền bổ sung ý kiến. Trong trường hợp cơ
quan, tổ chức khởi kiện thì đại diện cơ quan, tổ chức trình bày ý kiến. Người có
quyền và lợi ích được bảo vệ có quyền bổ sung ý kiến, sau đó người bảo vệ quyền và
lợi ích hợp pháp của bị đơn phát biểu, nếu bị đơn có ý kiến bổ sung thì có quyền
đứng lên phát biểu. Sau khi người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn và bị
đơn phát biểu thì tới người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người có quyền lợi,
nghĩa vụ liên quan phát biểu. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền bổ
sung ý kiến.
Nếu có kiểm sát viên tham gia phiên toà thì sau khi những người tham gia tố
tụng phát biểu tranh luận và đối đáp xong, chủ toạ phiên toà đề nghị kiểm sát viên
phát biểu ý kiến của VKS về việc giải quyết vụ án.
Trong trường hợp nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan
không có người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình thì họ tự mình phát biểu
khi tranh luận.
Sau những người tham gia tố tụng phát biểu tranh luận và đối đáp xong, Chủ
toạ phiên toà đề nghị Kiểm sát viên phát biểu ý kiến của VKS về hướng giải quyết vụ
án. Ở thủ tục này, vai trò của Thẩm phán Chủ toạ phiên toà trong thủ tục này là rất
lớn, việc tranh luận có làm rõ sự thật khách quan hay không phụ thuộc một phần rất
lớn vào việc điều khiển phiên toà của thẩm phán- Chủ toạ phiên toà.


Cuối cùng, sau khi phát biểu về đánh giá chứng cứ, đề xuất quan điểm của
mình về việc giải quyết vụ án, người tham gia tranh luận phải căn cứ vào tài liệu,
chứng cứ đã thu thập được và đã được xem xét, kiểm tra tại phiên toà cũng như kết
quả việc hỏi tại phiên toà. Người tham gia tranh luận có quyền đáp lại ý kiến của
người khác. Chủ toạ phiên toà không được hạn chế thời gian tranh luận, tạo điều kiện

cho những người tham gia tranh luận trình bày hết ý kiến, nhưng có quyền cắt những
ý kiến không có liên quan đến vụ án.
1.4. Các quy định về nghị án trong phiên toà phúc thẩm dân sự.
Theo Điều 274 BLTTDS, “ Việc nghị án, trở lại việc hỏi và tranh luận, theo
thời gian nghị án, tuyên án, sửa chữa, bổ sung bản án phúc thẩm được thực hiện như
thủ tục sơ thẩm”, thủ tục nghị án của phiên toà sơ thẩm được quy định tại Điều 236
BLTTDS như sau:
“ 1. Sau khi kết thúc phần tranh luận, Hội đồng xét xử vào phòng nghị án để
nghị án.
2. Chỉ có các thành viên của Hội đồng xét xử mới có quyền nghị án. Khi nghị
án, các thành viên của Hội đồng xét xử phải giải quyết tất cả các vấn đề của vụ án
bằng cách biểu quyết theo đa số về từng vấn đề. Hội thẩm nhân dân biểu quyết trước,
Thẩm phán biểu quyết sau cùng. Người có ý kiến thiểu số có quyền trình bày ý kiến
của mình bằng văn bản và được đưa vào hồ sơ vụ án.
3. Khi nghị án chỉ được căn cứ vào tài liệu, chứng cứ đã được kiểm tra, xem
xét tại phiên toà, kết quả việc hỏi tại phiên toà và phải xem xét đầy đủ ý kiến của
những người tham gia tố tụng, Kiểm sát viên.
4. Khi nghị án phải có biên bản ghi lại ý kiến đã thảo luận và quyết định của
Hội đồng xét xử. Biên bản nghị án phải được các thành viên Hội đồng xét xử ký tên
tại phòng nghị án trước khi tuyên án.
5. Trong trường hợp vụ án có nghiều tình tiết phức tạp, việc nghị án đòi hỏi
phải có thời gian dài thì Hội đồng xét xử có thể quyết định thời gian nghị án, nhưng
không quá năm ngày làm việc kể từ khi kết thúc tranh luận tại phiên toà.
Hội đồng xét xử phải thông báo cho những người có mặt tại phiên toà và người
tham gia tố tụng vắng mặt tại phiên toà biết giờ, ngày và địa điểm tuyên án; nếu Hội
đồng xét xử đã thực hiện việc thông báo mà có người tham gia tố tụng vắng mặt thì
Hội đồng xét xử vẫn tiến hành việc tuyên án theo quy định tại Điều 239 của Bộ luật
này.”
Như vậy, so với các quy định của các văn bản pháp luật tố tụng dân sự trước
đây về thủ tục nghị án, Điều luật này đã quy định khá đầy đủ và chi tiết để đảm bảo

việc giải quyết đúng vụ án, điều luật này không những đã quy định rõ thành phần
nghị án, thủ tục, nội dung nghị án mà cả các căn cứ nghị án và thời gian nghị án.
Mặt khác, điều luật này cũng đã quy định trong quá trình nghị án nếu xét thấy
có tình tiết vụ án chưa được xem xét, việc hỏi chưa đầy đủ hoặc cần xem xét thêm thì
Hội đồng xét xử quyết định việc hỏi và tranh luận, đây là quy định cần thiết vì thực tế
đã cho thấy nhiều trường hợp khi nghị án thì Hội đồng xét xử mới phát hiện ra các
tình tiết vụ án chưa được sáng tỏ.
Ngoài ra, điều luật này cũng đã quy định cụ thể việc ghi biên bản phản ánh lại
diễn biến của việc các án có tác dụng nâng cao trách nhiệm của các thành viên hội
đồng xét xử trong việc nghị án. Theo đó, Chủ toạ phiên toà thay mặt thành viên khác
của Hội đồng xét xử chịu trách nhiệm ghi biên bản, trong biên bản nghị án phải ghi
lại đầy đủ các ý kiến đã thảo luận về từng vấn đề một và quyết định theo đa số của


Hội đồng xét xử về từng vấn đề đó. Các thành viên của Hội đồng xét xử phải ký vào
biên bản nghị án tại phòng nghị án trước khi tuyên án.
1.5. Các quy định về tuyên án trong phiên toà phúc thẩm dân sự.
Theo Điều 274 BLTTDS thủ tục tuyên án tại phiên toà phúc thẩm dân sự thực
hiện như tại phiên toà sơ thẩm quy định tại Điều 239 BLTTDS. Theo quy định này
khi tuyên án mọi người trong phòng xử phải đứng dậy, trừ trường hợp đặc biệt được
phép của chủ toạ phiên toà hoặc một thành viên khác của hội đồng xét xử đọc bản án
và sau khi đọc xong có thể giải thích thêm về việc thi hành bản án hoặc quyền kháng
cáo. Trong trường hợp có đương sự không biết tiếng việt thì sau khi tuyên án, người
phiên dịch phải dịch lại cho họ nghe toàn bộ bản án sang ngôn ngữ mà họ biết.
Để thực hiện được quy định này thống nhất, tại mục 11 phần III của nghị quyết
02/2006/QĐ- HĐTP ngày 12/05/2006 của HĐTPTANDTC đã hướng dẫn: “ khi tuyên
án mọi người trong phòng xử án phải đứng dậy. Nếu thấy có người không đứng dậy,
thì Thư ký Toà án phải nhắc nhở họ, nếu người đó báo cáo vì lý do sức khoẻ nên
không thể đứng dậy được, thì chủ toạ phiên toà cho phép ngồi tại chổ và sau đó mới
tuyên án. Chủ toạ phiên toà hoặc một thành viên khác của Hội đồng xét xử đọc bản

án; nếu bản án dài thì có thể thay nhau đọc bản án. Trong trường hợp bản án quá dài,
thì chủ toạ phiên toà có thể chỉ yêu cầu mọi người trong phòng xử án phải đứng dậy
khi đọc phần mở đầu và phần quýêt định của bản án. Sau khi đọc xong bản án, tuỳ
vào từng trường hợp cụ thể, chủ toạ phiên toà hoặc một thành viên khác của Hội đồng
xét xử giải thích thêm về việc thi hành bản án và quyền kháng cáo của đương sự. Đối
với đương sự không biết tiếng Việt, thì sau khi tuyên án xong người phiên dịch phải
dịch lại cho họ nghe toàn bộ bản án sang thứ tiếng mà họ biết ( bao gồm cả phần bản
án có liên quan đến họ và phần bản án có liên quan đến các đương sự khác trong vụ
án).”
Tuy pháp luật không quy định cụ thể trường hợp xét xử kín việc tuyên án được
thực hiện như thế nào, tuy vậy, trong thực tiễn trường hợp xử kín một phần hay toàn
bộ vụ án thì tuỳ từng trường hợp có thể đọc toàn bộ bản án hoặc chỉ đọc tóm tắt nội
dung sự việc và nhận định của toà án nhưng phần quyết định của toà án phải được
đọc toàn văn và công khai.
Đối với trường hợp vắng mặt đương sự, trong BLTTDS không có điều luật nào
quy định tuyên án khi vắng mặt đương sự, tuy nhiên, trên thực tế nếu ở phần thủ tục
hỏi và phần tranh luận các đương sự có mặt nhưng khi toà án tuyên án lại vắng mặt
thì toà án tiến hành tuyên án như bình thường.
2_ Kiến nghị hoàn thiện pháp luật về thủ tục tiến hành phiên toà phúc
thẩm dân sự.
Muốn hoàn thiện được các quy định về thủ tục tiến hành phiên toà phúc thẩm
dân sự thì cần phải đáp ứng được các yêu cầu về các vấn đề như sau: yêu cầu nâng
cao hiệu quả xét xử phúc thẩm; yêu cầu mở rộng tranh tụng trong tố tụng dân sự; yêu
cầu về hoàn thiện trong hệ thống pháp luật Việt nam; yêu cầu về đổi mới hệ thống toà
án; yêu cầu nâng cao trách nhiệm của Thẩm phán...Sau đây là một số kiến nghị hoàn
thiện pháp luật về thủ tục tiến hành phiên toà phúc thẩm dân sự:
2.1. Về thủ tục hỏi và thủ tục tranh luận tại phiên toà phúc thẩm.
Việc quy định về thủ tục hỏi như trong BLTTDS vẫn đề cao vai trò của Thẩm
phán và coi nhẹ vai trò của các bên đương sự. Trong quá trình xét xử tại phiên toà
Hội đồng xét xử vẫn giữ vai trò chủ động và tích cực tham gia vào các hoạt động hỏi

các đương sự, người đại diện của đương sự, người làm chứng, người giám định...vai


trò của luật sư tại phiên toà bị mờ nhạt, các bên đương sự, người đại diện của đương
sự, người bảo vệ quyền lợi của đương sự, những người tham gia tố tụng khác chỉ
tham gia vào quá trình chứng minh ở mức độ hạn chế. Việc quy định như vậy không
phù hợp với tinh thần cải cách tư pháp. Do đó, BLTTDS cần thu hẹp việc hỏi tại
phiên toà, việc làm sáng tỏ những vấn đề còn mâu thuẫn sẽ được giải quyết tại phần
tranh luận của phiên toà. Khi xét xử các bên đương sự thực hiện trách nhiệm chứng
minh còn toà án chỉ thẩm tra tư cách các đương sự và những người tham gia tố tụng
khác để bảo đảm tính hợp pháp của quá trình tranh tụng tại phiên toà Hội đồng xét xử
có quyền tham gia vào quá trình đó bất cứ thời điểm nào khi thấy cần thiết phải làm
sáng tỏ các tình tiết, chứng cứ nào đó về vụ án chưa được các bên làm rõ. Do đó thủ
tục tiến hành phiên toà cần được quy định như sau: sau thủ tục bắt đầu phiên toà, Hội
đồng xét xử cho đương sự trình bày yêu cầu, xuất trình chứng cứ và tranh luận.
Điều 272 BLTTDS quy định về thủ tục hỏi và công bố tài liệu, xem xét vật
chứng tại phiên toà phúc thẩm, Sửa đổi khoản 1 Điều 272 BLTTDS như sau:
“ 1. Thủ tục hỏi những người tham gia tố tụng và công bố tài liệu, xem xét vật
chứng tại phiên toà phúc thẩm được thực hiện theo quy định tại các Điều 222, 223,
224, 225, 226, 227, 228, 229, 230 và 231 của Bộ luật này.”
2.2.Về tranh luận tại phiên toà.
Hiện nay tranh luận tại phiên toà trong BLTTDS cũng mới chỉ đề cập đến trình
tự phát biểu khi tranh luận, phát biểu khi tranh luận và đối đáp, phát biểu của VKS và
trở lại việc xét hỏi mà chưa đề cấp cụ thể đến những người có quyền tham gia tranh
luận, phạm vi, căn cứ của việc tranh luận trong khi đó đây là những vấn đề có ý nghĩa
quan trọng để ra những bản án, quyết định có căn cứ và hợp pháp. Ngoài ra, quy định
về tranh luận trong BLTTDS không phát huy được tính tích cực của các bên đương
sự. Về những người tham gia tranh luận: cần bổ sung thêm điều luật quy định về
những người có quyền tham gia tranh luận tại phiên toà phúc thẩm đó là: đương sự,
người đại diện của đương sự hoặc người bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp của đương sự

có quyền tham gia tranh luận. Trong trường hợp VKS kháng nghị thì VKS có quyền
tranh luận.
Sửa đổi Điều 273 BLTTDS như sau:
“ Tranh luận tại phiên toà phúc thẩm:
1- Trình tự phát biểu tranh luận tại phiên toà thực hiện theo quy định tại Điều
271 của Bộ luật này.
2- Về phạm vi phát biểu khi tranh luận và đối đáp. Phát biểu của Kiểm sát viên
và việc trở lại việc hỏi được thực hiện theo quy định tại Điều 233, 234 và 235 Bộ luật
này.
3- Chỉ được tranh luận về vấn đề thuộc phạm vi xét xử phúc thẩm theo quy
định tại Điều 263 Bộ luật này.”
Sửa đổi Điều 233 BLTTDS như sau:
“ 1- Khi phát biểu về đánh giá chứng cứ, đề xuất quan điểm của mình về việc
giải quyết vụ án, người tham gia tranh luận phải căn cứ vào tài liệu, chứng cứ đã thu
thập được và đã được xem xét, kiểm tra tại phiên toà cũng như kết quả việc hỏi tại
phiên toà. Người tham gia tranh luận có quyền đáp lại ý kiến của người khác. Chủ toạ
phiên toà không được hạn chế thời gian tranh luận, tạo điều kiện cho những người
tham gia tranh luận trình bày hết ý kiến, nhưng có quyền cắt những ý kiến không có
liên quan đến vụ án.


2- Nếu tranh luận kéo dài sang ngày khác thì việc tranh luận được tiếp tục vào
ngày tiếp theo, chủ toạ phiên toà phải thông bảo cho những người có mặt tại phiên
toà thời gian và địa điểm của việc tranh luận.”
2.3. Về nghị án tại phiên toà phúc thẩm.
Điều 274 BLTTDS quy định: “ Việc nghị án, tuyên án, sửa chữa, bổ sung bản
án phúc thẩm được thực hiện như thủ tục sơ thẩm”. Các quy định kiểu này đã gây
lúng túng cho các toà án cấp phúc thẩm không biết phải áp dụng quy định nào, áp
dụng thế nào cho các trường hợp xét xử tại phiên toà phúc thẩm. Vì vậy, cần hoàn
thiện quy định này theo hướng quy định cụ thể điều luật mà quy định đó dẫn chiếu

như sau:
Sửa đổi Điều 274: Nghị án và tuyên án.
“ Việc nghị án, trở lại tranh luận, tuyên án, sửa chữa, bổ sung bản án phúc thẩm
được thực hiện như thủ tục sơ thẩm quy định tại các Điều 236, 237, 239, 240 của Bộ
luật này”.
Về thời hạn nghị án, Khoản 5 Điều 236 BLTTDS quy định: “ Trong trường hợp
vụ án có nhiều tình tiết phức tạp, việc nghị án đòi hỏi phải có thời gian dài thì Hội
đồng xét xử có thể quyết định thời gian nghị án, nhưng không quá năm ngày làm việc
kể từ khi kết thúc tranh luận tại phiên toà...”. Bản án là kết quả cụ thể của toàn bộ quá
trình điều tra, xét xử một vụ án. Nó xác định sự thật khách quan, rút ra những kết
luận về những vấn đề liên quan đến tính mạng, tài sản, danh dự, nhân phẩm, lợi ích
của con người, của tập thể, của Nhà nước và những vấn đề liên quan đến toàn bộ xã
hội. Do đó, thẩm phán phải mất rất nhiều thời gian để trình bày nội dung, phân tích,
đánh giá các chứng cứ, các tình tiết của vụ án, việc vận dụng pháp luật làm căn cứ để
xác định sự việc, chứng minh cho những kết luận, những vấn đề cần phải giải đáp
trong vụ án, làm cơ sở cho việc ra phán quyết. Đối với trường hợp vụ án có nhiều
tình tiết phức tạp thì có những trường hợp thời hạn 5 ngày có thể là không đủ để Hội
đồng xét xử có thể xem xét và đưa ra quyết định đúng đắn. Vậy vấn đề đặt ra là Hội
đồng xét xử sẽ giải quyết như thế nào đối với những trường hợp hết 5 ngày làm việc
mà Hội đồng xét xử vẫn chưa thể tuyên án được. Việc xử lý sẽ phụ thuộc vào kỹ năng
của từng thẩm phán. Theo quy định của BLTTDS thì các thủ tục hỏi, tranh luận và
nghị án có thể đan xen. Qua nghị án, nếu xét thấy có tình tiết của vụ án chưa được
xem xét, việc hỏi chưa đầy đủ hoặc cần xem xét thêm chứng cứ thì Hội đồng xét xử
quyết định trở lại việc hỏi và tranh luận và như vậy thì việc nghị án lại có thêm 5
ngày làm việc nữa. Do đó, quy định về thời hạn nghị án là 5 ngày trong BLTTDS là
hợp lý. Đối với những vụ án bình thường, BLTTDS không quy định về thời hạn nghị
án, việc nghị án và tuyên án có thể diễn ra ngay sau khi kết thúc tranh luận. Trên thực
tế hầu như đối với việc xét xử các vụ án dân sự bản án đều được viết sẵn. Về mặt lý
luận, bản án được chuẩn bị trước khi nghị án là không đúng và khi bản án đã được
viết trước như vậy thì quá trình tranh luận tại phiên toà trở nên vô nghĩa, việc tham

gia tố tụng của các luật sư để bảo vệ quyền lợi cho các đương sự cũng bị hạn
chế...bởi vì các thành viên của Hội đồng xét xử đã định hình sẵn phương hướng giải
quyết vụ án trước khi giai đoạn xét xử được diễn ra, việc giải quyết vụ án đã được
quyết định trước bởi một tập thể thẩm phán. Bởi vậy, em đồng tình với quan điểm
cho rằng thời gian nghị án không chỉ áp dụng đối với những vụ án có nhiều tình tiết
phức tạp mà thời gian nghị án này phải được áp dụng đối với tất cả các vụ án ngay cả
đối với vụ án có thể nghị án ngay được thì cũng không nên tuyên án ngay vì Hội
đồng xét xử cần có đủ thời gian cần thiết để bàn bạc, thảo luận về các vấn đề cần phải


giải quyết trong vụ án trên cơ sở đó là Hội đồng xét xử ra được bản án, quyết định
đúng đắn, chính xác và bảo vệ quyền lợi chính đáng của các đương sự. Do đó, Điều
236 cần được quy định như sau: “ Sau khi kết thúc phần tranh luận, chủ toạ phiên toà
tuyên bố và quyết định thời gian nghị án nhưng không được quá 5 ngày làm việc”.
2.4. Về phát biểu của Kiểm sát viên khi tranh luận tại phiên toà phúc thẩm.
Điều 234 BLTTDS quy định: “ Trong trường hợp kiểm sát viên tham gia phiên
toà thì sau khi những người tham gia tố tụng phát biểu tranh luận và đối đáp xong,
Chủ toạ phiên toà đề nghị kiểm sát viên phát biểu ý kiến của VKS về việc giải quyết
vụ án”. Đây là quy định đáng suy nghĩ về mặt học thuật. Tại phiên toà phúc thẩm nói
riêng và tại các phiên toà dân sự nói chung, việc phát biểu của VKS về việc giải
quyết vụ án có thể bao gồm cả việc đánh giá chứng cứ, tình tiết, sự kiện của vụ án và
đường lối áp dụng để giải quyết. Nói cách khác, VKS cũng làm công tác như Toà án
là tìm hiểu sự thật vụ án và nghiên cứu pháp luật để giải quyết vụ án. Như vậy, Kiểm
sát viên cũng làm nhiệm vụ xét xử và kết quả là có sự chồng chéo về chức năng giữa
Toà án và VKS. Việc phát biểu ý kiến của Kiểm sát viên về việc giải quyết vụ án tại
phiên toà phần nào đã làm mất đi bản chất của tranh luận trong tố tụng dân sự. Nên
chăng, để bảo vệ trật tự công cộng, tính thống nhất của hệ thống pháp luật, VKS vẫn
cần kiểm sát việc áp dụng và tuân thủ pháp luật của Toà án. Tuy nhiên, tại phiên toà
phúc thẩm, VKS có quyền tham gia tranh luận trong trường hợp VKS kháng nghị,
VKS chỉ phát biểu khi có những vi phạm về pháp luật tố tụng và sau phiên toà có

quyền kháng nghị theo thủ tục tái thẩm, giám đốc thẩm về bản án khi Toà án áp dụng
pháp luật sai hoặc có vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng.
2.5. Sửa đổi khoản 1 Điều 269 BLTTDS như sau:
“ Nguyên đơn rút đơn khởi kiện trước khi mở phiên toà hoặc tại phiên toà phúc
thẩm.
1- Trước khi mở phiên toà hoặc tại phiên toà phúc thẩm nguyên đơn rút đơn
khởi kiện thì Hội đồng xét xử phúc thẩm phải hỏi bị đơn có đồng ý hay không và tuỳ
từng trường hợp mà giải quyết như sau:
a) Bị đơn không đồng ý thì không chấp nhận việc rút đơn khởi kiện của nguyên
đơn;
b) Bị đơn đồng ý thì chấp nhận việc rút đơn khởi kiện của nguyên đơn. Hội
đồng xét xử phúc thẩm ra quyết định huỷ bản án sơ thẩm và đình chỉ giải quyết vụ án.
Trong trường hợp này, Hội đồng xét xử căn cứ vào quyết định của Toà án cấp sơ
thẩm về án trong bản án sơ thẩm bị huỷ, Toà án phúc thẩm quyết định đương sự nào
phải chịu án phí và mức án phí sơ thẩm. Đối với trường hợp này, các đương sự còn
phải chịu một nửa án phí phúc thẩm theo quy định của pháp luật.”
III_ Kết thúc vấn đề.
Phiên toà phúc thẩm dân sự có những ý nghĩa rất lớn cả về mặt chính trị, xã hội
và pháp lý. Việc tiến hành tốt phiên toà phúc thẩm dân sự là một yêu cầu tất yếu
khách quan đặt ra đối với hoạt động xét xử của Toà án. Từ khi BLTTDS 2004 được
ban hành, các vấn đề tố tụng dân sự đã được bộ luật này quy định tường đối đầy đủ,
cụ thể, tuy nhiên cũng vẫn còn một số tồn tại. Trên đây là một vài nghiên cứu của em
về thủ tục tiến hành phiên toà phúc thẩm dân sự và một vài kiến nghị, hy vọng rằng
bài nghiên cứu của em sẽ đóng góp một phần nào đó trong việc hoàn thiện pháp luật
về thủ tục tiến hành phiên toà phúc thẩm nói riêng và hoàn thiện bộ luật tố tụng dân
sự nói chung.





×