Tải bản đầy đủ (.doc) (14 trang)

ngũ thường của Đạo Nho và ảnh hưởng của nó đối với pháp luật phongkiến Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (736.92 KB, 14 trang )

MỤC LỤC
MỤC LỤC
A. MỞ ĐẦU
B. NỘI DUNG
1. Nhân
2.
Lễ
3. Nghĩa – Trí - Tín
C. KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC

A.

Trang
0
1
1
1
5
6
8
9
11

MỞ ĐẦU

Dân tộc ta đã trải qua hàng ngàn năm lịch sử dựng nước và giữ nước. Từ hơn
1000 năm chống chính sách đồng hóa đến nay, người dân Việt Nam vẫn không
1



ngừng bền bỉ đấu tranh, không những giữ vững lãnh thổ mà còn giữ gìn bản sắc dân
tộc, không những khẳng định chủ quyền quốc gia mà còn khẳng định một nền văn
hóa Việt Nam hài hòa, thuần chất không pha trộn. Điều này không có nghĩa chúng
ta từ chối mở cửa, chối bỏ các giá trị của nền văn minh nhân loại mà chúng ta đã và
đang không ngừng tiếp thu, học hỏi rồi thổi vào đó linh hồn Việt. Đạo Nho cũng
vậy. Nho giáo được du nhập vào nước ta và từng bước tác động vào mọi mặt của đời
sống xã hội dưới thời phong kiến đặc biệt là pháp luật. Từ tam cương, tam tòng tứ
đức đến “ngũ thường của Đạo Nho và ảnh hưởng của nó đối với pháp luật phong
kiến Việt Nam” đã thể hiện rõ sự học hỏi không ngừng nhưng vẫn đậm đà bản sắc
dân tộc Việt Nam.

B.

NỘI DUNG

Nho giáo, còn được gọi là Khổng giáo là một học thuyết đạo đức – chính trị
do Khổng Tử sáng lập để xây dựng một xã hội thịnh trị. Pháp luật sinh ra là để điều
chỉnh các mối quan hệ trong xã hội, điều chỉnh hành vi ứng xử của mỗi người không
gì bằng tự mỗi người kiềm chế, tự mình tu thân dưỡng tính. Chính vì vậy, Ngũ
thường có ảnh hưởng rất lớn tới nội dung của pháp luật phong kiến vì nhiều lí do
khác nhau. Thứ nhất, trải qua hơn 1000 năm Bắc thuộc với vị trí địa lí cùng những
điều kiện kinh tế xã hội có nhiều nét tương đồng tạo nên điều kiện thuận lợi để học
tập, áp dụng các học thuyết của Trung Quốc vào điều kiện thực tế của nước ta. Thứ
hai, Nho giáo là một thành tựu của văn minh nhân loại, vậy vì sao phải mất công
khái quát, xây dựng các học thuyết khác khi Nho giáo đã tồn tại và đáp ứng được
những yêu cầu cấp thiết nhất của xã hội phong kiến? Chính bởi 2 lí do trên nên việc
Nho giáo mà cụ thể là Ngũ thường của Đạo Nho ảnh hưởng tới pháp luật phong kiến
Việt Nam là một điều tất yếu.
Ngũ thường của Đạo Nho là 5 điều cần có của một con người, bao gồm:

Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí và Tín.
1. Nhân (Đức nhân)
Khổng Tử đề cao đức nhân, ông đã đưa “Nhân” lên thành đức mục cao nhất,
coi đó là đích của tự tu dưỡng. Ông nói rất hiều về đức nhân nhưng chưa từng đưa
2


ra một định nghĩa rõ ràng, cụ thể về nó. Có thể hiểu, nhân bao gồm 2 phần, 2 yêu
cầu cơ bản với con người, một là đối với chính mình phải biết tự tu thân, dưỡng
tính, hai là đối với người phải biết yêu thương, giữ trọn đạo làm người. Chình vì
vậy, “Nhân”, theo nội dung sách Luận ngữ, là sự phô bày rất thực tiễn và ngoại tại
các phẩm tính của con người. Xã hội phong kiến bao gồm Vua, quân và dân. Yêu
cầu của “Nhân” với mỗi đối tượng cũng khác nhau nhưng nói chung, muốn làm
người quân tử cần làm được 5 điều: Cung (cung kính) – Khoan (khoan dung) – Tín
(chữ tín) – Mẫn (cần mẫn) – Huệ (ân huệ).
Có thể nói, ảnh hưởng của “Nhân” đến pháp luật phong kiến chính là sự bảo
vệ con người và lòng yêu thương con người. Pháp luật tôn trọng những quyền tối
thiểu nhưng cơ bản của con người, đặc biệt người dân được thừa nhận, tôn trọng và
được bảo vệ bằng pháp luật. Ta có thể thấy rõ điều này qua các quy định của Quốc
triều hình luật. Thứ nhất, pháp luật đảm bảo quyền được sống, được chăm sóc, được
bảo vệ của con người đặc biệt đối với người già cả, người ốm yếu, người khó khăn,
ông bà cha mẹ còn có thêm quyền được nuôi dưỡng. Pháp luật chủ trương mọi
người phải có đời sống vật chất khá đầy đủ và được sống trong môi trường văn hoá
lành mạnh. Nhiều điều luật đã quy định, nhà vua, tầng lớp quan lại phải có trách
nhiệm chăm lo và đảm bảo đời sống vật chất của người dân. Theo đó, tất cả những
hành động tự tiện chiếm ruộng đất, của cải, tiền bạc của dân, tự tiện thu thuế và thu
thuế trái quy định của dân để làm của riêng, kể cả để làm lễ vật cung phụng nhà vua,
đều vi phạm pháp luật và phải bị nghiêm trị; toàn bộ tài sản của dân bị chiếm đoạt
hoặc thu sai quy định phải trả lại gấp đôi cho dân (các điều 181, 185, 186, 206, 300,
325, 326, 336, 338,…). Điều 325 còn hướng dẫn việc thu thuế phải công bằng; phải

phân biệt người giàu, người nghèo, người khoẻ, người yếu mà thu thuế nhiều hay ít,
trước hay sau. Ngoài ra, bộ luật còn đưa ra các điều luật để ngăn cấm và trừng phạt
các tội tự tiện giết, bán súc vật, trâu ngựa; phá hoại hoa màu, đê điều, cầu cống,…
ảnh hưởng đến công việc và đời sống của dân (các điều 573, 575, 578, 579, 580,
581, 596,…); yêu cầu quan lại địa phương phải chăm lo sửa sang đường xá, cầu
3


cống để phục vụ tốt công việc nhà nông và cuộc sống của người dân (các điều 633,
635). Hay như điều 304 quy định: “ Những người cai quản dân đinh mà làm bậy
nhũng nhiễu thì xử tội đồ hay bãi chức. Tôn thất từ nhị phẩm trở lên thì bị phạt tiền
100 quan”. Hoặc theo điều 302, những thuộc quan của vương công hay công chúa
mà tự tiện bắt dân đinh làm đày tớ hầu hạ thì đều bị phạt tiền, có thể mất chức. Bên
cạnh đó, Điều 294, 295 quy định: “Nhà nước và mọi người phải có trách nhiệm
chăm sóc, nuôi nấng những người ốm đau không ai nuôi nấng, những người vô gia
cư, thấp hèn, những người tàn tật, goá vợ, goá chồng, những kẻ mồ côi, nghèo khổ
không nơi nương tựa”, đồng thời quan lại phải đảm bảo an ninh, an toàn cho dân
(Các điều 458, 645, 646, 647, 648) và chống nạn nô tì hóa dân tự do (các điều 365,
291). Thứ 2, pháp luật tôn trọng bảo vệ nhân phẩm cũng như quyền tự do của con
người. Đối với các hành vi vi phạm nghiêm trọng nhân phẩm con người được quy
định tại các điều 401, 403, 404, 406 như hiếp dâm, loạn luân đều bị trừng phạt với
hình phạt rất nặng là lưu, chém.. Bên cạnh đó, pháp luật cấm các hành vi như tố cáo,
vu khống không đúng sự thật và trái quy định (Điều 501 đến 505); tự tiện bắt bớ,
giam cầm người vô tội (Điều 636); vô cớ đánh đập tù nhân (Điều 707); cấm “Các
tước vương công và nhà quyền quý tự tiện thích chữ vào dân đinh” (Điều 168); cấm
tất cả những ai tự tiện thích chữ vào mặt vợ, con trai, con gái người khác và nô tì,
người ở đợ (Điều 165, 168, 365); trị tội những tên quan lại và những người lợi dụng
quyền thế ức hiếp lương dân, bắt ép để lấy con gái người dân (Điều 336, 338).
Bên cạnh đó, lòng nhân đạo còn được thể hiện ở hình phạt và chính sách với
người phạm tội. Ví dụ như Quốc triều hình luật quy định tù nhân phạm tội nếu bị

thương hay ốm đau phải được chữa trị, chăm sóc (điều 663), không được tra tấn tù
nhân tuổi cao hay vị thành niên (điều 665). Theo Hoàng Việt luật lệ quyển 2, Danh
lệ phần thượng có quy định: “người phạm tội ở kinh thành hay tỉnh trừ trường hợp
phải chém ngay không đợi lúc ra, những trường hợp khác đều giam cầm cố, đợi
phiên tòa mùa thu hay triều đình xử để phân biệt tình thật, hoãn hành quyết và
những người có ân huệ, tâu lên cho vua định đoạt”, phần Chuộc tội có quy định
4


“đối với người già, em nhỏ, người tàn tật, quan thiên văn cùng phụ nữ bị xử trượng,
chiếu luật, nhận giá chuộc”; hay trường hợp Phạm tội tồn lưu dưỡng thân (người
phạm tội còn có cha mẹ già cần chăm sóc và là chỗ dự duy nhất thì được chịu
trượng, mang gông và nhận giá chuộc). Hoàng việt luật lệ quyển 3 có quy định về
trường hợp Lưỡng tội câu phát dĩ trọng luân: “phàm 2 tội trở lên cùng bị phát giác
thì xử theo tội nặng, nếu những tội này cùng bậc thì xử 1 tội mà thôi”. Bên cạnh đó
pháp luật phong kiến thể hiện lòng nhân đạo sâu sắc đối với phụ nữ như Quốc triều
hình luật Điều 680 quy định: "Đàn bà phải tội tử hình trở xuống nếu đang có thai,
thì phải để sinh đẻ sau 100 ngày mới đem hành hình. Nếu chưa sinh mà đem hành
hình thì ngục quan bị xử biếm hai tư; ngục quản bị đồ làm bản cục đinh. Dù đã sinh
rồi , nhưng chưa đủ hạn một trăm ngày mà đem hành hình, thì ngục quan và ngục
lại bị tội nhẹ hơn tội trên hai bậc. Nếu đã đủ 100 ngày mà không đem hành hình, thì
ngục quan hay ngục lại bị tội biếm hay tội phạt”; Điều 1 qui định trượng hình chỉ
đàn ông phải chịu: “Từ 60 cho đến 100 trượng, chia làm 5 bậc: 60 trượng, 70
trượng, 80 trượng, 90 trượng, 100 trượng, tuỳ theo tội mà thêm bớt. Xử tội này có
thể cùng với tội lưu, tội đồ, biếm chức, hoặc xử riêng chỉ đàn ông phải chịu.” Hoàng
Việt luật lệ quyển 2 quy định về Công nhạc hộ cập phụ nhân phạm tội: “Đối với phụ
nữ phạm tội bị xử trượng nếu phạm tội gian dâm thì bị xử cởi áo (để lại quần) chịu
hình phạt, còn những tội dư khác y bị xử mặc áo mỏng, miễn xăm chữ”.
Nhân là hạt nhân trong lí luận của Khổng tử bởi tính khái quát và giá trị của
nó. Đối vói pháp luật phong kiến Việt Nam, “Nhân” là nền tảng của lòng nhân đạo

trong pháp luật, pháp luật không chỉ dùng những biện pháp cứng rắn để buộc con
người vào khuôn phép mà còn dùng đức nhân để cảm hóa con người, khơi dạy cái
thiện, giải trừ cái ác. Không những vậy, một số yêu cầu về đạo đức trong ứng xử
cũng được thể chế hóa trong luật, lòng thương người, lòng trắc ẩn không chỉ là tự
giác mà còn là nghĩa vụ của mỗi người trong xã hội, vô hình tạo nên sợi dây liên kết
cộng đồng, tình làng nghĩa xóm, tự nhiên lòng dân bị thu phục, con người tự giác
chấp hành pháp luật, hạn chế sựu chống đối. Tuy nhiên, pháp luật là biện pháp cứng
5


rắn, là công cụ hữu hiệu để ổn định trật tự xã hội, nếu quá mềm, quá giàu lòng nhân
đạo sẽ mất đi tác dụng vốn có của nó, người dân coi thường pháp luật, coi thường kỉ
cương phép nước thì xã hội ắt loạn.
2. Lễ
Lễ là lễ nghi thể hiện các quy phạm đạo đức. Như vậy, Lễ vừa là hình thức
của “Nhân”, vừa là lễ nghi, nghi thức.
Thứ nhất, Lễ là hính thức của “Nhân”. Con người có đức nhân được thể hiện
bằng hành động và chính vì có đức nhân nên hành vi phải tuân theo những chuẩn
mực lễ nghi nhất định. Chính vì tình yêu thương ông bà, cha mẹ nên sinh ra lễ trong
gia đình như hành động quỳ lạy, những quy định về thứ bậc trong gia đình từ lời ăn
tiếng nói phải hết mực cung kính (không được nói xấu, lăng mạ ông bà cha mẹ) đến
các hoạt động trong gia đình đều phải có thứu tự trên dưới.
Thứ 2, lễ theo nghĩa rộng hơn là những quy củ, phép tắc tạo nên trật tự xã hội,
là lễ nghi, nghi thức. Đối với triều đình, le cụ thể hóa thành lễ nghi cung đình do Bộ
Lễ chịu trách nhiệm thực hiện. Bộ Lễ không những tổ chức các cuộc lễ tế theo đúng
thủ tục lễ nghi như lễ đăng quang, lễ cải nguyên, lễ khánh thọ, các lễ kỵ nhật, lễ khai
ấn, … mà còn giám sát việc tuân thủ lễ nghi của quan lại. Hoàng Việt luật lệ, quyển
9 có quy định về Lễ luật như sau: về Tế tự: “phàm lễ tế lớn Trời đất, Xã tắc và Miếu
hưởng thì quan lễ bộ phải thông báo trước về ngày trai, ngày the giới…” hay “Nếu
đại tế lễ cúng vật thú sống, ngọc, lụa. lúa. nếp các thứ ấy làm sai phép thì phat 50

roi. Nếu thiếu một món nào thì phạt 80 trượng, thiếu toàn bộ thì phạt 100 trượng”;
Phục xá vi thức quy định cụ thể về phẩm phục của quan lại gồm áo bào, áo, thanh
địa xiêm, ủng vớ: “phẩm phục các quan văn võ, áo mũ nho sinh đều chiếu theo cấp
bậc phẩm trật, không được tiếm dụng. Quan viên vượt phẩm tiếm dùng và dân gian
trái lịnh cấm mà dùng thì chiếu luật mà trị tội”; hay đến thứ bậc trong triều được
quy định trong Tấu đối thất tự: “phàm ở trong triều, người theo hầu quan viên, quan
đặc biệt lãnh chức cố vấn cao, tâu trước xong, kế đến mới tới phiên người thị giá
tâu thêm”; hoặc những quy tắc trong khi phục vụ vua chúa như Hiệp hòa ngự dược
6


quy định cụ thể cách thức nhận thuốc, pha chế đến dâng lên cho vua dùng; … Tuy
“Hình không tới trượng phu, lễ không tới thứ dân” nhưng trong dân gian cũng có
những quy định về lễ như lễ trong cưới hỏi, tang ma, lễ hội. Hoàng Việt luật lệ,
quyển 9, Tang táng quy định: “Quan chức, thứ dân cũng chỉ để 3 tháng rồi phải
đem chôn cất…” hay Hương ấm tửu lễ quy định về thứ bậc trong các dịp lễ tết ở
làng. Điều 314 Quốc triều hình luật quy định: “người kết hôn mà không đủ đồ sính
lễ đến nhà cha mẹ (người con gái, (nếu cha mẹ chết cả, thì đem đến nhà người
trưởng họ, hay nhà người trưởng làng) để xin, mà thành hôn với nhau một cách cẩu
thả thì phải biếm một tư và theo lệ sang hèn, bắt phải nộp tiền tạ…” hay thủ tục
thành hôn được quy định tỉ mỉ trong Lệ Hồng Đức hôn giá. Tuy Nhà nước từng
bước thiết lập việc cai trị ở cấp cơ sở nhưng pháp luật phong kiến lại rất chú trọng
đến phong tục tập quán ở địa phương, coi đó là một bộ phận của pháp luật khi công
nhận Hương ước, Lệ làng trong đó có các quy định về Lễ như các lễ hội truyền
thống, tập tục hôn nhân ma chay hay tục thờ thành hoàng làng, …
Có thể thấy, tuy xuất phát từ Trung Quốc với những quy định, quy củ khá
nghiêm ngặt chặt chẽ và có phần cứng nhắc nhưng Lễ trong pháp luật phong kiến
Việt Nam lại được vận dụng khá mềm dẻo, linh hoạt. Nhà làm luật chỉ quy định
những điều cơ bản trên cơ sở tôn trọng phong tục tập quán trong dân gian. Điều này
đã khiến cho Lễ trở thành một phần của cuộc sống con người, tự giác mỗi người

thực hiện tạo nên văn hóa ứng xử trong xã hội.
3. Nghĩa – Trí – Tín
Nghĩa (Ân nghĩa) thể hiện đạo nghĩa, ý thức trách nhiệm với cộng đồng (làm
ơn và trả ơn). Con người sống ở đời cần có trách nhiệm với quê hương, gia đình
dòng họ, ông bà cha mẹ, vợ con, anh em, bằng hữu. Nhận thì dễ nhưng cho thì khó.
Chính vì vậy, pháp luật cũng có những quy định để đảm bảo trách nhiệm của con
người đối với xã hội. Ví dụ như mỗi người cần có trách nhiệm chăm sóc người già
neo đơn, người tàn tật hay gần gũi nhất là hàng xóm láng giềng (Điều 295 – Quốc
triều hình luật) hay quy định về tội Bất nghĩa (Tập ác tội). Mỗi người trong xã hội
7


khi sinh ra đều chịu ân cha mẹ, khi đi học có nghĩa thầy trò, là con dân một nước có
nghĩa vua tôi, sinh ra đã mang nợ nước nhà. Chính vì vậy, không những thập ác tội
quy định về Tội mưu phản, mưu đại nghịch, mưu bạn, ác nghịch, bất hiếu, bất mục,
bất nghĩa mà còn có những điều luật cụ thể hướng con người tới “Nghĩa” đặc biệt là
làm tròn đạo hiếu. Hoàng Việt luật lệ quyển 9 quy định về Tăng đạo bái phụ mẫu:
“Tăng ni, Đạo sĩ, Nữ quan đều ra lịnh họ phải cúng tế cha mẹ tổ tiên (thân thuộc
bên nội) và thứ lớp để tang (tang trảm thôi, tang công ty ma) làm giống như bao
nhiêu người” hay trường hợp Phạm tội tồn lưu dưỡng thân thì pháp luật tạo điều
kiện cho người phạm tội làm tròn đạo hiếu, Điều 38 – Quốc triều hình luật tạo điều
kiện cho con cháu thay ông bà cha mẹ chịu tội roi, tội trượng hoặc Điều 485 - Quốc
triều hình luật quy định: “Ông bà cha mẹ bị người ta đánh, con cháu đánh lại mà
không bị què gẫy, bị thương thì không phải tội”. Đồng thời, pháp luật trừng trị
nghiêm khắc những hành vi bất nghĩa như Điều 504 – Quốc triều hình luật quy
định:“Con cháu tố cáo ông bà, cha mẹ, nô tỳ tố cáo chủ có tội lỗi gì đều xử tội lưu
đi châu xa, vợ tố cáo chồng cũng bị tội trên. Tố cáo ông bà ngoại, cha mẹ và ông bà
cha mẹ về bậc tôn trưởng và hàng cơ thân của chồng, cùng là nô tỳ tố cáo người
bậc cơ thân của chủ, dẫu việc có thật cũng phải tội biếm hay tội đồ”, Điều 324 –
Quốc triều hình luật bảo vệ nghĩa thầy trò: “là anh, là em, là học trò mà lấy vợ của

em, của anh, của thầy học đã chết, đều xử tội lưu” hay Hoàng Việt luật lệ quy định
các tội Nặc phụ mẫu phu tang (giấu tang cha mẹ), tội Khí thân chi nhiệm (Bỏ gánh
nặng nuôi cha mẹ), Quốc triều hình luật cũng có quy định về nghĩa vụ để tang cha
mẹ ở điều 2, 130, 543. Mặt khác đối với người có công với quốc gia, dân tộc, pháp
luật cũng có nhiều ưu ái như trường hợp Nghị cố, Nghị công thuộc diện Bát nghị.
Trí là trí tuệ, sự hiểu biết. Mỗi người đều có nghĩa vụ tự trau dồi, học hỏi để
có hiểu biết, tránh sai lầm. Pháp luật không có nhiều quy định nhưng luôn tạo điều
kiện cho con người học tập như các chính sách khuyến khích học tập, mở thêm
trường học. Về quy chế tuyển chọn quan lại, nhà nước chú trọng tuyển chọn người
hiền tài thông qua khoa cử, chỉ dựa vào năng lực, không quá coi trọng xuất thân, địa
8


vị. Chính bởi sự quý trọng người tài nên Bát nghị có trường hợp Nghị năng (người
có tài năng lớn).
Tín là lòng tin, sự tín nhiệm, con người phải biết giữ lời, trung thực, thật thà.
Hoàng Việt luật lệ quyển 8 có quy định về hành vi không giữ chữ tín như tội Vi cấm
thủ lợi: “Nói chung quan lại và dân thường, ai thiếu hụt mắc nợ riêng, sai hẹn
không trả. 5 lạng trở lên, trễ 3 tháng phạt 10 roi, mỗi tháng tăng một bực tội. Mút
tội là 40 roi. 50 lạng trở lên, trễ 3 tháng phạt 20 roi, mỗi tháng tăng một bực tội.
Mút tội là 50 roi. 100 lạng trở lên, trễ 3 tháng phạt 30 roi, mỗi tháng tăng một bực
tội. Mút tội là 60 trương, truy thu tiền lời cấp chủ” hay tội Phí dụng thọ kí tài sản

C.

KẾT LUẬN

Có thể thấy, Ngũ thường của đạo nho đã có ảnh hưởng sâu sắc tới pháp luật
phong kiến Việt Nam, tuy nhiên pháp luật Việt Nam để quản lí xã hội Việt với
những con người và những mối quan hệ có đặc trưng riêng nên sự những ảnh hưởng

của ngũ thường không những không khô cứng, máy móc mà còn khá mềm dẻo, hợp
tình, hợp lí thể hiện trình độ của nhà làm luật thời bấy giờ.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.

Viện sử học Việt Nam, Quốc triều hình luật: Hình luật triều Lê, Nxb. Pháp lí,

1991.
2.
Nguyễn Văn Thành, Hoàng Việt luật lệ (Luật Gia Long) Tập 2, Nxb. Văn hóa
thông tin, Hà Nội, 1994
3.
Lê Thị Sơn (Chủ biên), Quốc Triều hình Luật lịch sử hình thành, nội dung và
giá trị, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 2004
9


4.

TS. Trương Quang Vinh (Chủ biên), Tội phạm và hình phạt trong Hoàng Việt

luật lệ, Nxb. Tư pháp, Hà Nội, 2008.
5.
Trung tâm khoa học xã hội và nhân văn Quốc gia. Viện Nhà nước và pháp
luật, Nghiên cứu về hệ thống pháp luật Việt Nam thế kỷ XV – Thế kỷ XVIII, Nxb.
Khoa học xã hội, Hà Nội, 1994.
6.
TS. Nguyễn Thanh Bình, khoa Triết học, Trường đại học Khoa học xã hội và
nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội, Một số nội dung và giá trị cơ bản về quyền con

người trong Quốc triều hình luật.
Nguồn: />7.
Ngũ thường của Đạo Khổng.
Nguồn: />8.
Trần Hoàng Thành, Những tư tưởng cơ bản của Nho giáo và ảnh hưởng của
nó đối với nền văn hóa ở nước ta hiện nay.
Nguồn: />9.
Thế nào là “Tam cương”, “Ngũ thường” ?
Nguồn: />10. Những giá trị tổng quan về lịch sử nhà nước và pháp luật Việt Nam
Nguồn:
/>11. Lương Duy Thứ, Sơ lược về chữ Nhân và chữ Lễ của Khổng tử
Nguồn: />12. Trần Văn Đoàn, Đại học Quốc gia Đài Loan, Lễ nghĩa trong nền đạo đức
Khổng Mạnh, Tập san Triết đạo Việt Nam, 2003.
13. Nguyễn Thị Lan Minh, Phạm trù Lễ của Khổng Tử và ảnh hưởng của nó đối với
việc giáo dục đạo đức cho học sinh Việt Nam hiện nay.
Nguồn:
/>a=v&q=cache:yvQwtWEgQ3EJ:dl.vnu.edu.vn/bitstream/11126/1391/1/0205000093
4.pdf+&hl=vi&gl=vn&pid=bl&srcid=ADGEEShWC1OgVFS-KRa-YINQJr0Td1nsasE4cF2lwUHKj7xaXba29S8EhnDMATbn4UhagjnURr8Jj3BpkslUy

10


XOVDXtYTocE6kpTQQEy_m5XC2FZ4Jcc0pfnazlk2dJ_yhuXHnSBl4&sig=AHIEtbQi_RQHkW9ydYVEaR4hEaIHepQ-DQ
14. Lý Minh Tuấn, Chữ Tín trong truyền thống Nho giáo, Nhịp cầu tâm giao 6,
Tr.18-27, Nxb. Phương Đông, Đồng Nai, 9/2011.
Nguồn: />15. Nguyễn Duy Khánh, Bàn về Nhân Nghĩa Lễ Trí Tín xưa và nay.
Nguồn: />
PHỤ LỤC

Khổng Tử

11


Lễ: thể hiện thứ bậc thầy - trò

Lễ nghi cung đình: Lễ động quan ở điện Càn Thành (Hoàng thành Huế)

12


Lễ nghi triều đình: Lễ xuất cung và đám rước vua ra ngoại thành

tang phục truyền thống thể hiện
nỗi đau, sự mất mát

Lễ đưa tang của gia đình giàu có

13


Lễ tế đàn Nam Giao

14



×