Tải bản đầy đủ (.doc) (15 trang)

Tìm hiểu về nguyên tắc cân đối trong hoạt động ngân sách nhà nước theo luật ngân sách và thực tế áp dụng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (100.49 KB, 15 trang )

Bài tập lớn học kỳ môn Luật Tài chính – Đề bài số 8

Đề bài số 8: Tìm hiểu về nguyên tắc cân đối trong hoạt động ngân
sách nhà nước theo Luật ngân sách và thực tế áp dụng.

MỤC LỤC

A. Đặt vấn đề………………………………………………………..2
B. Giải quyết vấn đề…………………………………………………………2
I. Khái quát chung về nguyên tắc cân đối trong hoạt động ngân sách
nhà nước……………………………………………………………………2
II. Thực trạng cân đối ngân sách nhà nước tại Việt Nam……………6
III. Hoàn thiện cân đối ngân sách nhà nước…………………………10
C. Kết luận………………………………………………………….15
Danh mục tài liệu tham khảo……………………………………….16

0


Bài tập lớn học kỳ môn Luật Tài chính – Đề bài số 8

BÀI LÀM
A. ĐẶT VẤN ĐỀ
B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
I. Khái quát chung về nguyên tắc cân đối trong hoạt động ngân
sách nhà nước
1. Khái niệm ngân sách nhà nước
Theo Điều 1 Luật ngân sách nhà nước 2002, ngân sách nhà nước được
định nghĩa là:
“ Ngân sách nhà nước là toàn bộ các khoản thu, chi của Nhà nước
đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định và được thực hiện


trong một năm để bảo đảm thực hiện các chức năng và nhiệm vụ của Nhà
nước”.
Ngân sách nhà nước được thiết lập và vận hành theo bốn nguyên tắc
cơ bản sau:
- Nguyên tắc ngân sách nhất niên
- Nguyên tắc ngân sách đơn nhất
- Nguyên tắc ngân sách toàn diện
- Nguyên tắc ngân sách thăng bằng (cân bằng)
2. Khái niệm cân đối ngân sách nhà nước
Ngân sách nhà nước là một bảng kế hoạch tài chính của một quốc gia
trong đó dự trù các khoản thu và chi được thực hiện trong một năm. Trên
thực tế quá trình thu chi ngân sách nhà nước luôn trong trạng thái biến đổi
không ngừng, nó bị ảnh hưởng bởi sự vận động của nền kinh tế quốc gia, có
khi những khoản thu dự kiến không đủ đáp ứng nhu cầu chi tiêu trong năm
đó, hoặc có khi mức thu lại vượt xa những khoản chi. Do vậy các khoản chi
tiêu và thu ngân sách nhà nước phải được tính toán chính xác và phù hợp với
thực tế để đảm bảo cho ngân sách nhà nước trong trạng thái cân bằng, ổn
định. Thu và chi ngân sách là hai vấn đề quan trọng để đảm bảo cho ngân
sách nhà nước được cân đối, hai vấn đề này lại nằm trong mối tương quan
1


Bài tập lớn học kỳ môn Luật Tài chính – Đề bài số 8

giữa tài chính và kinh tế, vì kinh tế có phát triển thì Nhà nước mới huy động
được nguồn thu vào ngân sách nhà nước, còn kinh tế không ổn định, kém
phát triển thì nguồn thu vào ngân sách nhà nước giảm và còn phải chi nhiều
để hổ trợ. Điều đó dể dẫn đến ngân sách nhà nước bị mất cân đối.
- Xét về bản chất, cân đối ngân sách nhà nước là cân đối giữa các
nguồn thu mà Nhà nước huy động được tập trung vào ngân sách nhà nước

trong một năm và sự phân phối, sử dụng nguồn thu đó thỏa mãn nhu cầu chi
tiêu của Nhà nước trong năm đó
- Xét về góc độ tổng thể, cân đối ngân sách nhà nước phản ánh mối
tương quan giữa thu và chi trong một tài khóa. Nó không chỉ là sự tương
quan giữa tổng thu và tổng chi mà còn thể hiện sự phân bổ hợp lý giữa cơ
cấu các khoản thu và cơ cấu các khoản chi của ngân sách nhà nước
- Xét trên phương diện phân cấp quản lý nhà nước, cân đối ngân sách
nhà nước là cân đối về phân bổ và chuyển giao nguồn thu giữa các cấp ngân
sách, giữa trung ương và địa phương và giữa các địa phương với nhau để
thực hiện chức năng và nhiệm vụ được giao.
Cân đối ngân sách nhà nước không chỉ đơn thuần là sự cân bằng về số
lượng biểu hiện qua các con số giữa tổng thu và tổng chi, mà nó còn biểu
hiện qua các khía cạnh khác nhau. Tựu trung lại ta có thể hiểu: Cân đối
ngân sách nhà nước là một bộ phận quan trọng của chính sách tài khóa,
phản ánh sự điều chỉnh mối quan hệ tương tác giữa thu và chi ngân
sách nhà nước nhằm thực hiện các mục tiêu kinh tế xã hội mà Nhà nước
đã đề ra trong từng lĩnh vực và địa bàn cụ thể.
3. Đặc điểm cân đối ngân sách nhà nước
Từ những quan niệm về cân đối ngân sách nhà nước ta có thể rút ra
một số đặc điểm cơ bản sau đây:
- Cân đối ngân sách nhà nước phản ánh mối quan hệ tương tác giữa
thu và chi ngân sách nhà nước trong năm ngân sách nhằm đạt được các mục
tiêu đã đề ra. Nó vừa là công cụ thực hiện các chính sách xã hội của Nhà
nước, vừa bị ảnh hưởng bởi các chỉ tiêu kinh tế - xã hội. Cân đối ngân sách
nhà nước không phải là để thu chi cân đối hoặc chỉ là cân đối đơn thuần về
2


Bài tập lớn học kỳ môn Luật Tài chính – Đề bài số 8


mặt lượng, mà cân đối ngân sách nhà nước nhằm thực hiện các mục tiêu
chiến lược kinh tế - xã hội của Nhà nước đồng thời các chỉ tiêu kinh tế - xã
hội này cũng quyết định sự hình thành về thu, chi ngân sách nhà nước. Tuy
nhiên việc tính toán thu, chi không phản ánh một cách thụ động các chỉ tiêu
kinh tế - xã hội, mà cân đối ngân sách nhà nước có tác động làm thay đổi
hoặc điều chỉnh một cách hợp lý các chỉ tiêu kinh tế - xã hội, bằng khả năng
quản lý hoặc phân bổ nguồn lực có hiệu quả.
- Cân đối ngân sách nhà nước là cân đối giữa tổng thu và tổng chi,
giữa các khoản thu và các khoản chi, cân đối về phân bổ và chuyển giao
nguồn lực giữa các cấp trong hệ thống ngân sách nhà nước, đồng thời kiểm
soát được tình trạng ngân sách nhà nước đặc biệt là tình trạng bội chi ngân
sách nhà nước. Cân bằng thu- chi ngân sách nhà nước chỉ là tương đối chứ
không thể đạt mức tuyệt đối được vì hoạt động kinh tế luôn ở trạng thái biến
động Nhà nước phải điều chỉnh hoạt động thu, chi cho phù hợp. Bên cạnh
đó, cần phân bổ nguồn thu cho hợp lý để đảm bảo sự ổn định về kinh tế - xã
hội giữa các địa phương. Mặt khác, nếu ngân sách không cân bằng mà rơi
vào tình trạng bội chi thì cần đưa ra những giải quyết kịp thời để ổn định lại
ngân sách nhà nước.
- Cân đối ngân sách nhà nước mang tính định lượng và tính tiên
liệu.Trong quá trình cân đối ngân sách nhà nước, người quản lý phải xác
định các con số thu, chi ngân sách nhà nước so với tình hình thu nhập trong
nước, chi tiết hóa từng khoản thu, chi nhằm đưa ra cơ chế sử dụng và quản
lý nguồn thu phù hợp với hoạt động chi, từ đó để làm cơ sở phân bổ và
chuyển giao nguồn lực giữa các cấp ngân sách. Cân đối ngân sách nhà nước
phải dự đoán được các khoản thu, chi ngân sách một cách tổng thể để đảm
bảo thực hiện các mục tiêu kinh tế - xã hội.
4. Vai trò của cân đối ngân sách nhà nước trong nền kinh tế thị
trường
Cân đối ngân sách nhà nước là một công cụ quan trọng để Nhà nước
can thiệp vào hoạt động kinh tế - xã hội của đất nước, với vai trò quyết định

3


Bài tập lớn học kỳ môn Luật Tài chính – Đề bài số 8

đó thì cân đối ngân sách nhà nước trong nền kinh tế thị trường có các vai trò
sau:
- Cân đối ngân sách nhà nước góp phần ổn định kinh tế vĩ mô. Nhà
nước thực hiện cân đối ngân sách nhà nước thông qua chính sách thuế, chính
sách chi tiêu hàng năm và quyết định mức bội chi cụ thể nên có nhiều tác
động đến hoạt động kinh tế cũng như cán cân thương mại quốc tế. Từ đó góp
phần ổn định việc thực các mục tiêu của chính sách kinh tế vĩ mô như: Tăng
trưởng mức thu nhập bình quân trong nền kinh tế, giảm tỷ lệ thất nghiệp,
lạm phát được duy trì ở mức ổn định và có thể dự toán được,…
- Cân đối ngân sách nhà nước góp phần phân bổ, sử dụng nguồn lực
tài chính có hiệu quả, để đảm bảo được vai trò này ngay từ khi lập dự toán
Nhà nước đã lựa chọn trình tự ưu tiên hợp lý trong phân bổ ngân sách nhà
nước và sự gắn kết chặt chẽ giữa chiến lược phát triển kinh tế - xã hội với
công tác lập kế hoạch ngân sách. Trong phân cấp quản lý ngân sách, nếu cân
đối ngân sách nhà nước phân định nguồn thu một cách hợp lý giữa trung
ương với địa phương và giữa các địa phương với nhau thì sẽ đảm bảo thực
hiện được các mục tiêu kinh tế - xã hội đã đề ra.
- Cân đối ngân sách nhà nước góp phần đảm bảo công bằng xã hội,
giảm thiểu sự bất bình đẳng giữa các địa phương. Nước ta với mỗi một vùng
lại có một điều kiện kinh tế - xã hội khác nhau, có những vùng điều kiện
kinh tế - xã hội rất khó khăn làm ảnh hưởng đến thu nhập và chất lượng cuộc
sống của người dân, có những vùng điều kiện kinh tế - xã hội thuận lợi, phát
triển làm cho thu nhập và cuộc sống của người dân được nâng lên. Vì vậy
cân đối ngân sách nhà nước sẽ đảm được sự công bằng, giảm thiểu sự bất
bình đẳng giữa người dân và các vùng miền. Nhà nước có thể huy động

nguồn lực từ những người có thu nhập cao, những vùng có kinh tế phát triển
để hổ trợ, giúp đỡ những người nghèo có thu nhập thấp và những vùng kinh
tế kém phát triển. Bên cạnh đó, cân đối ngân sách nhà nước góp phần phát
huy lợi thế của từng địa phương, tạo nên thế mạnh kinh tế cho địa phương
đó dựa trên tiềm năng có sẳn của địa phương.

4


Bài tập lớn học kỳ môn Luật Tài chính – Đề bài số 8

5. Nguyên tắc trong việc thực hiện cân đối ngân sách nhà nước
- Ngân sách nhà nước được cân đối theo nguyên tắc tổng số thu từ
thuế, phí, lệ phí phải lớn hơn tổng số chi thường xuyên và góp phần tích luỹ
ngày càng cao vào chi đầu tư phát triển; trường hợp còn bội chi, thì số bội
chi phải nhỏ hơn số chi đầu tư phát triển, tiến tới cân bằng thu, chi ngân
sách.
- Bội chi ngân sách nhà nước được bù đắp bằng nguồn vay trong nước
và ngoài nước. Vay bù đắp bội chi ngân sách nhà nước phải bảo đảm nguyên
tắc không sử dụng cho tiêu dùng, chỉ được sử dụng cho mục đích phát triển
và bảo đảm bố trí ngân sách để chủ động trả hết nợ khi đến hạn.
- Ngân sách địa phương được cân đối với tổng số chi không vượt quá
tổng số thu; trường hợp tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương có nhu cầu
đầu tư xây dựng công trình kết cấu hạ tầng thuộc phạm vi ngân sách cấp tỉnh
bảo đảm, thuộc danh mục đầu tư trong kế hoạch 5 năm đã được Hội đồng
nhân dân cấp tỉnh quyết định, nhưng vượt quá khả năng cân đối của ngân
sách cấp tỉnh năm dự toán, thì được phép huy động vốn trong nước và phải
cân đối ngân sách cấp tỉnh hàng năm để chủ động trả hết nợ khi đến hạn.
Mức dư nợ từ nguồn vốn huy động không vượt quá 30% vốn đầu tư xây
dựng cơ bản trong nước hàng năm của ngân sách cấp tỉnh.

=> Tóm lại, Ngân sách nhà nước vừa là công cụ tài chính quan trọng,
vừa là đạo luật của một quốc gia. Nó được thiết lập và vận hành cùng với sự
tồn tại và phát triển của quốc gia đó. Đặc biệt trong thời kỳ chuyển đổi và
hội nhập như hiện nay, ngân sách nhà nước và vấn đề cân đối ngân sách
càng đóng vai trò quan trọng hơn vào sự phát triển đất nước, bình ổn xã hội.
Hiểu và vận dụng tốt các học thuyết về cân đối ngân sách nhà nước sẽ giúp
nước ta có thể giải quyết những vấn đề còn tồn đọng về ngân sách nhà nước
trong thời gian vừa qua. Ngân sách nhà nước được cân đối, ổn định sẽ giúp
Nhà nước thực hiện tốt chức năng và nhiệm vụ của mình đối với toàn dân,
toàn xã hội.

5


Bài tập lớn học kỳ môn Luật Tài chính – Đề bài số 8

II. Thực trạng cân đối ngân sách nhà nước tại Việt Nam
1. Vấn đề phân định nhiệm vụ chi và nguồn thu NSNN
Luật NSNN đã xử lý một cách căn bản quan hệ tài chính giữa các cấp
chính quyền, quan hệ giữa NSTW và NSĐP. Phân cấp nguồn thu và nhiệm
vụ chi cụ thể, khá rỏ rang. Trong đó NSTW giử vai trò chủ đạo, đảm bảo các
nhiệm vụ chiến lược, có quy mô toàn quốc. Còn NSĐP ngày càng được mở
rộng quyền tự chủ hơn trong khai thác các nguồn thu tại chỗ và chủ động bố
trí chi tiêu hợp lý. Từ những chính sách đúng đắn được thể chế bằng luật và
pháp lệnh mà nguồn thu ngân sách ở các tỉnh, thành đã tăng lên một cách
bền vững. Kết quả là NSĐP từ chổ chiếm 34% tổng chi NSNN giai đoạn
1991- 1996 đã tăng lên 47% giai đoạn 1997- 2008. Điều này tạo nền tảng cơ
bản cho địa phương chủ động nhằm cân đối ngân sách tích cực hơn. Qua
phân cấp NSNN , nguồn thu của các địa phương đã được tăng lên rỏ rệt. Để
đạt được kết quả nêu trên, là cả một sự nỗ lực về cân đối nguồn lực phù hợp

phục vụ cho mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội. Với việc sửa đổi hệ thống
phân cấp NSNN, theo đó trao quyền tự chủ nhiều hơn cho chính quyền địa
phương, nguồn thu NSNN đã được các cấp chính quyền địa phương quan
tâm nhiều hơn so với trước. Quy định về ổn định NSĐP theo tỷ lệ % phân
chia các khoản thu và số bổ sung cân đối từ ngân sách cấp trên cho ngân
sách cấp dưới được ổn định từ 3- 5 năm, đã tạo điều kiện cho các địa phương
yên tâm và tích cực trong việc huy động các nguồn thu trên địa bàn. Quy
định cho phép địa phương được huy động các nguồn vốn tín dụng trong
nước cho đầu tư với mức tối đa 30% vốn đầu tư xây dựng cơ bản trong nước
hàng năm của ngân sách cấp tỉnh, đã mở đường cho nhiều địa phương trong
việc huy động các nguồn vốn ngoài ngân sách để tham gia đầu tư cho các
mục tiêu ngân sách. NSĐP ngày càng được hưởng nhiều nguồn thu hơn như:
các khoản thu từ thuế tài nguyên môi trường được hưởng toàn bộ, hưởng
khoản thu điều tiết từ thuế tiêu thụ đặc biệt,…đã đem lại kết quả đáng kể cho
NSĐP. Những kết quả nêu trên đã góp phần quan trọng vào việc cân đối
NSNN.

6


Bài tập lớn học kỳ môn Luật Tài chính – Đề bài số 8

2. Vấn đề chuyển giao nguồn lực thông qua bổ sung cân đối cho
các cấp NSNN
Chính phủ sẽ quyết định chuyển giao nguồn lực thông qua bổ sung
cân đối cho các địa phương khi tỷ lệ điều tiết nhỏ hơn 100%. Như vậy, việc
bổ sung cân đối cho các tỉnh nghèo, đóng góp vào NSTW của các tỉnh giàu
để thực hiện cân đối trong hệ thống NSNN dựa trên đánh giá mức độ chênh
lệch giữa nguồn thu NSĐP và nhu cầu chi NSĐP. Nghĩa là NSTW sẽ cân đối
thay cho NSĐP nếu xảy ra tình trạng thiếu hụt. Theo số liệu thống kê, trong

giai đoạn 1996- 2003, cả nước có trên 60 tỉnh thành, nhưng chỉ có 5 tỉnh,
thành tự cân đối được ngân sách , còn lại trung ương phải cấp bổ sung. Từ
năm 2004 trở đi , cùng với chính sách đẩy mạnh phi tập trung hóa trong
quản lý NSNN, địa phương được mỡ rộng quyền tự chủ hơn. Nhờ vậy số địa
phương tự cân đối được ngân sách tăng lên 15 địa phương. Tuy vậy, trong 49
địa phương không tự cân đối được ngân sách , giai đoạn 2004-2006, trung
bình mỗi năm có tới 27 địa phương nhận bổ sung cân đối từ NSTW với mức
bổ sung > 50% chi trong cân đối của NSĐP. Điều này gây ảnh hưởng rất lớn
đến cân đối NSNN. Cơ chế NSTW cân đối thay cho NSĐP đã làm hạn chế
tính công bằng giữa các cấp ngân sách trong hệ thống NSNN. Vấn đề cân
đối NSNN không được phản ánh đúng thực tế, vì địa phương thường cố tình
đánh giá thấp nguồn lực hơn thực tế để tạo ra sự linh hoạt chính mình trong
phân bổ nguồn lực. Điều này ảnh hưởng nghiêm trọng đến tính kỷ luật tài
khóa tổng thể trong việc quyết định phân bổ nguồn lực và thực hiện các mục
tiêu của chính sách tài khóa. Thực tế cho thấy NSĐP phương chưa thật sự
phát huy được khả năng chủ động đang có của mình, chưa tích cực triệt để
khai thác nguồn thu, chưa kê khai xác thực nguồn lực của địa phương mà
còn trông chờ quá nhiều vào cơ chế bổ sung cân đối ngân sách của nhà
nước. Chính phủ cần có những biện pháp xử lý các vấn đề còn tồn đọng nêu
trên để vấn đề cân đối NSTW được đảm bảo hơn.
3, Bội chi ngân sách nhà nước Việt Nam kể từ khi có luật ngân
sách nhà nước cho đến nay

7


Bài tập lớn học kỳ môn Luật Tài chính – Đề bài số 8

Những năm qua mức bội chi ngân sách có sự thay đổi đáng chú ý.
Giai đoạn từ năm 2001-2007, tình hình thu chi NSNN đã có nhiều chuyển

biến tích cực, thâm hụt NSNN được khống chế ở mức cho phép (không quá
5%). Giai đoạn từ năm 2001- 2008, bội chi NSNN được duy tì ở mức 5%
GDP và thực hiện ở mức 4,9%-5% GDP (bao gồm cả tiền trả nợ gốc và
không bao gồm các khoản chi ngoài dự toán. Tuy nhiên, do tác động của
cuộc khủng hoảng kinh tế, nền kinh tế gặp nhiều khó khăn, NSNN phải chi
nhiều thu ít dẫn đến bội chi NSNN trong năm 2009 và 2010. Bội chi ngân
sách năm 2009 ở mức 6,9% và mức bội chi ngân sách năm 2010 theo báo
cáo của Chính phủ ở mức 6,5% GDP. Đây là vấn đề rất đáng lo ngại để thực
hiện cân đối NSNN, vì mức bội chi hàng năm không có chiều hướng giảm
xuống.
Với kết quả bội chi NSNN như trên, ta thấy chính phủ cũng đã có
nhiều nỗ lực trong việc duy trì và đảm bảo bội chi NSNN ở mức chấp nhận
được thúc đẩy kinh tế tăng trưởng. Trong xử lý bội chi NSNN, các nguyên
tắc cân đối NSNN được tuân thủ nghiêm chỉnh, các biện pháp bù đắp bội chi
theo quy định của luật được vân dụng một cách hiệu quả, Nhà nước đã chấm
dứt hoàn toàn việc phát hành tiền trực tiếp để tài trợ bội chi NSNN, thay vào
đó là tăng cường phát hành trái phiếu chính phủ và tận dụng nguồn vốn vay
nước ngoài dưới hình thức ODA nhằm đảm bảo đủ nguồn lực tài chính để
cân đối NSNN. Có những khoản chi như: chi cho công trình giao thông, thủy
lợi và kiên cố hóa trường học thông qua trái phiếu chính phủ, công trái giáo
dục lại để ngoài cân đối NSNN, vì vậy thực tế con số bội chi NSNN của
nước ta thường lớn hơn 5%. Nếu xác định bội chi theo thông lệ quốc tế thì
kể cả những khoản chi để ngoài ngân sách, bội chi NSNN Việt Nam bình
quân giai đoạn 1997- 2008 đã vượt con số 5%. Qua đó, tính minh bạch trong
cân đối NSNN chưa vân dụng triệt để khi xác định tỷ lệ bội chi NSNN. Bên
cạnh đó, vấn đề bội chi NSNN trong thời gian cũng tồn đọng một số vấn đề
mà chính phủ ta cần phải xem xét, cân nhắc để có những giải pháp tốt hơn
khi xử lý bội chi NSNN trong những năm sắp tới như: số tiền vay đăc biệt là
vay nước ngoài cho đầu tư phát triển chưa được quản lý chặt chẽ, chưa chú
8



Bài tập lớn học kỳ môn Luật Tài chính – Đề bài số 8

trọng đến mối quan hệ giữa chi đầu tư phát triển và chi thường xuyên tạo áp
lực bội chi ngân sách nhà nước (nhất là ngân sách địa phương), NSĐP vẫn
có bội chi những mức bội chi này lại không được tính vào bội chi NSNN…
III. Hoàn thiện cân đối ngân sách nhà nước
1. Tăng cường kiểm soát bội chi NSNN và biện pháp bù đắp bội chi
NSNN đảm bảo vấn đề cân đối NSNN
a. Tăng cường công tác kiểm soát bội chi NSNN
Chính phủ cần nâng cao vai trò, trách nhiệm của mình hơn nữa trong
việc kiểm soát bội chi NSNN. Vì thực tế một trong những nguyên nhân dẫn
đến vấn đề bội chi NSNN ( tức là thu vượt quá chi NSNN) là do sự yếu kém
trong năng lực và trình độ quản lý của bộ máy nhà nước, không phát hiện và
xử lý kịp thời những trường hợp vi phạm nguyên tắc và dự toán NSNN đã
đề ra, nguồn vốn vay bù đắp bội chi chưa sử dụng hiệu quả. Vì vậy trong
thời gian tới, Chính phủ cần tăng cường rà soát, cắt giảm những khoản chi
tiêu NSNN chưa thật cần thiết và kém hiệu quả, từ đó có sự chuyển đổi linh
hoạt trong chi tiêu NSNN để không làm mất cân đối NSNN, không lãng phí
nguồn thu NSNN vào những hoạt động chi không cần thiết, không hiệu quả.
Nhà nước phải kiểm soát chặt chẽ ngay từ khâu vay vốn để bù đắp bội chi và
sử dụng cho đầu tư phát triển, duy trì mức bội chi cho phép hàng năm do
Quốc hội quyết định. Bên cạnh đó, Nhà nước cần tạo điều kiện cho người
dân tham gia giám sát, theo dõi quá trình thực hiện nhiệm vụ ngân sách của
các cấp, các ngành bằng cách Nhà nước phải cung cấp những thông tin chính
xác, đầy đủ và kịp thời cho người dân biết qua các phương tiện truyền thanh,
báo chí. Có sự phối hợp giám sát chặt chẽ này sẽ góp phần thúc đẩy tính
minh bạch và trách nhiệm của người sử dụng và quản lý NSNN.
b. Hoàn thiện biện pháp bù đắp bội chi NSNN đảm bảo cân đối

NSNN
Theo Luật NSNN năm 2002, biện pháp bù đắp bội chi NSNN là vay
nợ (trong và ngoài nước). Đây là biện pháp mang lại hiệu quả cao nhưng
9


Bài tập lớn học kỳ môn Luật Tài chính – Đề bài số 8

không dẫn đến lạm phát và nhà nước có thể huy động các nguồn lực trong và
ngoài nước để đảm bảo cân đối NSNN. Nhằm khắc phục những yếu kém
còn tồn đọng trong thời gian tới cần có một số thay đổi về cách thức vay nợ
và sử dụng nguồn vay này hợp lý hơn để vấn đề xử lý bội chi NSNN được
đảm bảo theo những mục tiêu năm ngân sách đặt ra.
- Về hoạt động vay nợ trong nước: Để phù hợp với cơ chế chỉ bội chi
cho đầu tư phát triển, cần giảm phát hành các loại trái phiếu chính phủ kỳ
hạn 1 năm và 2 năm, thay vào đó là phát hành trái phiếu chính phủ 5 năm;
10 năm; 20 năm. Củng cố và mở rộng thị trường trái phiếu chính phủ và thị
trường trái phiếu chính quyền địa phương theo hướng nâng cao tính thanh
khoản của thị trường, mở cửa thị trường trái phiếu thu hút nhà đầu tư nước
ngoài vào đầu tư trên các lĩnh vực trái phiếu, đồng thời hoàn thiện hệ thống
thuế đánh vào thu nhập từ trái phiếu. Nhờ đó, Chính phủ sẽ linh hoạt hơn
trong việc cân đối nhu cầu vay nợ để bù đắp bội chi.
- Về hoạt động vay nợ nước ngoài: Vay nợ nước ngoài để bù đắp bội
chi NSNN được thể hiện qua các khoản vay ưu đãi. Do vậy để tăng tính chủ
động trong cân đối NSNN, Chính phủ cần làm hài hòa các thủ tục tiếp nhận
các nguồn vốn ODA và tạo điều kiện thuận lợi cho việc thực hiện các
chương trình, dự án ODA giữa Việt Nam và các nhà tài trợ.
Tuy vậy, cơ cấu vay lãi này là phải trả nợ nếu về lâu dài không kiểm
soát tốt được bội chi NSNN sẽ tăng gánh nặng về nợ cho chính phủ. Vì vậy,
hoàn thiện các biện pháp vay nợ để thuận lợi hơn khi chính phủ thực hiện

vay nợ bù đắp bội chi, chứ không khuyến khích tăng bội chi và tăng nhu cầu
vay nợ lên. Nhà nước cần đảm bảo mức vay nợ trong nước chiếm tỷ trong
lớn để giảm sự lệ thuộc vào nước ngoài, khai thác được nội lực. Trong thời
gian sắp tới, cần phải xác định mối tương quan giữa vay nợ trong nước và
vay nợ nước ngoài để đảm bảo bù đắp bội chi NSNN đạt hiệu quả nhất.
Bên cạnh đó, cần phải nghiên cứu và tìm hiểu nguyên dẫn đến bội chi
NSNN để từ đó lựa chọn những giải pháp cho phù hợp. Chính phủ có thể
linh hoạt xử lý bội chi NSNN bằng cách cắt giảm những khoản chi tiêu bất
hợp lý, không hiệu quả và phát triển nguồn thu để giảm bớt thâm hụt NSNN.
10


Bài tập lớn học kỳ môn Luật Tài chính – Đề bài số 8

Tăng cường tính minh bạch và trách nhiệm trong cách quản lý và sử dụng
NSNN, tránh lãng phí và tham nhũng góp làm giảm bội chi NSNN đạt mục
tiêu trong năm ngân sách. Chính phủ cần nghiên cứu thay đổi phương pháp
xác định bội chi NSNN đầy đủ và toàn diện phù hợp với thông lệ quốc tế
phản ánh đúng thực chất của bội chi NSNN.
2. Hoàn thiện phân cấp quản lý NSNN để đảm bảo cân đối trong hệ
thống NSNN
Qua thực trạng phân cấp quản lý NSNN, vấn đề đáng chú ý gây nhiều
bất cập làm ảnh hưởng đến sự cân đối tổng thể trong NSNN đó là: NSTW
thực hiện cân đối thay cho NSĐP khi có thiếu hụt xảy ra ở địa phương. Sau
những ưu điểm, cơ chế này đã tạo cho địa phương quá bị động và không
đảm bảo tính trách nhiệm cũng như minh bạch trong quá trình sử dụng và
quản lý nguồn lực tài chính ở địa phương. Vì vậy trong thời gian tới cần
khắc phục tình trạng NSTW cân đối thay cho NSĐP trên cơ sở tăng tính chủ
động và trách nhiệm của địa phương.
+ Mở rộng phân định nguồn thu và xác định rỏ ràng nhiệm vụ chi của

từng cấp chính quyền phù hợp với chức năng và năng lực của từng cấp chính
quyền địa phương.
Để tăng nguồn lực cho địa phương, nâng cao khả năng chủ động và
tích cực trong khai thác nguồn thu nhằm giúp địa phương linh động hơn
trong xử lý cân đối NSĐP mình giảm bớt sự lệ thuộc vào sự hổ trợ của
NSTW, Chính phủ cần thay đổi và mở rộng cho địa phương một số nguồn
thu gắn liền với kết quả tăng trưởng kinh tế trên địa bàn đó, theo hướng
chuyển dần một số khoản thu điều tiết giữa trung ương và địa phương sang
khoản thu địa phương được hưởng 100%, để kích thích địa phương nuôi
dưỡng và khai thác tốt nguồn thu ở địa phương mình. Như đối với Thuế thu
nhập cá nhân là khoản thu điều tiết giữa trung ương và địa phương, với mục
đích nhà nước có thể thực hiện vai trò điều tiết thu nhập tạo công bằng cho
xã hội, có thể chuyển sang nguồn thu 100% cho NSĐP, vì đây là nguồn thu
phát sinh chủ yếu ở địa phương nếu địa phương được giữ lại hoàn toàn thì sẽ
11


Bài tập lớn học kỳ môn Luật Tài chính – Đề bài số 8

thúc đẩy địa phương quan tâm hơn, quản lý chặt chẽ nguồn thu này hơn và
trong tương lai nguồn thu này sẽ mang lại hiệu quả cao hơn. Trong thực tế
nguồn thu này chưa đạt hiệu quả cao, vì tình trạng trốn thuế vẫn còn xảy ra,
kê khai thuế không đúng sự thật, gần đây với hiệu lực của Luật thuế thu
nhập cá nhân mới vào năm 2009 vấn đề này sẽ được xử lý triệt để hơn.
+ Hoàn thiện cơ chế bổ sung cân đối NSNN nhằm khắc phục vấn đề
NSĐP còn quá lệ thuộc vào sự hỗ trợ của NSTW, mà không linh động tận
dụng khả năng vốn có của địa phương
Nhà nước chỉ nên xem bổ sung cân đối NSNN là giải pháp cuối cùng
khi địa phương đã nỗ lực hết mình trong khai thác nguồn thu, nhiệm vụ chi
và nhu cầu chi là cần thiết không thể cắt giảm và tiết kiệm hơn nữa, mà địa

phương không thể tự cân đối được. Có như vậy, mỗi địa phương mới phát
huy tính chủ động và sáng tạo của mình trong khai thác và sử dụng nguồn
lực của địa phương. Chính quyền địa phương sẽ không còn tư tưởng trông
chờ, ỷ lại vào sự hỗ trợ của ngân sách cấp trên nữa, thay vào đó sẽ tích cực
hơn trong công tác giải quyết thiếu hụt NSĐP, giảm bớt gánh nặng cho
NSNN. Bên cạnh đó, cần nâng cao trách nhiệm và tính minh bạch của mỗi
địa phương trong việc kê khai và dự toán khả năng thu chi của địa phương
một cách chính xác, để chính phủ có những giải pháp hợp lý bổ sung cân đối
ngân sách cho mỗi địa phương. Để hoàn thiện cơ chế bổ sung cân đối NSNN
ngày càng đạt hiệu quả hơn, Nhà nước ta cần quán triệt theo tinh thần không
bổ sung cân đối toàn bộ những thiếu hụt của NSĐP, mà để lại một phần cho
địa phương tự bù đắp để tăng cường tính trách nhiệm và khả năng chủ động
cho địa phương. Việc xác định tỷ lệ bổ sung cân đối cho mỗi địa phương là
khác nhau, có thể dựa vào điều kiện và tiềm lực kinh tế - xã hội của từng
vùng mà điều chỉnh cho hợp lý. Hiện nay chính quyền địa phương có nhiều
quyền tự chủ hơn trong việc huy động cũng như sử dụng nguồn lực tài
chính, vì vậy việc để lại khoảng 10% - 20% phần thiếu hụt cho NSĐP tự bù
đắp là có tính khả thi cao, địa phương có thể thực hiện được bằng cách nuôi
dưỡng, khai thác tốt nguồn thu, giảm những chi tiêu không hợp lý hoặc đi
vay nợ theo luật định. Trong cơ chế bổ sung này, cần ưu tiên cho những địa
12


Bài tập lớn học kỳ môn Luật Tài chính – Đề bài số 8

phương có điều kiện kinh tế- xã hội khó khăn, yếu kém và thực hiện bổ sung
có mục tiêu nhằm hỗ trợ địa phương phát huy được các thế mạnh và khắc
phục được những yếu kém.
C. KẾT LUẬN
Tóm lại, Cân đối ngân sách nhà nước là vấn đề cần thiết phải được

đảm bảo thực hiện của quốc gia, vì nó tác động rất lớn đến sự phát triển, bền
vững đối với kinh tế xã hội của quốc gia đó.Do vậy để thực hiện tốt quá
trình cân đối ngân sách nhà nước, phải dựa trên các nguyên tắc cân đối ngân
sách nhà nước để đảm bảo cân đối đạt hiệu quả, phải xác định được nội dung
chính trong cân đối ngân sách nhà nước chính là sự cân đối về các khoản thu
và các khoản chi trong cơ cấu ngân sách nhà nước. Từ đó có những hoạch
định rỏ ràng về các vấn đề thu chi ngân sách nhà nước trong năm tài khóa
nhằm đạt được các mục tiêu kinh tế xã hội đã đề ra trong năm đó. Bên cạnh
đó, Nhà nước cần có sự phân cấp về quyền hạn, nhiệm vụ và lợi ích giữa các
cấp ngân sách với nhau để tạo sự công bằng và thúc đẩy mỗi cấp ngân sách
phát huy được ưu thế của mình góp phần vào việc cân đối ngân sách ở cấp
mình quản lý và ngân sách nhà nước nói chung. Đồng thời nhà nước cũng
phải tăng cường hoạt động giảm sát của mình đối với ngân sách nhà nước, từ
đó đưa ra những biện pháp xử lý bội chi ngân sách nhà nước phù hợp với
tình hình kinh tế - xã hội của đất nước góp phần thực hiện cân đối ngân sách
nhà nước.

13


Bài tập lớn học kỳ môn Luật Tài chính – Đề bài số 8

Danh mục tài liệu tham khảo






14




×