Tải bản đầy đủ (.doc) (7 trang)

Ngũ luân của đạo nho và ảnh hưởng của nó đối với pháp luật phong kiến việt nam bài tập nhóm môn lịch sử nhà nước và pháp luật việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (76.08 KB, 7 trang )

Mục lục
Trang

Mục lục
Bài làm
A – Mở đầu
B – Nội dung
I. Nội dung của Ngũ luân Nho giáo
II. Ảnh hưởng của Ngũ luân tới pháp luật phong kiến Việt Nam
1. Ảnh hưởng của mối quan hệ vua – tôi tới pháp luật phong kiến Việt Nam

1
2
2
2
2
2
2

2. Ảnh hưởng của mối quan hệ cha – con tới pháp luật phong kiến Việt
Nam
3. Ảnh hưởng của mối quan hệ chồng – vợ tới pháp luật phong kiến Việt
Nam
4. Ảnh hưởng của mối quan hệ anh – tem tới pháp luật phong kiến Việt
Nam
5. Ảnh hưởng của mối quan hệ bạn bè tới pháp luật phong kiến Việt Nam
C – Kết luận
Danh mục tài liệu tham khảo

BÀI LÀM
A - Mở đầu


1

4
4
5
6
6
7


Trải qua hàng nghìn năm lịch sử hình thành và phát triển, từ thời kỳ phong
kiến cho đến nay nhà nước Việt Nam đã chịu rất nhiều ảnh hưởng bởi sự tác động
của Nho giáo. Những tư tưởng của Nho giáo có ảnh hưởng rất lớn đến thể chế nhà
nước phong kiến Việt Nam, có vai trò to lớn trong tổ chức và hoạt động của bộ máy
nhà nước và hệ thống pháp luật của nhà nước trong thời kỳ phong kiến.Và khi nhắc
đến các yếu tố này ta không thể không nhắc đến Ngũ luân của Nho giáo với những
ảnh hưởng có tầm quan trọng đặc biệt đối với hệ thống pháp luật Việt Nam .Với
mong muốn được làm rõ hơn về Ngũ luân và những ảnh hưởng của nó đến pháp luật
phong kiến Việt Nam, nhóm chúng em đã quyết định lựa chọn đề bài: “Ngũ luân của
đạo Nho và ảnh hưởng của nó đối với pháp luật phong kiến Việt Nam” để nghiên
cứu và tìm hiểu.
B - Nội dung
I. Nội dung của Ngũ luân Nho giáo
Ngũ luân, theo quan điểm của Nho giáo, là năm thứ bậc đối đãi theo đạo
thường của con người đối với xã hội và gia đình (ngũ : năm; luân: thứ bậc đối đãi,
đạo thường). Nó bao gồm năm mối quan hệ: Quân thần (vua tôi), phụ tử (cha con),
phu phụ (chồng vợ), huynh đệ (anh em) và bằng hữu ( bè bạn).
Do xuất hiện trong bối cảnh xã hội đầy những biến động loạn lạc và chiến
tranh nên Nho gia luôn đề cao lý tưởng xây dựng một “xã hội đại đồng”, cũng chính
là xã hội lý tưởng mà Ngũ luân hướng tới. Đó là một xã hội có trật tự trên dưới, có

vua sáng - tôi hiền, cha từ - con thảo, trong ấm - ngoài êm; trên cơ sở địa vị và thân
phận của mội thành viên từ vua chúa, quan lại đến thứ dân. Trong mối quan hệ vua
tôi thì vua phải minh, thần phải trung; trong mỗi quan hệ cha con thì cha phải từ, con
phải hiếu; trong mối quan hệ chồng vợ thì chồng trọn nghĩa, vợ trọn trinh; trong mối
quan hệ anh em thì lớn nhỏ phải có trật tự, anh em như thể chân tay; trong mối quan
hệ bè bạn thì lấy chữ trung, chữ tín mà đối đãi.
II. Ảnh hưởng của Ngũ luân tới pháp luật phong kiến Việt Nam
1. Ảnh hưởng của mối quan hệ vua – tôi tới pháp luật phong kiến Việt Nam
Trong hầu hết các triều đại phong kiến Việt Nam, pháp luật phong kiến đều
chịu ảnh hưởng của Ngũ luân đạo nho, nhất là trong mối quan hệ vua – tôi. Mối quan
hệ vua – tôi đã được thể chế hóa bằng pháp luật và thông qua pháp luật, nhà vua đã

2


thể hiện quyền lực tuyệt đối của bậc thiên tử đồng thời cũng quy định chặt chẽ trách
nhiệm của quan lại đối với mình.
Pháp luật Ngô – Đinh – Tiền Lê còn đơn giản, sơ sài và phiến diện chưa chịu
ảnh hưởng nhiều của Nho giáo, chỉ được phản ánh ít ỏi trong Đại Việt sử kí toàn thư,
pháp luật thời này rất hà khắc và tàn bạo, bề tôi phải nhất nhất tuân theo lệnh của
vua, “kẻ nào trái phép thì phải chịu tội bỏ vạc dầu, cho hổ ăn, quan lại tả, hữu có lỗi
nhỏ cũng giết đi, hoặc đánh từ 100 roi đến 200 roi…”.
Pháp luật Lý – Trần – Hồ cũng vẫn chưa chịu ảnh hưởng nhiều của Nho giáo,
các hoàng đế thời kỳ này dù nắm giữ toàn bộ vương quyền và thần quyền nhưng việc
thực hiện quyền lực đó vẫn chưa đạt tới mức chuyên quyền.
Thời Lê Sơ, địa vị của Nho giáo đã được nâng cao, nguyên tắc “Tôn quân
quyền” được đề ra nhằm xây dựng và củng cố quyền lực vô hạn của nhà vua. Trách
nhiệm của quan lại đối với vua được Quốc triều hình luật quy định thành những
nghĩa vụ mà quan lại phải thực hiện:
Nghĩa vụ thứ nhất là phải báo cáo trung thực với nhà vua kết quả và tình trạng

của công việc, của lĩnh vực được giao thực hiện hay quản lí. Nếu báo cáo sai sự thật
dù bằng lời nói hay bằng văn bản đều bị xử tội biếm hay tội đồ, không phải việc cơ
mật mà tâu là việc cơ mật thì bị xử nặng hơn một bậc (Điều 520). Khi tấu trình nhà
vua việc gì mà “trước sau điên đảo không giống nhau”, việc nặng bị tội đồ hay lưu,
việc nhẹ bị biếm (Điều 236).
Nghĩa vụ thứ hai là phải tôn kính và quy phục vua trong cả lời nói, việc làm.
Vua là người thay trời trị dân và có quyền lực, thần khí thiêng liêng vì vậy các quan
phải tôn kính và quy phục vua. Viên quan nào nếu tỏ ra bất kính trong lời nói, tâu
việc gì lầm phạm đến tên vua hay tên húy của vua thì bị phạt xuy; viết phạm vào tên
húy thì bị phạt trượng; đặt tên chính hay tên tự phạm vào chữ húy thì bị tội lưu, tội tử
(Điều 125). Khi tâu vua việc gì mà nói lầm, không nói “tâu” mà nói “thưa”, không
xưng “thần” mà xưng “tôi” thì bị phạt 5 quan tiền; viết lầm bị phạt 50 roi, biếm một
tư; nói những câu đùa bỡn, động chạm đến nhà vua tỏ ta bất kính bị tội đồ hay lưu
(Điều 126).
Nghĩa vụ thứ ba là tuyệt đối tuân lệnh nhà vua một cách nhanh chóng, cẩn
trọng. Quan chức nào vi phạm nghĩa vụ này dù là bất tuân, làm trái hay chậm trễ,
làm cẩu thả đều bị trừng trị nghiêm khắc. Quân chức không tuân lệnh vua mà lệnh đó

3


không quan trọng thì bị biếm hay đồ; nếu là việc quân khẩn cấp thì bị tội lưu hay tội
chết (Điều 222). Nghĩa vụ thứ tư là phải tuyệt đối trung thành với nhà vua. Tư tưởng
chính trị Nho giáo thường đồng nhất quân (vua) với quốc (nước), bất trung với vua là
phản nước hại dân. Vì thế, quan chức nào không đến dự ngày hội minh (hội thề tận
trung với vua) bị xử tội đồ hay lưu (Điều 107).
Các tội xâm phạm an toàn về thân thể của vua chẳng hạn như những hành vi
ra vào thái miếu, hoàng thành, cung điện vua trái thể lệ; bắn cung nỏ vào trong cung;
… đều bị trừng trị nghiêm khắc.
2. Ảnh hưởng của mối quan hệ cha – con tới pháp luật phong kiến Việt Nam

Tương tự, ảnh hưởng của Ngũ luân được thể hiện rõ nét nhất ở thời Lê sơ với
sự ra đời của Bộ Quốc triều hình luật, quy định rất rõ về các tội danh, đồng thời phản
ánh sự ảnh hưởng của quan hệ cha – con tới pháp luật. Các tội ác nghịch, bất đạo, đại
bất kính, bất hiếu…được xếp vào nhóm tội Thập ác – là những tội nguy hiểm nhất
Điều 38 Quốc triều hình luật có quy định: “Con cháu phải thay thế ông bà, cha mẹ
chịu tội đánh roi, đánh trượng, và được giảm một bậc”. Những hành vi lấy vợ, lấy
chồng khi có tang cha mẹ, lăng mạ ông bà, cha mẹ, ông bà cha mẹ chồng, trái lời dạy
bảo của ông bà cha mẹ, kiện ông bà cha mẹ…đều bị quy định là tội phạm và bị trừng
trị nghiêm khắc. Việc kết hôn của con cái phải có sự đồng ý của cha mẹ, nếu trái phải
nộp tiền tạ cho cha mẹ. Điều 318 còn quy định cấm kết hôn khi ông bà, cha mẹ đang
bị giam cầm tù. Con cháu phải hiếu thảo, tôn kính, vâng lời, chăm sóc và phụng
dưỡng ông bà cha mẹ. Đặc biệt, Điều 39 của Bộ luật còn quy định rõ con cháu che
dấu tội cho ông bà cha mẹ đều không phải tội, nếu trái sẽ bị khép vào tội thập ác (bất
hiếu), bị xử lưu châu xa. Con cháu còn có nghĩa vụ để tang ông bà cha mẹ, nếu làm
trái sẽ bị khép vào trọng tội bất hiếu.
Ngược lại cha mẹ có quyền quyết định hỗ ở của con cái, có quyền và nghĩa vụ
nuôi dạy con cái, nếu con cái phạm tội, cha mẹ phải liên đới chịu trách nhiệm hình
sự và bồi thường thiệt hại.
Như vậy, có thể thấy, quan hệ cha – con rất được chú trọng trong pháp luật,
nhằm nêu cao truyền thống hiếu thảo, tôn trọng đấng sinh thành của phong tục tập
quán cổ truyền, đồng thời cũng có ý nghĩa giáo dục, răn đe con cháu trong cuộc
sống, cha mẹ cũng phải biết dạy bảo con cái sao cho phù hợp.
3. Ảnh hưởng của mối quan hệ chồng – vợ tới pháp luật phong kiến Việt Nam

4


Vượt qua thời kỳ bắc thuộc, thời kỳ đầu của nền độc lập thì Nho giáo bắt đầu
trở thành công cụ tinh thần của người Việt. Người Việt chính thức có luật vào thời Lý
và tiếp tục được truyền bá vào xã hội vào thời Trần. Ở nhà nước Lê sơ và Nhà

Nguyễn sau đó đã thừa kế và xây dựng nên hai bộ luật rất quan trọng là Quốc triều
hình luật và Hoàng Việt luật lệ.
Những lễ giáo trong gia đình đã được luật hóa thành những quy định trong
Quốc triều hình luật, Hoàng Việt luật lệ nhằm xác định địa vị, quyền và nghĩa vụ của
mỗi chủ thể trong các mối quan hệ cụ thể và các chủ thể phải làm tròn bổn phận của
mình. Trong Quốc triều hình luật thì chủ yếu quy định việc xử phạt các tội như gian
dâm, thông gian, ngược đãi, giết vợ… của người chồng. Đối với người vợ cũng bị xử
phạt nặng nếu vi phạm các nghĩa vụ với chồng như nghĩa vụ tòng phu, nghĩa vụ thủy
chung. Tùy theo mức độ mà bị xử phạt khác nhau: tội lưu của người chồng khi gian
dâm (điều 401, 402), giết vợ là tội bất mục (điều 482), đánh chồng (điều 481), tố cáo
chồng ( điều 504 ) bị xử tội đồ, lưu… Trong Hoàng Việt luật lệ, các nghĩa vụ nhân
thân giữa vợ và chồng, cùng với tội phạm do vi phạm nghĩa vụ này được quy định
khá chặt chẽ nhưng chủ yếu là dành cho người vợ như nghĩa vụ đồng cư ( điều 108 ),
nghĩa vụ chung thủy (điều 332).
Các triều đại phong kiến rất trú trọng đến việc kiểm soát các mối quan hệ
trong gia đình. Trong gia đình, các quy tắc, tôn ti, trật tự được quy định rõ ràng và
hình phạt dành cho những việc làm sai trái cũng không kém phần nặng nề vo với
những tội danh khác. Quan hệ giữa vợ và chồng tồn tại một sự bất bình đẳng rất rõ
nét. Vai trò của người đàn ông được tôn vinh và vai trò của người phụ nữ bị hạ thấp.
Mối quan hệ vợ chồng trong ngũ luân đã góp phần rất quan trọng vào việc xây dựng
nên hệ thống pháp luật thời phong kiến. Chính những quyền và nghĩa vụ giữa vợ
chồng là cơ sở để ban hành ra các điều luật trong các bộ luật thời phong kiến.
4. Ảnh hưởng của mối quan hệ anh – em tới pháp luật phong kiến Việt Nam
Dưới sự ảnh hưởng của Ngũ luân, các vế sau có nghĩa vụ phải phục tùng vế
trước: như tôi phải phục tùng vua, con phải giữ đạo hiếu với cha, vợ phải giữ tiết
hạnh với chồng, em phải kính trọng anh,… Điều này được thể hiện rất rõ được thể
hiện rất rõ qua các điều luật đã được ban hành.
Trong mối quan hệ anh – em thì người anh trưởng có quyền và nghĩa vụ với
các em, nhất là khi bố mẹ đã chết. Quốc triều hình luật xử biếm hai tư nếu em lăng


5


mạ anh chị; xử đồ, lưu nếu đánh hoặc đánh bị thương anh chị (Điều 477). Bộ luật
nghiêm trị những người cố tình gây sự bất hòa giữa anh em tới mức phải kiện cáo
nhau (Điều 512). Điều 287 Hoàng Việt luật lệ cũng quy định “Phàm em … đánh anh
chị ruột …làm chết đều bị chém…Anh, chị hàng kỳ thân đánh giết em thì phạt một
trăm trượng, đồ ba năm”.
Nhìn chung, với quan hệ anh – em, luật pháp đã điều chỉnh nó một cách khá
sâu sắc. Quy định rõ quyền và nghĩa vụ của anh – em đối với nhau. Một mặt, mặc
nhiên thừa nhận các phong tục tập quán (trong đó hàm chứa lễ của đạo Nho): em
phải kính trọng anh, anh thì phải có nghĩa vụ và trách nhiệm với em, anh em phải
hòa thuận, đầm ấm, giữ gìn nề nếp gia đình. Một mặt, để ra những quy định, những
chế tài nghiêm khắc để điều chỉnh mối quan hệ này, qua đó việc thực hiện quyền –
nghĩa vụ của anh em với nhau được đảm bảo và thực hiện tốt hơn. Qua đó, góp phần
củng cố mối quan hệ anh em trong gia đình., củng cố sự hòa thuận, có trách nhiệm
với nhau.
5. Ảnh hưởng của mối quan hệ bạn bè tới pháp luật phong kiến Việt Nam
Mối quan hệ bạn bè là một trong những mối quan hệ của Ngũ luân đạo Nho
ảnh hưởng đến pháp luật phong kiến Việt Nam, đặc biệt nó thể hiện rõ ở Quốc triều
hình luật.
Do ảnh hưởng sâu sắc của Nhó giáo, Quốc triều hình luật đã đưa ra quy định:
“bạn bè đoàn kết, tôn trọng giúp đỡ lẫn nhau, dùng lễ mà hành xử với nhau, phải
dùng tâm để đối đãi với nhau”. Với tư cách là một bộ luật để điều chỉnh hành vi đạo
đức của con người, nhưng Quốc triều hình luật ít bàn về mối quan hệ này. Một số
điều luật quy định cách ứng xử của quan lại đồng liêu với nhau, qua đây tư tưởng về
mối quan hệ bạn bè phần nào được thể hiện rõ.
C – Kết luận
Cùng với rất nhiều yếu tố khác trong hệ tư tưởng của Nho giáo, có thể nói
rằng Ngũ luân có một vị trí rất quan trọng trong việc hình thành và phát triển của nhà

nước phong kiến Việt Nam.Với những tác động mang tính hai chiều của mình, Ngũ
luân đã góp phần làm phong phú và hoàn thiện hơn cho hệ thống pháp luật phong
kiến Việt Nam. Điều đó không những góp phần làm cho xã tắc được yên ổn mà còn
có giá trị nguyên vẹn cho tới ngày nay, khiến xã hội của chúng ta trở nên thái bình,
ngày một phát triển tốt đẹp.

6


Danh mục tài liệu tham khảo
1. Trường Đại học Luật Hà Nội, GIÁO TRÌNH LỊCH SỬ VÀ NHÀ NƯỚC PHÁP
LUẬT VIỆT NAM, Nxb Công an nhân dân, năm 2002.
2. Trường Đại học Luật Hà Nội, GIÁO TRÌNH LÝ LUẬN NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP
LUẬT, Nxb Công an nhân dân, năm 2012.
3. Hoàng Ngọc Hùng, Ngũ luân, diễn đàn: my.operamini.com.
4. WIKIPEDIA: Bách khoa toàn thư mở, Luật Hồng Đức, wikipedia.com.

7



×