Tải bản đầy đủ (.doc) (10 trang)

Tìm hiểu vấn đề ly hôn trong hệ thống pháp luật việt nam (từ thời kì phong kiến đến nay)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (714.74 KB, 10 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Gia đình là một hình thức tồn tại của hôn nhân. Khi bắt đầu xác lập quan hệ hôn
nhân, con người có khuynh hướng đặt ra cho mình mục tiêu xây dựng gia đình hạnh
phúc. Thế nhưng vì một lý do nào đó mà mục tiêu ấy không đạt được, nó bị gián đoạn
bằng sự chấm dứt hôn nhân của vợ chồng, đó là con đường ly hôn. Thuật ngữ ly hôn
không còn là vấn đề mới mẻ trong cuộc sống xã hội cũng trong như trong lĩnh vực pháp
lý. Ly hôn không còn là một hiện tượng xã hội nóng bỏng mà nó tồn tại trong cuộc sống
như một mạch chảy ngầm, cứ khi nào có đủ điều kiện thì nó lại phát sinh, và chỉ khi đó
mới cần đến sự can thiệp của pháp luật bằng những quy định về chế định ly hôn. Chính
vì vậy em xin chọn đề tài “Tìm hiểu vấn đề ly hôn trong hệ thống pháp luật Việt
Nam (từ thời kì phong kiến đến nay)” làm đề tài nghiên cứu.
NỘI DUNG
Vấn đề ly hôn được quy định trong hệ thống pháp luật Việt Nam từ thời phong kiến
đến nay đã trải qua nhiều giai đoạn. Thời kì phong kiến có bộ Quốc Triều hình luật ban
hành dưới triều đại vua Lê Thánh Tông (Luật Hồng Đức) và Hoàng Việt Luật lệ được
ban hành dưới triều vua Gia Long (Luật Gia Long). Trong thời kì Pháp thuộc, nước ta
chia thành ba miền và áp dụng ba bộ luật để điều chỉnh các vấn đề hôn nhân gia đình (1)
Ở Bắc kì áp dụng Bộ luật Dân sự năm 1931 (Dân luật Bắc kỳ), (2) Ở Trung kì áp dụng
Bộ luật Dân sự năm 1936 (Dân luật Trung kỳ), (3) Ở Nam kì cho ban hành tập Dân
luật giản yếu năm 1883. Thời kỳ cách mạng dân tộc – dân chủ nhân dân (từ 1945
-1954) nước ta ban hành Sắc lệnh số 159-SL ngày 17/11/1950 để điều chỉnh vấn đề ly
hôn. Thời kỳ đất nước chưa thống nhất (1954 – 1975) bị chia cắt làm hai miền Nam –
Bắc thì ở miền Bắc vấn đề ly hôn được điều chỉnh bởi Luật hôn nhân và gia đình năm
1959 còn ở miền Nam vấn đề ly hôn được điều chỉnh bởi 3 bộ luật : (1)Luật Gia đình
2/01/1959, (2) Sắc luật 1964 ngày 23/07/1964, (3) Bộ dân luật 20/12/1972. Thời kỳ
1976 đến nay vấn đề ly hôn được điều chỉnh bởi Luật hôn nhân và gia đình năm 1986
sau đó được điều chỉnh bởi Luật hôn nhân và gia đình năm 2000.


Hiện nay tại khoản 8 Điều 8 Luật hôn nhân gia đình 2000 quy định: Ly hôn là việc
chấm dứt quan hệ hôn nhân do Tòa án công nhận hoặc quyết định theo yêu cầu của vợ


hoặc chống hoặc cả hai vợ chồng.
Để tìm hiểu vấn đề ly hôn trong hệ thống pháp luật từ thời phong kiến đến nay, em
xin tìm hiểu dưới 4 góc độ:
Thứ nhất là căn cứ ly hôn.
Nhà nước phải kiểm soát việc giải quyết ly hôn (để đảm bảo lợi ích của vợ chồng,
con cái, các thành viên trong gia đình và lợi ích của xã hội) bằng cách xác định những
điều kiện cho phép chấm dứt quan hệ vợ chồng trước pháp luật. Đó chính là căn cứ để
giải quyết ly hôn. Như vậy, căn cứ ly hôn là những tình tiết hay điều kiện được quy định
trong pháp luật để khi có những tình tiết hay điều kiện đó thì Tòa án cho phép vợ chồng
ly hôn.
Trước khi bộ luật hôn nhân gia đình 1959 ra đời, ở tất cả các bộ luật trước đây đều
quy định giải quyết ly hôn đều là dựa vào lỗi của vợ, chồng.
Ly hôn do lỗi của người vợ: người chồng phải ly hôn khi người vợ phạm phải điều
nghĩa tuyệt (đoạn tuyệt hết ân nghĩa vợ chồng) như: không con, ghen tuông, ác tật (mắc
các bệnh như phong, hủi), dâm đãng, không kính cha mẹ, lắm lời, trộm cắp ( Điều 310,
Bộ luật Hồng Đức); vợ phạm gian; vợ bỏ nhà chồng ra đi, tuy đã buộc phải về nhưng
không chịu về; vợ thứ đánh chửi, bạo hành vợ chính; (Điều 117 Bộ DLTK 1936 và Điều
118 Bộ DLBK 1931)
Ly hôn do lỗi của người chồng: khi chồng đã bỏ lửng vợ 5 tháng không đi lại (có
quan xã làm chứng), trừ khi chồng có việc phải đi xa hay nếu con rể lấy điều thị phi
mắng nhiếc cha mẹ vợ. (Bộ luật Hồng Đức, Điều 308 / 333); người chồng mất tích do
loạn lạc (Điều 108 Bộ luật Gia Long); khi chồng bỏ nhà đi quá hai năm không có lý do
chính đáng và không lo liệu việc nuôi nấng vợ con; chồng đuổi vợ ra khỏi nhà không có
lý do chính đáng…(Điều 118 Bộ DLTK 1936 và Điều 119 Bộ DLBK 1931).
Điều 119 Bộ DLTK 1936 và Điều 120 Bộ DLBK 1931 quy định về những duyên cớ
mà cả vợ cả chồng cùng có thể xin ly hôn như: vì một bên can án trọng tội, vì một bên
vô hạnh làm nhơ nhuốc đến nỗi bên kia không thể ở chung được…


Sắc lệnh số 159-SL ngày 17/11/1950 thừa nhận khả năng ly hôn do lỗi, do một bên

mắc bệnh tâm thần hoặc bệnh hiểm nghèo, thậm chí do không hợp tính tình (Điều 2).
Việc căn cứ vào yếu tố lỗi để giải quyết việc ly hôn là rất sai lầm thể hiện ở chỗ chỉ
nhìn vào biểu hiện bên ngoài của quan hệ hôn nhân để cho phép vợ chồng ly hôn chứ
không căn cứ vào thực chất của quan hệ vợ chồng. Điều này sẽ dẫn đến việc có thể đánh
giá chưa đúng mức độ của tình trạng hôn nhân. Việc giải quyết ly hôn dựa vào lỗi của
các bên khi dựa vào hình thức của quan hệ hôn nhân sẽ dẫn đến việc xét xử của Tòa án
là việc làm hết sức rập khuôn, máy móc, do rất dễ dẫn đến những phán quyết chưa chính
xác đối với việc giải quyết ly hôn. Ngoài ra căn cứ như vậy sẽ khiến cho lý do để Tòa án
cho phép vợ chồng được ly hôn bị hạn hẹp, dần dần sẽ bị lỗi thời so với sự phát triển của
xã hội mới, với nhiều phát sinh mới.
Khi Luật HN&GĐ 1959 ra đời, người làm luật xây dựng căn cứ để giải quyết ly hôn
mang tính chất tổng quát chứ không dựa trên yếu tố lỗi nữa. Việc ly hôn được cho phép
một khi hôn nhân của vợ chồng đã ở trong “tình trạng trầm trọng, cuộc sống chung
không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được” (Điều 26, Luật HN&GĐ
1959) và tiếp tục được kế thừa ở Luật HN&GĐ 1986 và phát triển cao hơn ở Luật
HN&GĐ 2000.
Quy định căn cứ để giải quyết ly hôn không dựa trên yếu tố lỗi là hoàn toàn đúng
đắn. Bởi việc giải quyết ly hôn phải căn cứ vào thực chất quan hệ vợ chồng, là tổng thể
các hành vi, các biểu hiện của vợ chồng mà từ đó có thể khẳng định là hôn nhân của họ
tan vỡ. Khi giải quyết ly hôn, ta không chỉ dựa trên cơ sở tình yêu của vợ chồng không
còn mà phải dựa trên một thực tế rằng quan hệ đó tự nó đã tan vỡ, sự tồn tại của quan hệ
hôn nhân chỉ là hình thức, ly hôn là một giải pháp hữu hiệu nhằm giải phóng cho vợ
chồng khỏi cuộc sống chung đầy đau khổ hiện tại, đồng thời cũng giải phóng cho các
thành viên khác trong gia đình thoát khỏi cuộc sống căng thẳng, nặng nề, bảo đảm lợi
ích của vợ chồng, gia đình và xã hội.
Thứ hai là Quyền yêu cầu ly hôn.
Có hai trường hợp ly hôn đó là thuận tình ly hôn (ly hôn do cả hai vợ chồng yêu cầu)
và ly hôn do một bên yêu cầu.



Dù là trường hợp thuận tình ly hôn hay do một bên yêu cầu thì pháp luật thời kì
phong kiến và thời kì Pháp thuộc đều thể hiện tư tưởng trọng nam, khinh nữ. Bởi các
điều luật thời kì này đều thể hiện rõ sự khắt khe đối với người phụ nữ. Những lỗi mà
người phụ nữ mắc phải để người đàn ông được quyền ly hôn là rất nhiều ( Ví dụ: không
con, ghen tuông, ác tật (mắc các bệnh như phong, hủi), dâm đãng, không kính cha mẹ,
lắm lời, trộm cắp) hay cùng một lỗi mà người đàn ông có quyền yêu cầu được ly hôn mà
người phụ nữ thì không có quyền yêu cầu được ly hôn (Ví dụ: ngoại tình) trong khi đó
thì quyền yêu cầu ly hôn người phụ nữ đặt ra với người đàn ông được quy định hết sức
hạn hẹp (Ví dụ: khi chồng bỏ nhà đi quá hai năm không có lý do chính đáng và không lo
liệu việc nuôi nấng vợ con; chồng đuổi vợ ra khỏi nhà không có lý do chính đáng)
Mặc dù thời kì phong kiến pháp luật cũng thừa nhận việc ly hôn do sự thuận tình của
vợ và chồng1: bằng cách cùng nhau thảo một văn thư, vợ chồng bày tỏ ý chí về việc
chấm dứt cuộc sống chung và việc ly hôn có hiệu lực sau khi người chồng ký và người
vợ điểm chỉ vào giấy đó mà không cần có sự can thiệp của cơ quan Nhà nước có thẩm
quyền. Thời kì Pháp thuộc cũng quy định việc thuận tình ly hôn giữa vợ và chồng (Điều
119 DLTK và Điều 120 DLBK). Tuy nhiên, chế độ gia trưởng gắn liền với tư tưởng
trọng nam, khinh nữ trong thời kì phong kiến hay thời kì Pháp thuộc, vai trò của người
đàn ông hoàn toàn áp đảo vai trò của người đàn bà, cả trong quan hệ gia đình và quan
hệ xã hội, ly hôn do sự thuận tình, một giao dịch đòi hỏi vợ và chồng đều có quyền tự do
bày tỏ hoặc không bày tỏ ý chí, trở thành một chế định không thích hợp với nền nếp
tư duy pháp lý đặt cơ sở cho hệ thống pháp luật gia đình. Nói rõ hơn, có thể tin rằng
trong hệ thống pháp luật gia đình thời phong kiến dựa trên chế độ phụ quyền, hầu hết
các trường hợp thuận tình ly hôn về thực chất là các trường hợp ly hôn theo sáng kiến
của người chồng, người vợ chỉ chấp nhận hoặc cam chịu. Dưới chế độ Pháp thuộc việc
ghi nhận sự thuận tình ly hôn giữa vợ và chồng cũng chỉ phát huy được hiệu lực ở một
số người thuộc tầng lớp trí thức.
Ngoài ra pháp luật phong kiến còn buộc vợ chồng phải ly hôn mà không cần có bên
nào yêu cầu đó là: kết hôn khi đang có tang cha mẹ hoặc tang chồng; kết hôn khi ông
1


Vũ Văn Mẫu, Dân luật Việt Nam lược khảo, Sài gòn, 1962, tr. 559 và 560.


bà, cha mẹ đang bị giam cầm, tù tội; lấy người trong họ; ép gạ người vợ góa kết hôn với
người khác; lấy đàn bà, con gái hát xướng làm vợ; lấy vợ góa của anh, em, thầy học;
con của quan ty kết hôn với con của tù trưởng địa phương nơi biên giới.(Luật Hồng
Đức). Như vậy các nhà làm luật thời kì phong kiến đã đồng nhất ly hôn với hủy hôn trái
pháp luật, có nghĩa là, mặc dù, những người kết hôn và buộc phải ly hôn do phạm vào
các điều kiện kết hôn thì giá trị pháp lý vẫn tồn tại đến khi có án xử ly hôn thì thôi. Khi
người vợ phạm vào một trong bảy điều “thất xuất 2” thì người chồng cũng bắt buộc phải
bỏ vợ kể cả khi người chồng không mong muốn. Như vậy, sự bất bình đẳng đã được thể
hiện giữa vợ và chồng, bởi nó chỉ thừa nhận quyền bỏ vợ đơn phương từ phía người
chồng.
Việc ghi nhận quyền yêu cầu ly hôn dựa trên tư tưởng giải phóng phụ nữ, thể hiện sự
bình đẳng nam nữ khi sắc lệnh số 159-SL ban hành ngày 17/11/1950. Sắc lệnh số 159 –
SL đã ghi nhận sự thuận tình ly hôn của mỗi bên mặc dù vẫn dựa trên căn cứ lỗi của mỗi
bên để giải quyết yêu cầu nhưng các nhà làm luật thời kì này đã tôn trọng nguyên tắc
không phân biệt đối xử theo giới tính, phần nào thể hiện được sự bình đẳng giữa nam và
nữ khi đưa ra lỗi của mỗi bên chứ không còn quy định lỗi của vợ, chồng nữa. Từ khi
Luật HN&GĐ 1959 đến Luật HN&GĐ 1986 và cao hơn là Luật HN&GĐ 2000 thì pháp
luật thật sự thể hiện sự bình đẳng giữa nam và nữ. Cả hai vợ chồng đều có quyền yêu
cầu ly hôn xuất phát từ ý chí của họ. Đây là một điểm tiến bộ, nhà làm luật đã cho phép
vợ chồng có thể xin ly hôn theo như đúng ý chí của họ mong muốn, mà không phải chịu
một sự ràng buộc nào về điều kiện cho đôi bên được ly hôn. Pháp luật quan tâm đến ý
chí tự nguyện, xin thuận tình ly hôn của vợ chồng. Các trường hợp ly hôn được phân
loại tùy theo yêu cầu ly hôn xuất phát từ ý chí của cả vợ và chồng hay của một trong hai
người, chứ không căn cứ vào tính chất, đặc điểm của các sự kiện được coi là nguyên
nhân của sự tan vỡ quan hệ vợ chồng như trước.
Thứ ba là điều kiện hạn chế ly hôn:
Quy định hạn chế ly hôn thời kì phong kiến hay thời kì Pháp thuộc đều nhằm bảo vệ

người phụ nữ chủ yếu xuất phát từ đạo đức và lễ giáo phong kiến nhưng cũng vẫn dựa
2

không con, ghen tuông, ác tật, dâm đãng, không kính cha mẹ, lắm lời, trộm cắp


vào hình thức bên ngoài của hôn nhân để quy định. Ở Quốc Việt Luật lệ dù vợ phạm vào
thất xuất nhưng có 3 điều không thể bỏ: “để tang 3 năm, trước nghèo sau giàu, có người
cưới cũng không ưng”. Đến thời kì Pháp thuộc luật quy định điều kiện để hai vợ chồng
có thể xin thuận tình ly hôn là đã chung sống với nhau 2 năm (Điều 121 Dân luật Bắc kì
và Điều 120 Dân luật Trung kì). Còn tại Dân luật Nam Kỳ lại quy định chặt chẽ hơn điều
kiện để vợ chồng thuận tình xin ly hôn, sẽ không được chấp thuận, nếu: chưa chung
sống đủ 2 năm hoặc đã quá 20 năm; người chồng dưới 25 tuổi hay người vợ dưới 21
tuổi hoặc đã quá 45 tuổi; không có sự thuận tình của bố mẹ.
Đến sắc lệnh số 159-SL ngày 17/11/1950 các nhà làm luật đã bắt đầu quan tâm đến
người phụ nữ, bảo vệ bà mẹ và trẻ em: nếu người vợ đang có thai thì vợ hay chồng có
thể xin tòa án hoãn sau khi sinh nở mới xử lý việc ly hôn (Điều 5); và việc quan tâm sâu
sắc hơn thể hiện ở luật HN&GĐ 1959 (Điều 27) và Luật HN&GĐ 1986 (Điều 41) quy
định: Trong trường hợp người vợ có thai, chồng chỉ có thể xin ly hôn sau khi vợ đã sinh
đẻ được một năm. Điều hạn chế này không áp dụng đối với việc xin ly hôn của người vợ.
Điều 85, Luật HN&GĐ 2000 quy định: Trong trường hợp vợ có thai hoặc đang nuôi con
dưới mười hai tháng tuổi thì chồng không có quyền yêu cầu xin ly hôn. Quy định này
hoàn toàn mang tính nhân đạo, tôn trọng quyền của người phụ nữ đồng thời quan tâm
đến việc bảo vệ người phụ nữ và trẻ em. Đây là một điểm rất tiến bộ trong quá trình xây
dựng luật hôn nhân và gia đình..Việc đưa ra quy định hạn chế ly hôn như hiện nay là
hoàn toàn phù hợp bởi người phụ nữ khi mang thai, hoặc nuôi con dưới 12 tháng tuổi sẽ
rất vất vả, cần sự quan tâm, giúp đỡ của người chồng. Việc hạn chế như vậy cũng đồng
thời đảm bảo cho đứa trẻ có thể phát triển tốt, ít nhất là qua giai đoạn 1 năm tuổi. Không
những thể, thậm chí còn có thể hàn gắn được quan hệ hôn nhân của vợ chồng đã rạn nứt
tưởng chừng sụp đổ.

Trong quá trình phát triển luật có thời kì Luật Gia đình 2/01/1959 “khuyến khích và
tán trợ sự thuần nhất của gia đình”, cấm ly hôn (Điều 55), ngoại trừ trường hợp tối đặc
biệt, Tổng Thống có quyền quyết định chấp thuận cho ly hôn. Việc quy định như vậy là
rất vô đạo đức theo quan niệm hiện nay nhưng đặt trong hoàn cảnh thời bấy giờ lại là


phù hợp bởi lúc đó, việc ly hôn sẽ dẫn đến rất nhiều xáo trộn, ảnh hưởng tiêu cực đến xã
hội và quy định cấm này cũng không kéo dài.
Thứ tư là hậu quả pháp lý của ly hôn.
Khi Tòa án giải quyết cho vợ chồng ly hôn sẽ dẫn đến những hậu quả pháp lý nhất
định: làm chấm dứt quan hệ vợ chồng về nhân thân, về tài sản và giải quyết vấn đề con
chung.
Thời kỳ phong kiến, hậu quả pháp lý của việc ly hôn không được quy định rõ trong
luật, như vậy, nhà làm luật đã bỏ ngỏ, để vấn đề này được giải quyết theo phong tục tập
quán (chia tài sản ly hôn, chăm sóc, nuôi dưỡng con chung,…). Đây chính là một điểm
rất hạn chế của vấn đề ly hôn thời kì này. Bởi coi trọng tư tưởng trọng nam khinh nữ nên
người phụ nữ sẽ là người phải chịu rất nhiều thiệt thòi sau khi ly hôn. Khi lấy chồng thì
người phụ nữ về sống chung với chồng, còn khi ly hôn hầu như là mất tất cả. Đến thời kì
Pháp thuộc mặc dù đã có sự quy định về hậu quả pháp lý sau khi ly hôn nhưng thể hiện
sự bất bình đẳng rất rõ ràng giữa vợ và chồng: Vợ chồng ly hôn, con cái luôn thuộc về
người cha, người phụ nữ không được mang theo con mình; Người vợ ly hôn, khi ra khỏi
nhà chồng, được phép mang đi quần áo, tư trang, đồ dùng cá nhân. Việc phân chia các
tài sản có giá trị lớn được thực hiện theo các thoả thuận trước trong hôn ước; nếu không
có hôn ước, thì theo các quy định của pháp luật. Các giải pháp của luật về phân chia tài
sản giữa vợ chồng sau khi ly hôn được xây dựng tùy theo gia đình có hay không có con
và người vợ có hay không có ngoại tình.
Sắc lệnh số 159-SL ngày 17/11/1950 Tại Điều 6, quy định rõ: tòa án sẽ căn cứ vào
quyền lợi của các con vị thành niên để ấn định việc trông nom, nuôi nấng và dạy dỗ
chúng. Hai vợ chồng đã ly hôn phải cùng chịu phí tổn về việc nuôi dạy con, mỗi người
tùy theo khả năng của mình. Như vậy, với quy định này, nhà làm luật đã nhằm mục đích

vỏa vệ quyền lợi của con chưa thành niên sau khi bố mẹ chúng ly hôn. Điều này đã trái
ngược hẳn với những tập quán và pháp luật cũ của ta, xóa bỏ tư tưởng trọng nam, khinh
nữ, đã trực tiếp ảnh hưởng đến quyền lợi của người phụ nữ và gián tiếp ảnh hưởng đến
quyền lợi của con chưa thành niên.. Giữa vợ và chồng thì hậu quả pháp lý chỉ được quy
định một cách chung chung: Trong trường hợp xét xử một bên có lỗi thì toà án có thể bắt


bên đó bồi thường phí tổn cho bên kia.(Điều 7). Đối với việc nuôi con chung, Sắc lệnh
số 159-SL mới chỉ nhắc đến và bảo vệ quyền lợi cho con chưa thành niên. Tuy không có
đầy đủ các quy tắc cần thiết, nhưng sắc lệnh 159-SL đã thể hiện được chủ trương của
người làm luật xoá bỏ hậu quả pháp lý về ly hôn dựa trên quan niệm bất bình đẳng giữa
nam và nữ.
Từ khi Luật HN&GĐ năm 1959 đã quy định hậu quả pháp lý một cách chi tiết và
ngày càng được hoàn thiện cho đến nay. Đó là các quy định cụ thể về quan hệ nhân thân,
quan hệ tài sản, vấn đề con chung.
Về quan hệ nhân thân: Luật HN&GĐ 1959, Luật HN&GĐ 1986, Luật HN&GĐ 2000
đều quy định chấm dứt các quyền và nghĩa vụ về nhân thân giữa vợ và chồng sau khi
quyết định ly hôn của Tòa án có hiệu lực, vợ, chồng có quyền kết hôn với người khác.
Về quan hệ tài sản: Luật HN&GĐ 1959 đã quy định ở Điều tuy nhiên mang tính khái
quát cao đồng thời chưa đưa ra những nguyên tắc phân chia tài sản, chưa quy định về tài
sản chung, tài sản riêng của vợ chồng, do đó vẫn dẫn đến nhiều tranh chấp Nhược điểm
này đã được khắc phục trong Luật HN&GĐ 1986, điều 42 và được hoàn thiện hơn nữa ở
Luật HN&GĐ 2000 quy định ở các điều 95, 96, 97, 98. Sự quy định rõ ràng như hiện
nay của Luật HN&GĐ 2000 và tôn trọng cả sự thỏa thuận của hai vợ chồng, thể hiện sự
bình đẳng của hai vợ chồng.
Về vấn đề con chung: quy định tại điều 31,32,33 Luật HN&GĐ 1959; điều 44,45
Luật HN&GĐ 1986; điều 92,93,94 Luật HN&GĐ 2000 quy định ngày càng hoàn thiện
vấn đề con chung, thể hiện sự quan tâm một cách sâu sắc và triệt để của nhà nước đối
với trẻ em, thể hiện sự tiến bộ của luật pháp.
Ngoài ra các bộ luật còn quy định nghĩa vụ cấp dưỡng giữa vợ và chồng sau khi ly

hôn, nghĩa vụ cấp dưỡng giữa vợ, chồng đối với con cái đã thể hiện rõ tư tưởng của
pháp luật hôn nhân thời kì hiện đại đó là quyền và lợi ích chính đáng của vợ và con được
ưu tiên bảo vệ. Thực tiễn ghi nhận rằng trong phần lớn trường hợp, người sẽ phải đương
đầu với nhiều khó khăn về vật chất và tinh thần sau khi ly hôn là người vợ và các con
sinh ra từ hôn nhân, nhất là các con chưa thành niên hoặc tật nguyền và không có
khả năng lao động


Như vậy, qua 4 góc độ nghiên cứu về vấn đề ly hôn trong hệ thống pháp luật Việt
Nam từ thời kỳ phong kiến đến nay, ta thấy được vấn đề ly hôn được quy định ngày càng
chi tiết rõ ràng và ngày càng được hoàn thiện, thể hiện sự quan tâm của xã hội đối với
vấn đề này.
KẾT LUẬN
Quan hệ vợ chồng là quan hệ riêng tư giữa hai cá nhân nhưng lại tác động trực tiếp
tới gia đình. Do vậy, quan hệ hôn nhân mang ý nghĩa xã hội to lớn. Sự bền vững của
quan hệ hôn nhân không chỉ là sự quan tâm của vợ chồng mà còn là sự quan tâm của
toàn xã hội chính vì thế việc xem xét và đánh giá toàn diện vấn đề hôn nhân gia đình nói
chung và vấn đề ly hôn nói riêng sẽ đảm bảo giải quyết ly hôn mang lại kết quả tích cực
để từ đó củng cố các quan hệ gia đình, thúc đẩy gia đình phát triển phù hợp với đạo đức,
với truyền thống dân tộc và với lợi ích của toàn xã hội.

BỘ TƯ PHÁP
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI
------------


BÀI TẬP LỚN HỌC KỲ
MÔN: LUẬT HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH VIỆT
NAM


ĐỀ BÀI SỐ 12
Tìm hiểu vấn đề ly hôn trong hệ thống pháp luật Việt Nam (Từ thời kỳ
phong kiến đến nay
Họ và tên:

: Nguyễn Thanh Vân

Mã số sinh viên

: 360770

Lớp

: NO2



×