Tải bản đầy đủ (.doc) (12 trang)

Một số vấn đề lý luận và quy định của pháp luật về nam nữ chung sống như vợ chồng nhưng không đăng kí kết hôn môn luật hôn nhân gia đình

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (95.42 KB, 12 trang )

Bài tập học kỳ - Luật Hôn nhân và Gia đình Việt Nam

MỤC LỤC:
Trang
MỤC LỤC...............................................................................................

1

LỜI MỞ ĐẦU……………………………………………….............

2

NỘI DUNG...............................……………………………………...

2

I. Một số vấn đề lý luận và quy định của pháp luật về vấn đề nam nữ

2

chung sống như vợ chồng mà không đăng kí kết hôn..............................

2

1. Khái niệm, đặc điểm, bản chất...............................…………...............
2. Quy định của pháp luật về vấn đề nam nữ chung sống như vợ chồng
nhưng không đăng kí kết hôn ...................................................................

2
3


II. Quan điểm cá nhân về tình trạng nam nữ chung sống như vợ chồng mà
không đăng kí kết hôn.........................................................................

5

1. Đánh giá tình trạng nam nữ chung sống như vợ chồng mà không đăng

6

kí kết hôn...........................................................................................
2. Quan điểm cá nhân về vấn đề nam nữ chung sống như vợ chồng mà
không đăng kí kết hôn...............................................................................

7

3. Một số giải pháp hạn chế tình trạng nam nữ chung sống như vợ chồng
mà không đăng kí kết hôn...............................................................

10

KẾT LUẬN…………………………………………………………..

11

DANH MỤC GIÁO TRÌNH VÀ TÀI LIỆU THAM KHẢO……...

12

LỜI MỞ ĐẦU:
1


– Lớp N04


Bài tập học kỳ - Luật Hôn nhân và Gia đình Việt Nam

Với vị trí là một thiết chế của xã hội, hôn nhân có vai trò là cơ sở tạo lập nên gia
đình – tế bào của xã hội. Tuy nhiên, trên thực tế có rất nhiều cặp nam – nữ sống
chung mà không xác lập nên quan hệ hôn nhân gia đình hợp pháp. Tình trạng nam
nữ chung sống như vợ chồng không đăng kí kết hôn là một hiện tượng đã, đang
tồn tại và ngày càng phổ biến trong xã hội. Vậy pháp luật quy định như thế nào về
vấn đề này? Thực trạng, nguyên nhân, một số giải pháp và quan điểm của cá nhân
về tình trạng này chính là nội dung mà bài viết đề cập.
Trong phạm vi kiến thức có hạn, bài viết còn có nhiều thiếu sót, em mong nhận
được sự đóng góp ý kiến và chỉ bảo của thầy cô, để hoàn thiện thêm kiến thức của
mình. Em xin chân thành cảm ơn!
NỘI DUNG:
I. Một số vấn đề lý luận và quy định của pháp luật về nam nữ chung sống như
vợ chồng nhưng không đăng kí kết hôn:
1. Khái niệm, đặc điểm, bản chất:
a, Khái niệm: Theo quy định tại điểm d, Khoản 2 của Thông tư liên tịch số
01/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BTP ngày 3/1/2001 (hướng dẫn thi hành Nghị
quyết số 35 của Quốc hội) thì việc sống chung như vợ chồng thuộc một trong các
trường hợp sau: 1. Có tổ chức lễ cưới khi về chung sống với nhau. 2.Việc người
nam và nữ về chung sống với nhau được gia đình một hoặc cả hai bên chấp nhận.
3. Việc chung sống với nhau được người khác hay tổ chức chứng kiến. 4. Người
nam và nữ chung sống với nhau, chăm sóc, giúp đỡ lẫn nhau, xây dựng gia đình.
Dưới góc độ pháp lý thì "nam nữ chung sống như vợ chồng" là trường hợp nam
nữ có đủ điều kiện đăng kí kết hôn theo quy định của pháp luật nhưng không đăng
kí kết hôn. Về nguyên tắc, pháp luật không công nhận trường hợp này là vợ chồng.

b, Đặc điểm: - Nam nữ có đủ điều kiện kết hôn (Điều 9 Luật HN&GĐ năm 2000)
nhưng chung sống như vợ chồng mà không đăng kí kết hôn. Hành vi chung sống
như vợ chồng của hai bên hình thành không vi phạm pháp luật nhưng giữa họ
không có Giấy chứng nhận kết hôn do cơ quan đăng kí kết hôn cấp. Nghĩa là giữa
họ trong quan hệ hôn nhân không có ràng buộc cũng như chứng cứ về mặt pháp lý
để khẳng định họ là vợ chồng. So với hôn nhân có đăng kí đây là khác biệt cơ bản.
2

– Lớp N04


Bài tập học kỳ - Luật Hôn nhân và Gia đình Việt Nam

- Trong thời gian chung sống như vợ chồng hai người thực sự coi nhau là vợ
chồng: Trong thực tế họ đã và đang chung sống, thực sự coi nhau là vợ chồng và
thực hiện đầy đủ các quyền và nghĩa vụ vợ chồng với nhau, với gia đình và xã hội.
- Khi bắt đầu chung sống, hai người muốn chung sống lâu dài và ổn định. Đặc
điểm này phân biệt với hôn nhân "thử nghiệm" hay "sống thử". Trong trường hợp
nam nữ chung sống như vợ chồng, cả hai bên đều mong muốn xây dựng một gia
đình hạnh phúc, nên ngay từ khi bắt đàu chung sống đã có ý định gắn bó lâu dài.
c, Bản chất: Về bản chất, hiện tượng nam nữ chung sống như vợ chồng chỉ quan
hệ vợ chồng mà quan hệ đó không được xác lập theo thủ tục và trình tự pháp lý
nhưng lại đã và đang tồn tại trên thực tế, hai bên chung sống như vợ chồng với
nhau, thực sự coi nhau là vợ chồng và thực hiện đầy đủ các quyền và nghĩa vụ của
vợ chồng với nhau, với gia đình và xã hội. Vì vậy, trường hợp nam nữ chung sống
như vợ chồng và hôn nhân có đăng kí về bản chất là như nhau.
2. Quy định của pháp luật hiện hành về vấn đề nam nữ chung như vợ chồng
nhưng không đăng kí kết hôn:
"Kết hôn là việc nam nữ xác lập quan hệ vợ chồng theo quy định của pháp luật
về điều kiện kết hôn và đăng kí kết hôn".

Theo khoản 1, Điều 11 Luật HN&GĐ: “Việc kết hôn phải được đăng ký và do cơ
quan nhà nước có thẩm quyền (sau đây gọi là cơ quan đăng ký kết hôn) thực hiện
theo nghi thức quy định tại Điều 14 của Luật này. Mọi nghi thức kết hôn không
theo quy định tại Điều 14 của Luật này đều không có giá trị pháp lý. Nam, nữ
không đăng ký kết hôn mà chung sống với nhau như vợ chồng thì không được
pháp luật công nhận là vợ chồng. Vợ chồng đã ly hôn muốn kết hôn lại với nhau
cũng phải đăng ký kết hôn”. Điều 14, Luật Hôn nhân và Gia đình quy định về tổ
chức đăng ký kết hôn như sau: “Khi tổ chức đăng ký kết hôn phải có mặt hai bên
nam, nữ kết hôn. Đại diện cơ quan đăng ký kết hôn yêu cầu hai bên cho biết ý
muốn tự nguyện kết hôn, nếu hai bên đồng ý kết hôn thì đại diện cơ quan đăng ký
kết hôn trao Giấy chứng nhận kết hôn cho hai bên”. Kể từ ngày Luật HN&GĐ
năm 2000 có hiệu lực pháp luật (ngày 01/01/2001), Nhà nước ta chỉ thừa nhận
nam nữ là vợ chồng khi họ đã được cơ quan đăng kí kết hôn cấp giấy chứng nhận
3

– Lớp N04


Bài tập học kỳ - Luật Hôn nhân và Gia đình Việt Nam

kết hôn.
- Tại khoản 3 Nghị quyết 35/2000/QH10 ngày 9/6/2000 của Quốc hội hướng dẫn
về việc thi hành Luật HN&GĐ năm 2000 quy định về việc áp dụng quy định tại
khoản 1 Điều 11 của luật này được thực hiện như sau:
a) Trong trường hợp quan hệ vợ chồng được xác lập trước ngày 3/1/1987, ngày
Luật hôn nhân và gia đình năm 1986 có hiệu lực mà chưa đăng ký kết hôn thì được
khuyến khích đăng ký kết hôn; trong trường hợp có yêu cầu ly hôn thì được Tòa án
thụ lý giải quyết theo quy định về ly hôn của Luật hôn nhân và gia đình năm 2000.
b) Nam và nữ chung sống với nhau như vợ chồng từ ngày 3/1/1987 đến ngày
1/1/2001, mà có đủ điều kiện kết hôn theo quy định của Luật này thì có nghĩa vụ

đăng ký kết hôn trong thời hạn hai năm, kể từ ngày Luật này có hiệu lực cho đến
ngày 1/1/2003; trong thời hạn này mà họ không đăng ký kết hôn, nhưng có yêu
cầu ly hôn thì Tòa án áp dụng các quy định về ly hôn của Luật hôn nhân và gia
đình năm 2000 để giải quyết. Từ sau ngày 1/1/2003 mà họ không đăng ký kết hôn
thì pháp luật không công nhận họ là vợ chồng.
c) Kể từ ngày 1/1/2001 trở đi, trừ trường hợp quy định tại điểm a và điểm b khoản
3 của Nghị quyết này, nam và nữ chung sống với nhau như vợ chồng mà không
đăng ký kết hôn, đều không được pháp luật chấp nhận là vợ chồng…”.
Điều 2, Nghị định số 77/2001/NĐ-CP, ngày 22/10/2001 quy định chi tiết về đăng
ký kết hôn theo Nghị quyết số 35/2000/QH10 của cũng quy định chi tiết về vấn đề
này. Ngoài ra, ngày 14/7/2003, Bộ Tư pháp còn ban hành Chỉ thị số 02/2003/CTBTP về việc tiếp tục đăng ký kết hôn cho các trường hợp nam và nữ chung sống
với nhau như vợ chồng từ ngày 3/1/1987 đến ngày 1/1/2001. Như vậy:
- Nếu nam nữ chung sống với nhau như vợ chồng trước ngày 3/1/1987 thì vẫn
được coi là vợ chồng (hôn nhân thực tế). Khi tiến hành khai lý lịch bản thân sẽ
phải khai họ tên vợ hoặc tên chồng.
- Nếu nam nữ chung sống với nhau như vợ chồng kể cả có tổ chức đám cưới
nhưng chưa đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật nêu trên thì đều không
được pháp luật chấp nhận là vợ chồng. Do đó khi khai lý lịch bản thân sẽ không
phải khai họ tên vợ hoặc chồng.
4

– Lớp N04


Bài tập học kỳ - Luật Hôn nhân và Gia đình Việt Nam

- Mục 3 Thông tư liên tịch số 01/2001/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BTP của Tòa
án Nhân dân tối cao, Viện kiểm sát Nhân dân tối cao, Bộ Tư pháp, ngày
03/01/2001, hướng dẫn thi hành Nghị quyết 35/2000/QH10, ngày 09/06/2000 của
Quốc hội “về việc thi hành Luật HN&GĐ quy định cụ thể về trường hợp chung

sống như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn" muốn chia tay như sau:
Đối với trường hợp nam và nữ bắt đầu chung sống với nhau như vợ chồng từ
ngày 01/01/2001 trở đi mà không đăng ký kết hôn, thì theo quy định tại khoản 1
Điều 11 Luật HN&GĐ, họ không được pháp luật công nhận là vợ chồng; nếu một
trong các bên hoặc cả hai bên có yêu cầu ly hôn, thì Toà án thụ lý vụ án để giải
quyết và tuyên bố không công nhận họ là vợ chồng. Vấn đề nuôi con và chia tài
sản chung trong trường hợp hai bên nam nữ sống chung không có đăng ký kết hôn,
nay xin ly hôn áp dụng tương tự như trường hợp vợ chồng ly hôn (khoản 2, khoản
3 Điều 17 Luật HN&GĐ năm 2000). Như vậy:
+Về con chung: Do quan hệ cha mẹ-con cái không chịu ảnh hưởng bởi tình trạng
hôn nhân của cha mẹ nên quyền lợi của con vẫn được đảm bảo. Việc trông nom,
chăm sóc, giáo dục, nuôi dưỡng con áp dụng theo Điều 92 Luật Hôn nhân & Gia
đình năm 2000.
+Về tài sản: Không được coi là tài sản chung hợp nhất của vợ chồng mà là tài sản
chung theo phần. Vấn đề chia tài sản được giải quyết theo nguyên tắc: Tài sản
riêng của ai thì vẫn thuộc quyền sở hữu của người đó; tài sản chung được chia theo
thoả thuận của các bên; nếu không thoả thuận được thì yêu cầu Toà án giải quyết,
có tính đến công sức đóng góp của mỗi bên; ưu tiên bảo vệ quyền lợi chính đáng
của phụ nữ và con (khoản 3, Điều 17 Luật HN&GĐ).
+Về cấp dưỡng: cấp dưỡng là loại quan hệ nhân thân gắn với tài sản giữa các
thành viên trong gia đình trên cơ sở hôn nhân, huyết thống và nuôi dưỡng. Vì
không được pháp luật công nhận là vợ chồng nên khi có mâu thuẫn không chung
sống với nhau được nữa thì giữa họ cũng không phát sinh quan hệ cấp dưỡng.
II. Quan điểm cá nhân về tình trạng nam nữ chung sống như vợ
chồng mà không đăng kí kết hôn:

5

– Lớp N04



Bài tập học kỳ - Luật Hôn nhân và Gia đình Việt Nam

1. Đánh giá về tình trạng nam nữ chung sống như vợ chồng mà không đăng kí
kết hôn:
Hiện nay, tình trạng nam nữ chung sống như vợ chồng không đăng kí kết hôn
diễn ra ở nước ta ngày càng phổ biến và có xu hướng phát triển phức tạp về cả số
lượng cũng như tính chất.
Một cuộc khảo sát ở thành phố Hồ Chí Minh cho thấy có 12.712 đôi bạn trẻ
chung sống trước, kết hôn sau và 10.148 đôi chung sống không kết hôn. Những
cuộc hôn nhân này phần nhiều là do phong tục tập quán lạc hậu, do thiếu sự hiểu
biết và tuân thủ pháp luật. Theo thống kê chưa đầy đủ, tính đến hết ngày
31/12/2002, tại 56/61 tỉnh thành ở nước ta có 929.319 cặp vợ chồng có quan hệ
hôn nhân không đăng kí kết hôn đã được rà soát và lập danh sách. Về nguyên nhân
của việc không đăng kí kết hôn, 40,6% số người trả lời là "thấy không cần thiết"
và 31,2% "không biết có quy định đó" (theo Ủy ban Dân số, gia đình và trẻ em
Việt Nam, 2002). Theo thống kê của Sở Tư pháp Sơn La, 80% các cặp vợ chồng
người dân tộc không đăng ký kết hôn, những đứa trẻ sinh ra không có giấy khai
sinh rất phổ biến ở tỉnh miền núi này. Cũng theo số liệu thống kê của Chi cục Dân
số - Kế hoạch hóa gia đình tỉnh Ðắc Lắc, số kết hôn không đăng ký và vẫn còn ở
mức cao (năm 2007, toàn tỉnh có 847 cặp kết hôn không đăng kí, năm 2008 số cặp
kết hôn không đăng ký là 817)....
Theo quy định của pháp luật thì nam nữ muốn trở thành vợ chồng phải đăng kí
kết hôn tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Trên thực tế, xuất phát từ nhiều
nguyên nhân như: đất nước trải qua chiến tranh một thời gian dài nên nhiều trường
hợp không có điều kiện đi đăng kí kết hôn; do phong tục tập quán, hay do sự thiếu
hiểu biết pháp luật,...mà để bảo vệ quyền lợi của các bên và các con Nhà nước ta
đã công nhận việc nam nữ chung sống như vợ chồng không có đăng kí kết hôn là
"hôn nhân thực tế". Tuy nhiên, để bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa, Nhà nước ta
chỉ công nhận quan hệ vợ chồng xác lập trước ngày Luật Hôn nhân và gia đình

năm 1986 có hiệu lực (3/1/1987) là hôn nhân thực tế. Có thể nói, hiện tượng nam
nữ chung sống như vợ chồng mà không đăng kí kết hôn diễn ra ngày càng phức
tạp, nó là thực trạng đáng báo động hiện nay.

6

– Lớp N04


Bài tập học kỳ - Luật Hôn nhân và Gia đình Việt Nam

2. Quan điểm của cá nhân về vấn đề nam nữ chung sống như vợ chồng mà
không đăng kí kết hôn:
Thứ nhất, có rất nhiều vấn đề có thể nảy sinh trong các cặp chung sống như vợ
chồng mà không đăng kí kết hôn. Trên thực tế, việc "kết hôn" không đăng kí sẽ
làm nảy sinh nhiều vấn đề phức tạp, pháp luật vẫn chưa thực sự là cơ sở pháp lý
đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của các bên, đặc biệt là quyền lợi của phụ nữ
và trẻ em. Những vấn đề có thể phát sinh, đó là:
- Sau một thời gian chung sống, một trong hai bên kết hôn với người khác, hoặc có
mối quan hệ, chung sống như vợ chồng với người khác.
- Trong quá trình chung sống như vợ chồng nếu bạo lực gia đình xảy ra, vấn đề
bảo vệ quyền lợi của các chủ thể sẽ được thực hiện như thế nào?
- Khi đã có con chung, tài sản chung, giữa họ phát sinh mâu thuẫn và yêu cầu
chấm dứt quan hệ. Khi đó, quyền và lợi ích của các bên sẽ giải quyết ra sao?...
Trong những cuộc "hôn nhân" không có đăng kí kết hôn cuộc sống vợ chồng diễn
ra bình thường như bao người khác chỉ có điều cuộc hôn nhân ấy không có sự
ràng buộc của pháp luật. Tuy nhiên, không phải cuộc hôn nhân không có giá thú
nào cũng êm đẹp hoàn toàn. Đối với quan hệ hôn nhân khi không được chứng
minh bằng giấy chứng nhận đăng kí kết hôn sẽ dẫn đến hệ lụy không nhỏ về quyền
lợi của các bên và con cái. Khi phát sinh mâu thuẫn, họ quyết định chia tay và đến

lúc này thì người chịu thiệt thòi nhất là phụ nữ. Có người tay trắng ra đi trong khi
đã đổ bao công sức, hi sinh hết tuổi trẻ, sức lực cho chồng con. Thế nhưng chỉ vì
không có đăng ký kết hôn nên dù cố gắng kiện ra đến tận luật pháp họ cũng bị
thua. Bởi rất dễ hiểu, cuộc hôn nhân cũng như thân phận của họ nằm ngoài vòng
luật pháp vì thế họ không được luật pháp bênh vực và bảo vệ.
Thứ hai, trong giải quyết ly hôn trường hợp nam nữ chung sống như vợ chồng
cũng có một số vướng mắc. Một vấn đề phát sinh là nếu các bên có sự mâu thuẫn
và yêu cầu ly hôn, khi chia tài sản, theo nguyên tắc: tài sản riêng của ai thì vẫn
thuộc quyền sở hữu của người đó; tài sản chung được chia theo thỏa thuận của các
bên; nếu không thỏa thuận được thì yêu cầu Tòa án giải quyết, có tính đến công
sức đóng góp của mỗi bên trong quá trình chung sống. Nhưng việc xác định bên
7

– Lớp N04


Bài tập học kỳ - Luật Hôn nhân và Gia đình Việt Nam

nào bỏ công sức và đóng góp nhiều hơn là không đơn giản. Sẽ rất khó khăn để
chứng minh, tập hợp chứng cứ, giấy tờ, hóa đơn,...vì lúc còn hạnh phúc mấy ai ghi
chép cụ thể. Không chỉ có vậy, những đứa trẻ sinh ra khi cha mẹ sống chung mà
không đăng kí kết hôn, thì khai sinh sẽ mang họ mẹ, không được ghi tên cha trong
giấy khai sinh, hoặc khi chưa sinh ra thì cha đã chết, nên nhiều quyền lợi không
được đảm bảo. Câu chuyện dưới đây là ví dụ điển hình: "...Chị N.T.T - vợ của
nguời bị hại trong một vụ án giết người - không cam lòng với bản án mà toà sơ
thẩm tuyên nên đã kháng cáo lên tòa phúc thẩm yêu cầu tăng hình phạt đối với các
bị cáo, đồng thời yêu cầu tiền tổn thất tinh thần và tiền cấp duỡng nuôi con. Theo
lời khai tại toà, chị N.T.T va anh B.H.L gặp nhau, cùng cảnh nghèo, thất học va xa
quê hương đã lâu, cả hai chung sống, không nghĩ đến chuyện phải đăng ký kết
hôn. Nhưng hạnh phúc thật ngắn ngủi, anh L. vô cớ bị đâm chết truớc khi chị T.

sinh bé B.H.P 3 tháng. Chị T. được mời tham dự phiên toà vì là người lo toàn bộ
mai táng phí nhưng chị không đủ tư cách đại diện hợp pháp cho người bị hại cũng
như gia đình người bị hại. Trước tòa, chị T. không xuất trình được giấy đăng ký kết
hôn cũng không có giấy ủy quyền của những nguời có quan hệ huyết thống với
anh L. Tờ giấy khai sinh của cháu B.H.P dù có ghi tên cha la B.H.L vẫn không
đuợc xem là hợp pháp vì cha mẹ không có hôn thú, giấy khai sinh ghi tên cha phải
được cha công nhận nhưng anh L. mất truớc khi cháu P. chào đời. Tòa Phúc thẩm
không chấp nhận kháng cáo, dành cho chị T. quyền khởi kiện dân sự đòi bồi
thường tổn thất tinh thần, trợ cấp nuôi con khi có đủ căn cứ chứng minh chị là vợ
anh L., cháu P. là con của anh L. Vấn đề là làm sao để chứng minh khi hai người
không đăng kí kết hôn?...."
Thứ ba, các quy định của pháp luật và thực tiễn áp dụng pháp luật về vấn đề nam
nữ chung sống như vợ chồng còn nhiều khó khăn, vướng mắc.
- Có thể thấy văn bản luật, dưới luật đều quy định khá rõ ràng về trường hợp nam,
nữ sống chung với nhau như vợ chồng nhưng không có đăng ký kết hôn. Thế
nhưng thực tế lại phát sinh nhiều bất cập. Đó là tình trạng độc thân - để có cơ sở
xác định một người nào đó còn độc thân, cơ quan có thẩm quyền căn cứ vào tình
trạng hôn nhân, tức chưa đăng ký kết hôn hoặc có đăng ký kết hôn nhưng đã ly
hôn thì đủ cơ sở pháp lý xác nhận còn độc thân. Vấn đề đặt ra là nam, nữ chung
8

– Lớp N04


Bài tập học kỳ - Luật Hôn nhân và Gia đình Việt Nam

sống như vợ chồng nhưng không có đăng ký kết hôn thì xác định tình trạng hôn
nhân như thế nào? Nếu căn cứ theo quy định thì họ không được pháp luật công
nhận là vợ chồng. Căn cứ vào tình trạng hôn nhân thì họ không có đăng ký kết
hôn. Nhưng họ có phải là độc thân hay không thì luật không quy định rõ. Từ đó, cơ

quan thẩm quyền thụ lý thủ tục hành chính tỏ ra lúng túng, không biết phải giải
quyết trường hợp này như thế nào mà chỉ biết hướng dẫn khởi kiện ra Toà án.
- Một vấn đề nữa đó là: Theo Tòa Dân sự TAND Tối cao, hiện nhiều thẩm phán
đang có cách hiểu khác nhau khi vận dụng Điều 3 Nghị quyết 35 năm 2000 của
Quốc hội. Một ví dụ tiêu biểu đã được đưa ra: "Ông A chung sống với bà B nhiều
năm, đã có con chung và tài sản chung. Đến năm 1970, ông A lấy thêm vợ lẽ là bà
C (có tổ chức cưới hỏi), sau đó sống với bà C. Năm 2002, ông A xin ly hôn bà C".
Vậy quan hệ giữa ông và bà C có phải là hôn nhân thực tế hay không ? Các thẩm
phán lý giải: Theo Điều 3 Nghị quyết 35, hai bên nam nữ chung sống với nhau như
vợ chồng trước ngày 3-1-1987 nhưng không đăng ký kết hôn thì được tòa công
nhận là vợ chồng khi ly hôn. Vì luật không quy định nên các thẩm phán cho rằng
chỉ cần điều kiện duy nhất là hai bên chung sống với nhau như vợ chồng trước
ngày 3-1-1987 thì công nhận họ là vợ chồng mà không cần điều kiện gì khác.
Ngược lại, nhiều thẩm phán khác không đồng tình với cách hiểu trên. Theo họ, ông
A và bà C sẽ không được công nhận là vợ chồng dù hai bên có tổ chức cưới hỏi
đàng hoàng, có sống chung từ năm 1970 bởi ông A đang có vợ là bà B, Điều 3
Nghị quyết 35 chỉ châm chước cho các trường hợp sống chung với nhau như vợ
chồng trước ngày 3-1-1987 mà vi phạm điều kiện về hình thức là chưa đăng ký kết
hôn; còn về nội dung phải thì tuân thủ đầy đủ điều kiện kết hôn theo Luật HN&GĐ
(Trừ những trường hợp cán bộ miền Nam tập kết ra Bắc trước giải phóng lấy tiếp
vợ hai, đã có thông tư hướng dẫn riêng). Tòa Dân sự TAND Tối cao đồng ý với
quan điểm này, theo Tòa Dân sự, thẩm phán hiểu khái niệm không quy định điều
kiện kết hôn đồng nghĩa với khái niệm không cần đủ điều kiện kết hôn là máy móc
và không chính xác. Đánh đồng hai khái niệm trên sẽ dẫn đến chuyện áp dụng
pháp luật thiếu thống nhất.
Thứ tư, việc kết hôn và đăng kí kết hôn tại cơ quan đăng kí kết hôn có ý nghĩa rất
quan trọng. Đây là biện pháp để Nhà nước kiểm soát việc tuân theo pháp luật của
9

– Lớp N04



Bài tập học kỳ - Luật Hôn nhân và Gia đình Việt Nam

nam nữ trong việc kết hôn. Đăng kí kết hôn còn là biện pháp bảo đảm quyền lợi
hợp pháp cho đôi bên nam nữ. Giấy chứng nhận kết hôn là chứng cứ viết xác nhận
giữa hai bên nam nữ đã phát sinh và tồn tại quan hệ vợ chồng, quan hệ này được
Nhà nước bảo hộ. Việc đăng kí kết hôn phải được đăng kí tại cơ quan đăng kí kết
hôn thì mới có giá trị pháp lý, hai bên nam nữ mới phát sinh quyền và nghĩa vụ vợ
chồng với nhau.
3. Một số giải pháp hạn chế tình trạng nam nữ chung sống như vợ chồng mà
không đăng kí kết hôn:
Hiện tượng nam nữ chung sống như vợ chồng mà không đăng kí kết hôn đang
diễn ra ngày càng phổ biến, nó không chỉ ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp
pháp của các bên mà còn đe dọa sự ổn định và những giá trị truyền thống của gia
đình Việt Nam.Vì vậy hạn chế tình trạng nam nữ chung sống như vợ chồng mà
không đăng kí kết hôn cũng như hoàn thiện quy định của pháp luật về kết hôn,
đăng kí kết hôn và vấn đề này là một đòi hỏi tất yếu.
- Trước hết, các đôi nam nữ đang có ý định cũng như đang có cuộc sống chung
như vợ chồng mà chưa đăng ký kết hôn nên suy nghĩ kỹ càng, nhận thức tốt hơn
trong việc kết hôn và đăng ký kết hôn bởi việc “đăng ký kết hôn” theo quy định
của pháp luật mới làm phát sinh quyền và nghĩa vụ của các bên. Trong cuộc sống
không ai có thể dự liệu được hết các tình huống có thể xảy ra trong tương lai, vì
vậy, để đảm bảo quyền lợi, tránh thiệt thòi khi có tranh chấp phát sinh về sau thì
việc đăng ký kết hôn sẽ là một trong những việc làm cần thiết. Bài học lớn nhất là
cho mỗi người; đặc biệt đối với phụ nữ khi bước vào cuộc sống hôn nhân là phải
đăng ký kết hôn đúng theo quy định của pháp luật. Bởi đó chính là chứng cứ pháp
lý cần thiết bảo vệ quyền lợi thiết thực của họ trong cuộc sống hôn nhân.
- Thứ hai, pháp luật cần quy định rõ hơn về vấn đề xác định tình trạng hôn nhân
trong trường hợp nam nữ chung sống như vợ chồng không đăng kí kết hôn. Văn

bản pháp luật điều chỉnh vấn đề này còn thiếu, chưa có hướng dẫn cụ thể, nên gây
khó khăn trong giải quyết nhiều trường hợp. Bên cạnh đó, cần có thêm những quy
định để đảm bảo quyền và lợi ích của nam, nữ và con chung của họ khi ly hôn, quy
định các chế tài xử phạt khi có hành vi bạo lực xảy ra trong quá trình chung
sống,...Các cơ quan có thẩm quyền cần hướng dẫn rõ để các quy định của pháp
10

– Lớp N04


Bài tập học kỳ - Luật Hôn nhân và Gia đình Việt Nam

luật được áp dụng đúng đắn và hợp lý, hiệu quả, như áp dụng Luật HN&GĐ, các
nghị quyết, Nghị định, Thông tư,...để không chỉ tạo thuận lợi cho người dân mà
còn làm cơ sở cho cơ quan giải quyết thủ tục hành chính, giảm phiền hà không cần
thiết cho người dân. Bên cạnh đó, cũng cần có thêm những quy định khuyến khích
nam nữ có đủ các điều kiện kết hôn đăng kí kết hôn, hạn chế chung sống như vợ
chồng mà không đăng kí.
- Thứ ba, cần chú trọng công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật và ý
thức pháp luật cho tất cả mọi người trong xã hội, nhất là ở các vùng nông thôn,
miền núi, vùng đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống nhiều....Để mỗi người có nhận
thức đúng đắn và đầy đủ về hôn nhân, gia đình, về kết hôn và đăng kí kết hôn, về
những hậu quả pháp lý khi nam nữ chung sống mà không có những ràng buộc về
mặt luật pháp. Bên cạnh đó, cũng cần có những biện pháp dần loại bỏ những
phong tục, tập quán lạc hậu về kết hôn và đăng kí kết hôn. Nâng cao nhận thức và
ý thức pháp luật mỗi cá nhân sẽ có tác động không nhỏ, làm hạn chế phần nào tình
trạng nam nữ chung sống như vợ chồng không có đăng kí kết hôn. Nó không chỉ là
việc của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền mà là của toàn xã hội.
KẾT LUẬN:
Gia đình là nền tảng của xã hội. "Gia đình tốt thì xã hội mới tốt, xã hội tốt thì gia

đình càng tốt". Nhà nước ta "bảo hộ hôn nhân và gia đình", nhưng hôn nhân chỉ
được nhà nước thừa nhận khi việc xác lập quan hệ hôn nhân tuân thủ các quy định
của pháp luật về điều kiện kết hôn và đăng kí kết hôn. Tuân thủ pháp luật và chấp
hành đầy đủ các quy định của pháp luật về kết hôn và đăng kí kết hôn sẽ góp phần
đảm bảo tính pháp chế, truyền thống và tiến tới xây dựng chế độ hôn nhân gia đình
mới xã hội chủ nghĩa.

11

– Lớp N04


Bài tập học kỳ - Luật Hôn nhân và Gia đình Việt Nam

DANH MỤC GIÁO TRÌNH VÀ TÀI LIỆU THAM KHẢO:
1. Giáo

trình Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật Hôn nhân và gia đình

Việt Nam¸ Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội, 2009.
2. Nguyễn Văn Cừ và Ngô Thị Hường, Một số vấn đề lí luận và thực tiễn về Luật
hôn nhân và gia đình năm 2000, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002
3. Nguyễn Ngọc Điện, Bình luận khoa học Luật hôn nhân và gia đình Việt Nam,
Tập 1, NXB Trẻ TP.Hồ Chí Minh, 2002.
4. Bộ môn Luật hôn nhân và gia đình, "Giải quyết hôn nhân thực tế theo Luật
HN&GĐ năm 2000", đề tài khoa học cấp trường, Trường Đại học Luật Hà Nội,
năm 2003.
5. Lê Thị Thu Trang - "Vấn đề nam nữ chung sống như vợ chồng dưới góc độ bảo
vệ phụ nữ và trẻ em", Khóa luận tốt nghiệp, Trường Đại học Luật Hà Nội.
6. Luật Hôn nhân - gia đình năm 2000.

7. Nghị định 70/ NĐ - CP ngày 03/ 10/ 2001 của chính phủ quy định chi tiết thi
hành Luật Hôn nhân - Gia đình.
9. Nghị quyết 35/2000/QH10 ngày 09/6/2000 về việc thi hành Luật Hôn nhân và
gia đình 2000.
10. Nghị quyết số 02/2000/NQ-HĐTP của Hội đồng Thẩm phán ngày 23/12/2000
hướng dẫn áp dụng một số quy định của Luật Hôn nhân và gia đình 2000.
11. Thông tư liên tịch số 01/2001/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BTP hướng dẫn thi
hành Nghị quyết của Quốc hội số 35/2000/QH10 về việc thi hành Luật hôn nhân
và gia đình năm 2000.
12. Nghị định của Chính phủ số 77/2001/NĐ-CP ngày 22/10/2001 Quy định chi
tiết về đăng kí kết hôn theo Nghị Quyết số 35/2000/QH10.
13. Http://www.wikipedia.org
14. Http://www.cafeluat.com
15. Http://www.danluat.vn
12

– Lớp N04



×