Tải bản đầy đủ (.doc) (7 trang)

Đề 6 giới thiệu và bình luận hành khúc thổ nhĩ kỳ của w a mozart

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (80.21 KB, 7 trang )

Đề 6. Giới thiệu và bình luận Hành khúc Thổ Nhĩ Kỳ của W.A.Mozart
I. Tiểu sử và quá trình sáng tác của Mozart.
1. Tiểu sử của Mozart.
Wolfgang Amadeus Mozart sinh ngày 27 tháng giêng, 1756, tại Salzburg, Thánh
chế La Mã (nay Áo). Leopold Mozart, một nhạc sĩ violin và cũng là một giáo
viên, đã đích thân giáo dục con trai của ông. Wolfgang không phải cắp sách đến
trường; thay vào đó cậu được học tại nhà với cha và chị gái của cậu. Âm nhạc là
môn học chính. Tuy nhiên, cậu bé Mozart vẫn được học toán, môn học cậu rất
thích, và các môn khác như La tinh, tiếng Pháp, tiếng Ý và một ít tiếng Anh. Cậu
cũng đọc rất nhiều văn học kịch nghệ, đó là chất liệu mà cậu sẽ dùng để
viết opera sau này.
Wolfgang không thích chơi những trò chơi trẻ con bình thường, trừ phi có liên
quan tới âm nhạc. Nhờ sự chăm lo dạy dỗ của người cha, vốn là một nhạc sĩ nổi
tiếng của thành Viên, đến năm 3 tuổi đã nghe hiểu được âm nhạc, 4 tuổi đánh
được đàn dương cầm cổ vàorgan. Cậu bắt đầu soạn nhạc cho đàn phím từ lúc
năm tuổi, viết những bản nhạc hòa tấu khi cậu lên sáu. Những
bản sonata choviolin được xuất bản khi cậu lên tám. Thật ra có thể nói rằng
Mozart đã khởi đầu sự nghiệp âm nhạc trước thời gian cậu lên năm và theo đuổi
cho đến ngày qua đời, ngót ba mươi năm âm nhạc.
Học vấn của Mozart phát triển cùng những chuyến du lịch, được xem như những
cột mốc trong cuộc đời cậu. Khi cậu lên sáu, Wolfgang và người chị Maria Anna
Mozart, lớn hơn cậu năm tuổi và cũng là một thần đồng âm nhạc, cùng đi với
cha của họ đến München. Cuối năm đó họ chơi nhạc cho Hoàng hậu của Viên.
Năm lên 7, cậu đã tổ chức những buổi diễn nhạc ở Paris, và được một nhà xuất
bản ở đây xuất bản một tập nhạc, gồm 4 bản violin vàorgan]. Sau đó, cha cậu lại
dẫn cậu đi khắp các nước Ý, Anh Quốc..., gia đình Mozart nổi danh khắp những
nơi cậu đến, và Wolfgang, với tài năng sớm phát triển của cậu, đã chinh phục
mọi người. Quan trọng hơn, Mozart có cơ hội thưởng thức âm nhạc thịnh hành


trong các thành phố này. Mozart đã gặp những nhạc sĩ khác và bắt đầu thành


hình quan điểm về sự nghiệp của họ.
Mozart có ký ức chi tiết âm nhạc phi thường, ông có thể hợp nhất tinh hoa âm
nhạc khác nhau của quốc gia này với quốc gia khác vào trong tác phẩm của
mình. Tại Luân Đôn, Mozart gặp Johann Christian Bach, con trai của nhạc sĩ vĩ
đại Johann Sebastian Bach, Christian bị gây ấn tượng, đã trở thành người dẫn
dắt nhạc sĩ Mozart trẻ và quan tâm theo dõi sự nghiệp của cậu. Trở về nước,
Mozart nghiên cứu tổng phổ âm nhạc của J. C. Bach, và ảnh hưởng của Bach
được thể hiện trong tác phẩm của Mozart vào thời gian ấy.
2. Di sản sáng tác của Mozart.
Mozart đã không bao giờ hoàn thành Requiem của ông. Nó được viết nốt bởi
người học trò Franz Xavier Sussmayr, một người có đức tính khiêm tốn, ông đã
thêm vào các phần còn thiếu và soát lại nhiều bản thảo đã có. Sự hoàn chỉnh của
ông có vẻ như là trung thành với toàn bộ những dự định của Mozart, có lẽ là bởi
vì Sussmayr đã rất kề cận bên người thầy của mình trong những ngày cuối cùng.
Âm nhạc của Mozart mang vẻ đẹp tuyệt vời và hiếm có của giai điệu, sự duyên
dáng và dịu dàng rất đặc trưng, sự hài hòa, cân đối, nhất quán được tạo nên
trong sự sắp xếp hình thức cấu trúc rất thông minh, tài tình và bác học. Nhưng
điều đó lại không làm mất đi cái vẻ tự nhiên và giản dị một cách kỳ lạ, một sự
tinh tế không thể giải thích được. Các tác phẩm của Mozart không chỉ đi vào
cuộc sống như những niềm say mê không tả xiết mà còn là những biểu tượng
chuẩn mực cho nghệ thuật âm nhạc của nhân loại.
Ngoài Requiem, Mozart còn viết một số lớn các tác phẩm tế lễ, hầu hết đều
trong giai đoạn ông làm việc ở Salzburg. Chúng bao gồm khoảng 15 khúc Mass,
Litany, Vesper và Offertory. Là một sự thu gọn các thành quả của ông về âm
nhạc tôn giáo từ 1785 cho đến suốt một vài năm tiếp theo, Mozart đã ngày càng
tập trung đến âm nhạc Tam điểm, hầu như ngay khi sự bốc đồng tôn giáo mà
ông chưa bao giờ có thể diễn tả một cách đầy đủ trong âm nhạc tế lễ được lái
sang khuynh hướng mới này. Mozart đã trở thành một hội viên của hội Tam



điểm vào năm 1784. Ban đầu, Mozart cũng ít quan tâm đến hoạt động của hội
này, nhưng khi công chúng trở nên thờ ơ với tác phẩm của ông, ông mới thấy
rằng sự hỗ trợ tài chính mà các hội viên hội Tam điểm có thể mang lại cho ông
là rất có ích. Các sáng tác của ông trong giai đoạn này bao gồm cantata Dir,
Seele des Weltalls (K.429), trình diễn khi Mozart được bầu vào hội Tam điểm,
cantata Die

Maurerfreude (K.471)

trình

diễn

ngày

24/4/1785,

cantata Maurerische Trauermusik (K.477), trình diễn ngày 17/11/1785, và bản
cantata cuối cùng, Masonic Cantata (K.623) được Mozart hoàn thành vào tháng
11/1791.
Bài thánh ca nhỏ giọng Rê trưởng Ave verum corpus, K.618 của ông là một tác
phẩm rất đáng được đặc biệt nhắc đến. Đây là một tuyệt tác được viết từ mùa hè
năm 1791 ngay trước khi ông bắt đầu viết Requiem. Nó được sáng tác cực kỳ
nhanh để dùng làm âm nhạc cho lễ hội Corpus Christi tại nhà thờ St Stephen ở
Baden. Mặc dù chỉ có 46 ô nhịp, bài thánh ca nhỏ nhắn này vẫn kết hợp được
tính nghiêm trang với tính đơn giản đến lạ thường, và đây có lẽ là một sự thể
hiện rất tiêu biểu cho "tính đơn giản" kỳ diệu trong tác phẩm của Mozart, thiên
tài âm nhạc có một không hai.
Di sản âm nhạc thính phòng của Mozart thực sự là khổng lồ, hầu hết là các tác
phẩm được nhận viết cho những vị trưởng giả hoặc những người bảo trợ có địa

vị cao. Nhạc thính phòng của Mozart bao gồm các divertimento, serenade,
norturne và các vũ điệu dành cho hội hóa trang vốn rất thịnh hành ở thời kỳ đó.
Một ví dụ nổi tiếng là bản Serenade giọng Son trưởng,Eine kleine
Nachtmusik (Một khúc nhạc đêm nhỏ) viết cho dàn dây, K.525, hoàn thành vào
19/8/1787, một tác phẩm thông minh và tươi tắn mang một sự duyên dáng và
hấp dẫn được điều chỉnh đôi chút với chủ đích là để tiếp cận sát với hình thức bề
ngoài của nó. Bản divertimento nổi tiếng Ein Musikalischer Spass (Một trò vui
âm nhạc), K.522 được viết trước Serenade chỉ một thời gian ngắn, có lẽ là tiểu
phẩm nổi tiếng nhất của ông.


Trong suốt thời kỳ này ông cũng hoàn thành một số lớn lied cho giọng hát và
piano, bao gồm Abendempfindung, K.523, An Cloe, K.524 và Das Veilchen),
K.476 dựa trên các câu thơ của Geothe. Lied cuối cùng này là rất đáng chú ý bởi
vì nó đã vượt ra khỏi các quy tắc được chấp nhận trong nền thanh nhạc thế kỷ
18. Mozart đã rút ra được những thành ngữ mới từ nhạc kịch của thời ông và
thêm vào một chức năng diễn tả mới cho lied, việc làm này đã được tiếp tục phát
triển bởi Franz Schubert trong thế kỷ tiếp theo.
Nhiều Lieder khác đã được sáng tác sau khi Mozart được bổ nhiệm làm "Nhà
soạn nhạc hoàng cung" ở Vienna (một cái mác nghe rất kêu mà thực ra chỉ có
nghĩa rằng ông phải viết một số lượng nhất định các điệu nhảy mỗi năm cho các
buổi khiêu vũ và hội họp ở cung điện). Ngoài sáu bản Tứ tấu dây nổi tiếng đề
tặng Haydn và các tác phẩm khác được viết cho Frederick Wilhehm của nước
Phổ, các tác phẩm thính phòng xuất sắc nhất bao gồm ngũ tấu dây Son thứ năm
1787, Ngũ tấu Clarinet năm 1789 mà vẻ đẹp của giai điệu được gắn liền với bản
Concerto cho Clarinet giọng La trưởng, K.622, viết năm 1791. Cũng không nên
bỏ sót các Sonata cho violin và piano của ông đó là những hình mẫu tuyệt vời
của thể loại sonata đối với một trong những yêu cầu khắt khe nhất của sự phối
hợp nhạc cụ.
Số lượng tác phẩm khổng lồ của Mozart cũng bao gồm các tác phẩm viết trong

giai đoạn vô cùng nghèo túng của ông, là những tác phẩm thành công trong việc
điều hòa giữa tính phù phiếm cốt yếu của mục đích với cái độc đáo phi thường
của tư tưởng. Vì vậy, Mozart vĩ đại có thể viết nhạc cho những cây đàn ống cơ
học dựng trong lòng những cái đồng hồ, như bản Fantasia nổi tiếng giọng Pha
thứ, K. 608 sáng tác ngày 3/3/1790 hay bản Andante, K. 616 viết ngày 4/5 cùng
năm. Cũng có cả âm nhạc cho kèn acmônica thủy tinh, một nhạc cụ làm bằng
thủy tinh điều chỉnh ở nhiều âm độ, sẽ “hát lên" khi người chơi chà xát những
đầu ngón tay ẩm ướt quanh miệng kèn. Bản Adagio và Rondo, K. 617 là một
kiệt tác cho nhạc cụ này hoặc là một "phương tiện". Chưa hết, khi đã cất được
gánh nặng nghèo khó, mặc dù ngắn ngủi, sự vĩ đại của ông tự nó lại được xác


nhận đầy đủ và ở giai đoạn cuối của cuộc đời, ông đã đạt được sự thể hiện tuyệt
vời nhất trong các tác phẩm thanh nhạc vĩ đại như Le nozze di
Figaro (1786), Don Giovanni (1790) và Die Zauberflöte (1791, năm ông mất).
Ngoại trừ Requiem, âm nhạc của Mozsart đặc biệt vui vẻ và dường như không
hề báo hiệu cái chết của ông, không kể ý nghĩa gián tiếp rằng cái chết mang đến
sự giải thoát khỏi những lo âu của đời người.
Mozart là thần đồng, là thiên tài và là một hiện tượng âm nhạc, nhưng ông vẫn
là con người với đủ thất tình (hỉ, nộ, ai, lạc, ái, ố, dục). Ông là người Công giáo
nhưng vẫn có cuộc sống đời thường. Ông chỉ mượn âm nhạc để phản ánh các
dạng cảm xúc tinh tế của con người. Âm nhạc là tấm gương cho phép chúng ta
thấy được chính mình. Người ta soi vào thấy mình trong âm nhạc của Mozart
nên những bản nhạc của ông trở nên bất hủ!
II. Turkish March – Hành khúc Thổ Nhĩ Kỳ, một trong những khúc nhạc
nổi tiếng nhất của Mozart.
1. Vị trí của bản nhạc Hành khúc Thổ Nhĩ Kỳ.
Theo danh mục tác phẩm của Wolfgang Amadeus Mozart, chỉ riêng trong mùa
hè năm 1778, ông đã viết tới 5 bản sonata cho đàn piano (các bản số 8 ; 10 ; 11 ;
12 và 13). Với thông lệ sáng tác sonata thời Cổ điển, chương đầu của một bản

sonata được viết theo hình thức sonata còn các chương tiếp theo có thể được viết
theo các hình thức khác. Nhưng Piano Sonata số 11, giọng La trưởng, K. 331. lại
là một biệt lệ vì không có chương nào trong số 3 chương ở hình thức sonata cả.
Chương thứ nhất gồm một chủ đề cùng sáu biến tấu. Chương thứ hai, trung tâm
của tác phẩm, là một điệu minuet cùng một đoạn trio. Còn chương thứ ba ở hình
thức rondo “theo phong cách Thổ Nhĩ Kỳ” (Alla Turca).
Chương Alla Turca, còn được gọi là Turkish Rondo hay Turkish March (Hành
khúc Thổ Nhĩ Kỳ) thường được tách ra khỏi bản sonata để biểu diễn độc lập.
Chương nhạc ngắn nhất của bản sonata này đã trở thành một trong số những
khúc nhạc nổi tiếng nhất của Mozart. Hơn nữa, Turkish March còn là điển hình
cho một trào lưu ảnh hưởng phong cách thời Mozart - phong cách Thổ Nhĩ Kỳ.


Ngoài Piano Sonata số 11, Mozart cũng sử dụng phong cách Thổ Nhĩ Kỳ trong
một số tác phẩm khác như vở opera Die Entführung aus dem Serail (Bắt cóc
khỏi hậu cung) và Violin Concerto số 5.
2. Đặc điểm và kết cấu của Hành khúc Thổ Nhĩ Kỳ.
Phong cách Thổ Nhĩ Kỳ có lẽ là phong cách phương Đông đầu tiên ảnh hưởng
mạnh mẽ đến âm nhạc phương Tây. Phong cách Thổ Nhĩ Kỳ mà các nhà soạn
nhạc thời Cổ điển sử dụng hao hao phong cách của các ban quân nhạc đế chế
Ottoman, đặc biệt là các ban nhạc vệ binh vua Thổ (Turkish Janissary bands).
Âm thanh đặc trưng của những ban nhạc này là sự kết hợp giữa trống trầm,
chuông, kẻng tam giác, cymbal và các nhạc cụ khác.
Một nhân tố quan trọng thúc đẩy ảnh hưởng của phong cách âm nhạc Thổ đến
âm nhạc châu Âu xảy ra vào năm 1699 khi hai đế chế Áo và Ottoman đàm phán
Hiệp ước Karlowitz. Để ăn mừng việc ký kết thành công Hiệp ước, đoàn ngoại
giao Thổ mang theo một ban nhạc vệ binh vua Thổ cùng những nghệ sĩ biểu
diễn khác tới Vienna để trình diễn trong một vài ngày.
Những mô phỏng phong cách Thổ Nhĩ Kỳ xảy ra trước tiên ở các ban quân nhạc
châu Âu. Rồi nhiều nhà soạn nhạc cổ điển châu Âu ở thế kỉ 18 cũng bị hấp dẫn

bởi phong cách này, đặc biệt là vai trò quan trọng được giao cho các nhạc cụ bộ
đồng và bộ gõ trong các ban quân nhạc Thổ.
Cuối thế kỷ 18, đầu thế kỉ 19, âm nhạc theo phong cách Thổ Nhĩ Kỳ phổ biến
đến mức những nhà làm đàn piano đã chế tạo ra những chiếc piano đặc biệt có
“cần bấm Thổ” hay còn gọi là “cần bấm quân đội”, “cần bấm Janissary". Khi
người chơi nhấn cần bấm này, một chiếc chuông sẽ rung lên hoặc một búa có
đệm lót sẽ đập vào bảng cộng hưởng để mô phỏng tiếng trống trầm. Ở một số
đàn piano, cả hai hiệu ứng này đều xảy ra khi sử dụng cần bấm. Theo Edwin M.
Good, “cần bấm Thổ” rất phổ biến để chơi Turkish March của Mozart và khá
nhiều nghệ sĩ piano thời đó hân hoan sử dụng cần bấm này để điểm tô cho tác
phẩm.


Âm nhạc cổ điển theo phong cách Thổ Nhĩ Kỳ luôn có nhịp điệu sôi nổi và
thường là một kiểu hành khúc. Mozart đã dùng những hợp âm rải tốc độ nhanh
bằng tay trái trên piano để mô phỏng tiếng trống trầm trong Turkish March sôi
nổi của mình. Bản Turkish March với nhịp điệu allegro của hành khúc đã dần
dần đi vào lòng người nghe, tạo lên cảm giác vui tươi, yêu đời, tạo lên một sức
mạnh tinh thần mới mẻ, tươi tắn khi bước vào cuộc sống, làm lên những điều có
ích.



×