Tải bản đầy đủ (.doc) (26 trang)

đề tài '''' phân tích và bình luận diễn biến lãi suất ở nước ta trong giai đoạn 2007-2010 ''''

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (585.94 KB, 26 trang )

ĐẠI HỌC HUẾ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ HUẾ
  
Đề tài: PHÂN TÍCH VÀ BÌNH LUẬN
DIỄN BIẾN LÃI SUẤT Ở NƯỚC TA
TRONG GIAI ĐOẠN 2007-2010
Giảng viên: Nguyễn Hồ Phương Thảo

Nhóm sinh viên thực hiện:
1. Võ Thị Hương Hải
2. Nguyễn Thị Thanh Xuân
3. Lưu Thị Vân Anh
4. Nguyễn Châu Quỳnh Trang
5. Tạ Thị Hân
6. Đặng Thị Thúy
7. Hồ Văn Tình
MỤC LỤC
A. Lời mở đầu.
B. Nội dung.
I. Khái niệm về lãi suất, các loại lãi suất và vai trò của lãi suất
trong nền kinh tế
1. Khái niệm về lãi suất
2. Các loại lãi suất chủ yếu
3. Vai trò của lãi suất trong nền kinh tế
II. Diễn biến lãi suất ở nước ta từ năm 2007 đến 2010
1. Lãi suất cơ bản
2. Lãi suất ngoại tệ
3. Lãi suất liên ngân hàng
III. Ảnh hưởng của lãi suất đến nền kinh tế
1. Ảnh hưởng của lãi suất đến thị trường chứng khoán
2. Ảnh hưởng của lãi suất đến thị trường bất động sản


C. Kết luận
LỜI MỞ ĐẦU
Lãi suất là một trong những biến số kinh tế vĩ mô hết sức quan trọng
trong nền kinh tế thị trường, một công cụ trong việc điều hành chính sách
tiền tệ của quốc gia. Mỗi sự thay đổi của lãi suất đều tác động trực
tiếp hay gián tiếp đến các hoạt động của nền kinh tế như các hoạt
động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp, hành vi tiết kiệm và
đầu tư của công chúng, hoạt động xuất nhập khẩu và đầu tư nước
ngoài. Do đó kéo theo sự thay đổi của các chỉ tiêu kinh tế vĩ mô khác
như lạm phát, tăng trưởng thất nghiệp Bên cạnh đó lãi suất còn
được xem như là một công cụ để điều hoà mối quan hệ lợi ích giữa
các chủ thể trong nền kinh tế, mỗi sự tăng hay giảm của lãi suất sẽ
kéo theo sự khuyến khích lợi ích vật chất đối với chủ thể kinh tế này
đồng thời hạn chế lợi ích của chủ thể kinh tế khác. Lãi suất có thể sẽ
thúc đẩy sự phát triển của ngành, lĩnh vực này đồng thời kiềm chế sự
phát triển của các ngành lĩnh vực khác, tăng lợi ích của nhóm người
này, giảm lợi ích của nhóm người kia. Lãi suất còn là công cụ tạo ra
các kênh chu chuyển nguồn lực xã hội từ ngành lĩnh vực này, sang
ngành lĩnh vực khác, từ vùng này sang vùng khác. Do đó tạo ra sự
thay đổi cơ cấu vùng, cơ cấu ngành của nền kinh tế
Chính vì lãi suất có một vai trò hết sức quan trọng như vậy vì thế
tình hình biến động lãi suất là một vấn đề mà hầu hết mọi người đều
rất quan tâm và được theo dõi hằng ngày.
A. KHÁI NIỆM VỀ LÃI SUẤT,CÁC LOẠI LÃI SUẤT VÀ
VAI TRÒ CỦA LÃI SUẤT TRONG NỀN KINH TẾ
I. KHÁI NIỆM VỀ LÃI SUẤT
-Lãi suất: là tỷ lệ của tổng số tiền phải trả so với tổng số tiền vay trong
một khoảng thời gian nhất định. Lãi suất là giá mà người vay phải trả để
được sử dụng tiền không thuộc sở hữu của họ và là lợi tức người cho vay có
được đối với việc trì hoãn chi tiêu.

II. CÁC LOẠI LÃI SUẤT CHỦ YẾU
-Lãi suất cơ bản
Lãi suất cơ bản (prime rate), còn gọi là prime được các ngân hàng
thương mại tầm cỡ tại các trung tâm tài chính chủ lực của một nền kinh tế
công bố và áp dụng đối với các khoản nợ dành cho các doanh nghiệp là
khách hàng lớn.
-Lãi suất tiết kiệm
Lãi suất tiết kiệm (passbook rate): là lãi suất được xác lập bởi hoạt động
tiết kiệm giữa khách hàng ký thác với ngân hàng hoặc các tổ chức phát triển
gia cư. Các định chế tài chính này được lập ra chủ yếu huy động vốn để cho
vay phục vụ cho mục đích phát triển bất động sản.
-Lãi suất huy động nóng
Lãi suất huy động nóng hay có thể gọi là lãi suất qua đêm (federal funds
rate): là loại lãi suất được xác lập bởi thị trường cho vay tạm thời các khoản
nợ để đáp ứng cân đối dự trữ theo luật định mà các ngân hàng thương mại
phải duy trì tại Ngân hàng Trung ương. Những ngân hàng có cân đối dự trữ
vượt yêu cầu có thể sử dụng khoản vượt này để cho các ngân hàng bị hụt
vay tạm.
-Lãi suất chiết khấu của Ngân hàng Trung ương
Lãi suất chiết khấu (discount rate): là lãi suất được thu trên các khoản
tiền mà Ngân hàng Trung ương cho các ngân hàng thành viên trong hệ thống
vay.
-Lãi suất danh nghĩa
Lãi suất danh nghĩa, là thuật ngữ tài chính và kinh tế học để chỉ tỷ lệ lãi
trên giá trị danh nghĩa của một khoản tiền vay hoặc đầu tư với hàm ý nó là
tỷ lệ lãi chưa được điều chỉnh ảnh hưởng của lạm phát hoặc ảnh hưởng của
việc tính lãi kép.
III.VAI TRÒ CỦA LÃI SUẤT TRONG NỀN KINH TẾ
1.Lãi Suất với quá trình huy động vốn
Lý thuyết và thực tiễn đều cho thấy để phát triển kinh tế cần phải có vốn

và thời gian. Các nước tư bản phát triển phải mất hàng trăm năm phát triển
công nghiệp và quá trình lâu dài tích tụ vốn từ sản xuất và tiêu dùng. Đối với
Việt Nam trên con đường phát triển kinh tế thì vấn đề tích luỹ và sử dụng
vốn có tầm quan trọng đặc biệt cả về phương pháp nhận thức và chỉ đạo thực
tiễn. Vì vậy chính sách lãi suất có vai trò hết sức quan trọng trong việc huy
động nguồn vốn nhàn rỗi trong xã hội và định các tổ chức kinh tế đảm bảo
đúng định hướng vốn trong nước là quyết, vốn ngoài nước là quan trọng
trong chiến lược CNH-HĐH nước ta hiện nay.
Việc áp dụng một chính sách lãi suất hợp lý đảm bảo nguyên tắc: lãi suất
phải bảo tồn được giá trị vốn vay, đảm bảo tích luỹ cho cả người cho vay và
người đi vay.
Cụ thể:
+Tỷ lệ lạm phát lãi suất tiền gửi ( lãi suất tiền vay) tỷ suất lợi nhuận bình
quân.
+Lãi suất ngắn hạn lãi suất dài hạn (đối với cả tiền gửi và tiền vay)
2.Lãi suất với quá trình đầu tư
Quá trình đầu tư của doanh nghiệp vào tài sản cố định được thực hiện khi
họ dự tính lợi nhuận thu được từ taì sản cố định này nhiều hơn số lãi phải trả
cho các khoản đi vay để đầu tư. Do đó khi lãi suất xuống thấp các hãng kinh
doanh có điều kiện tiến hành mở rộng đâu tư và ngược lại. Trong môi trường
tiền tệ hoàn chỉnh, ngay cả khi một doanh nghiệp thừa vốn thì chi tiêu đầu tư
có kế hoạch vẫn bị ảnh hưởng bởi lãi suất, bởi vì thay cho việc đầu tư vào
mở rộng sản xuất doanh nghiệp có thể mua chứng khoán hay gửi vào ngân
hàng nếu lãi suât của nó cao
Đặc biệt trong thời kỳ nền kinh tế bị đình trệ, hàng hoá ứ đọng và xuống
giá, có dấu hiệu thừa vốn và áp lực lạm phát thấp cần phải hạ lãi suất vì
nguyên tắc cơ bản là lãi suất phải nhỏ hơn lợi nhuận bình quân của đầu tư,
sự chênh lệch này sẽ tạo động lực cho các doanh nghiệp mở rộng quy mô
đầu tư.
Mối quan hệ giữa đầu tư và lãi suất được thể hiện qua đồ thị sau:

Hình 1
3.Lãi suất với tiêu dùng và tiết kiệm
Thu nhập của một hộ gia đình thường được chia thành hai bộ phận: tiêu
dùng và tiết kiệm. Tỷ lệ phân chia này phụ thuộc vào nhiều nhân tố như thu
nhập, vấn đề hàng hoá lâu bền và tín dụng tiêu dùng, hiệu quả của tiết kiệm
trong đó lãi suất có tác dụng tích cực tới các nhân tố đó.
4.Lãi suất với tỷ giá hối đoái và hoạt động xuất nhập khẩu
Tỷ giá chịu ảnh hưởng của sự thay đổi lãi suất tiền gửi nội tệ và ngoại tệ.
Sự thay đổi lãi suất tiền gửi nội tệ ở đây là sự thay đổi trong lãi suất danh
nghĩa. Nếu lãi suất danh nghĩa tăng do tỷ lệ lạm phát tăng (lãi suất thực
không đổi) thì tỷ giá giảm. Nếu lãi suất danh nghĩa tăng do lãi suất thực tế
tăng (tỷ lệ lạm phát không đổi) thì tỷ giá tăng. khi tỷ giá đồng ngoại tệ tăng
đồng nội tệ sẽ giảm giá (tỷ giá giảm) và ngược lại.
+Vai trò của lãi suất trong nước với quá trình Xuất Nhập Khẩu: khi lãi
suất thực tế tăng lên làm cho tỷ giá hối đoái tăng lên. tỷ giá hối đoái cao hơn
làm hàng hoá của nước đó ở nước ngoài trở nên đắt hơn lên và hàng hoá
nước ngoài ở nước đó sẽ trở nên rẻ hơn, dẫn đến giảm xuất khẩu ròng. Mối
quan hệ này được biểu thị bởi đồ thị sau:
Hình 2
+Vai trò của lãi suất nước ngoài với xuất khẩu ròng:
Khi lãi suất tiền gửi bằng ngoại tệ tăng lên, đường lợi tức dự tính của
đồng ngoại tệ dịch chuyển sang phải làm giảm tỷ giá hối đoái. Hàng xuất
khẩu trở nên rẻ hơn so với các quốc gia khác.
5.Lãi suất với lạm phát
Lý luận và thực tiễn đã thừa nhận mối quan hệ chặt chẽ giữa lãi suất và
lạm phát. Fishes chỉ ra rằng lãi suất tăng cao trong thời kỳ lạm phát, do đó
lãi suất được sử dụng để điều chỉnh lạm phát cụ thể tăng lãi suất, thu hẹp
được lượng tiền trong lưu thông, lạm phát được kìm chế
6.Lãi suất với quá trình phân bổ các nguồn lực
Tất cả các nguồn lực đều có tính khan hiếm. Vấn đề là xã hội phải phân

bổ và sử dụng các nguồn lực sao cho hiệu quả. Nghiên cứu trong nền kinh tế
thị trường cho thấy giá cả đóng vai trò cực kỳ quan trọng trong việc phân bổ
các nguồn lực giữa các ngành kinh tế. Như ta đã biết, lãi suất là một loại giá
cả, nghĩa là lãi suất có vai trò phân bổ hiệu quả các nguồn lực khan hiếm của
xã hội. Để quyết định đầu tư vào một ngành kinh tế một dự án hay một tài
sản nào đó chúng ta đều phải quan tâm đến sự chênh lệch giữa giá trị tỷ suất
lợi tức thu được với chi phí ban đầu. Có nghĩa là phải xem việc đầu tư này
có mang lại lợi nhuận hay không và có đảm bảo hiệu quả kinh doanh để trả
khoản tiền lãi của số tiền vay cho chi phí ban đầu hay không. Khi quyết định
đầu tư vào một ngành kinh tế, một dự án hay một tài sản ta phải quan tâm tới
chênh lệch giữa lợi nhuận đem lại và số tiền vay phải trả. Khi chênh lệch
này là dương, thì nguồn lực sẽ được phân bổ tới đó và là sự phân bổ hiệu
quả.
7.Lãi suất vai trò của nó đối với Ngân Hàng Thương mại
NHTM với hai nghiệp vụ chính trong hoạt động kinh doanh của mình là
huy động vốn và sử dụng vốn đã phản ánh quy mô hoạt động của các
NHTM. Với phương châm “đi vay để cho vay”, NHTM huy động vốn tạm
thời nhàn rỗi trong các doanh nghiệp và dân cư để cho vay phát triển kinh tế
và các nhu cầu tiêu dùng khác của nhân dân. Để huy động vốn và cho vay có
hiệu quả, NHTM phải xác định lãi suất tiền gửi và lãi suất tiền vay một cách
hợp lý. Nếu lãi suất huy động tiền gửi quá thấp thì không khuyến khích các
doanh nghiệp và dân cư gửi tiền vào, dẫn đến NHTM không đủ vốn cho vay
để đáp ứng yêu cầu khách hàng. Lãi suất Ngân hàng là nhân tố quan trọng
quyết định kết quả hoạt động kinh doanh của NHTM và khách hàng. Nếu lãi
suất hợp lý sẽ là đòn bẩy quan trọng thúc đẩy sản xuất lưu thông hàng hoá
phát triển và ngược lại.
B. DIỄN BIẾN LÃI SUẤT Ở NƯỚC TA TỪ NĂM 2007
ĐẾN NĂM 2010
I. Lãi suất cơ bản
Năm 2007

Ngân hàng Nhà nước Việt Nam ra Thông báo số 11359/TB-NHNN về
một số mức lãi suất bằng đồng Việt Nam, áp dụng từ ngày 1-1-2007. Theo
đó, lãi suất cơ bản bằng VND là 0,6875%/tháng (8,25%/năm).
Như vậy, lãi suất cơ bản của VND trong năm 2006 không thay đổi, và
tiếp tục được giữ ổn định trong tháng đầu tiên của năm 2007.
Lãi suất tái cấp vốn của Ngân hàng Nhà nước đối với các tổ chức tín
dụng từ ngày 1-1-2007 cũng được giữ ổn định ở mức 6,5%/năm; lãi suất
chiết khấu của Ngân hàng Nhà nước đối với các tổ chức tín dụng là
4,5%/năm.
Tính đến thời điểm cuối năm, mức lãi suất huy động cao nhất đối với
VND được các ngân hàng thương mại áp dụng là 0,82%/tháng đối với kỳ
hạn 1 năm.
Năm 2008
Năm 2007, lãi suất cơ bản được giữ ở mức ổn định không biến động
nhiều. Đến năm 2008, do nền kinh tế thế giới khủng hoảng đã tác động
mạnh mẽ đến nền kinh tế Việt Nam, đặc biệt là ảnh hưởng đến lãi suất.
Thị trường ngân hàng trong nước đã trải qua những biến động chưa
từng có về lãi suất, tỷ giá
Đây cũng là một năm đáng nhớ trong hoạt động của các ngân hàng, khi
phải trải qua những khó khăn không nhỏ.
Chính sách tiền tệ từ định hướng thắt chặt và linh hoạt nửa đầu năm 2008
chuyển dần sang nới lỏng một cách thận trọng những tháng cuối năm. Đi
cùng với quá trình này là tần suất điều chỉnh các công cụ điều hành chưa
từng có của Ngân hàng Nhà nước, tập trung ở các lãi suất chủ chốt, tỷ lệ dự
trữ bắt buộc và biên độ tỷ giá.
Tính chung cả năm, Ngân hàng Nhà nước đã 3 lần tăng và 5 lần giảm lãi
suất cơ bản. Lãi suất tái cấp vốn, lãi suất tái chiết khấu cũng có tần suất điều
chỉnh tương ứng. Tỷ lệ dự trữ bắt buộc có 1 lần tăng trong tháng 2, 4 lần
giảm trong 3 tháng cuối năm (2 lần giảm đối với dự trữ bằng ngoại tệ). Lãi
suất tiền gửi dự trữ bắt buộc có 5 lần điều chỉnh (3 lần tăng, 2 lần giảm).

Cơ chế điều hành tỷ giá cũng ghi nhận những điều chỉnh chưa từng có
trong lịch sử. Biên độ có 3 lần nới rộng, từ +/-0,75% lên +/-3%; tỷ giá bình
quân liên ngân hàng có 2 lần điều chỉnh mạnh, vào tháng 6 và cuối tháng 12.
Một công cụ được Ngân hàng Nhà nước sử dụng đến, cũng là một sự
kiện nổi bật trong năm 2008, là đợt phát hành 20.300 tỷ đồng tín phiếu bắt
buộc (17/3). Đi cùng với kế hoạch này, nhà điều hành đã 2 lần điều chỉnh lãi
suất cho tín phiếu, 1 lần tăng từ 7,8% lên 13%, tháng 12 giảm xuống còn
4,5%.
Nếu chỉ nhìn đơn giản thì lãi suất cơ bản chỉ tăng nhẹ từ 8,25% vào tháng
12/2007 lên 8,5% cuối năm 2008. Tuy nhiên nhìn biểu đồ lãi suất cơ bản
năm 2008 thì rõ ràng đây không phải sự điều chỉnh "cơ học" giản đơn như
vậy.
Diễn biến lãi suất năm 2008
Năm 2008 có thể được coi là năm của lãi suất khi lãi suất biến động trái
chiều với một biên độ lớn chỉ trong vòng 12 tháng. Diễn biến lãi suất trong
năm 2008 gồm 2 giai đoạn chính: Cuộc đua tăng lãi suất của các ngân hàng
vào nửa đầu năm 2008 và một cuộc đua khác theo chiều hướng ngược lại,
đua giảm lãi suất, dù mức độ quyết liệt kém hơn. Những sự kiện lớn đối với
diễn biến lãi suất năm 2008 diễn ra như sau:
6 tháng đầu năm 2008, lãi suất tăng mạnh :
Từ mức lãi suất tháng 1 là 8,5%, các ngân hàng bắt đầu vào cuộc đua lãi
suất, khởi đầu là các ngân hàng thương mại ngoài quốc doanh.
Cuối tháng 4, đầu tháng 5/2008 một loạt ngân hàng gặp khó khăn thanh
khoản. Cùng với việc nâng lãi suất cơ bản từ 8,75% (ngày 1/2) lên 12%
(ngày 19/5), NHNN đã ấn định lãi suất kinh doanh bao gồm lãi suất huy
động vốn và lãi suất cho vay bằng VNĐ không vượt quá 150% của lãi suất
cơ bản mà NHNN công bố áp dụng cho từng thời kỳ.
Đến ngày 20/5, đã có 100% ngân hàng thương mại tăng lãi suất. Trong
ngày 19/5, ngày đầu tiên thực hiện cơ chế mới, như dự báo trước đó, đỉnh lãi
suất liên tục bị đánh đổ.

Đỉnh đầu tiên phổ biến ở mức 14%/năm, tập trung ở khối ngân hàng cổ
phần có quy mô lớn. Đỉnh nối tiếp là 15%/năm, phổ biến trên thị trường lúc
đó và tập trung ở phần lớn các ngân hàng cổ phần, nhiều thành viên đồng
loạt đẩy mức huy động trong dân cư lên tới trên 19%/năm, cá biệt có trường
hợp áp tới 20%/năm. Các ngân hàng quốc doanh còn lại chủ yếu áp
13,8%/năm là mức cao nhất.
Lãi suất tăng cao đến đỉnh điểm vào tháng 6 năm 2008 là 18,5%. Hiện
tượng người dân rút tiền từ ngân hàng có lãi suất thấp chuyển sang ngân
hàng có lãi suất cao xuất hiện. Đây là lý do để có ngân hàng buộc phải cấp
tốc điều chỉnh lãi suất. Có nhiều nguyên nhân khác nhau:
Nguyên nhân: Do rủi ro tín dụng, rủi ro lãi suất, rủi ro thị trường… do
lạm phát trong nước cao 19.39% vào 1/2008. Ảnh hưởng khủng hoảng tài
chính Mỹ làm khả năng trả nợ của khách hàng giảm sút khiến các NH không
muốn đẩy mạnh cho vay mà chú trọng vào việc bảo đảm an toàn hoạt động.
Mặc khác kinh tế Việt Nam phụ thuộc quá nhiều vào nguồn nguyên vật
liệu thế giới. Cú sốc giá lương thực thực phẩm, giá dầu, giá phôi thép, giá
phân bón… khiến hàng nội địa tăng giá chóng mặt trong nửa đầu năm 2008.
Trước tình hình đó NHNN thắt chặt chính sách tiền tệ bằng cách tăng tỷ lệ
dự trữ bắt buộc từ 10% lên 11%/năm và nâng lãi suất cơ bản từ 8.25% lên
8.75%/năm kể từ 01/02/2008 lãi suất huy động có lúc lên trên 20%, lãi suất
cho vay cũng tăng lên ở mức tương ứng, rút tiền khỏi thị trường thông qua
việc phát hành 20,300 tỷ đồng tín phiếu bắt buộc 17/03/2008, đồng thời
buộc Kho bạc rút 50.000 tỷ từ các Ngân hàng Thương mại làm cho tính
thanh khoản của các ngân hàng bị chặn đột ngột điều này gây ra tình trạng
thiếu vốn trầm trọng thể hiện rõ qua làn sóng đua nhau tăng lãi suất huy
động vốn trong toàn hệ thống ngân hàng.
Mặc dù tùy thuộc vào chiến lược của từng ngân hàng nhưng nhìn chung
các ngân hàng đều gặp phải sự mất cân đối giữa các kỳ hạn vốn huy động và
cho vay. Trong tổng số dư tiền gửi tại các ngân hàng, có tới 80% là tiền gửi
có kỳ hạn ngắn (dưới 6 tháng). Nhưng nhu cầu vốn cho sản xuất, kinh doanh

và đầu tư phát triển lại rất lớn với kỳ hạn thường kéo dài từ 1 năm trở
lên. Trong khi đó, thị trường chứng khoán và thị trường trái phiếu chưa phát
triển nên gánh nặng về nguồn vốn trung và dài hạn chủ yếu dồn lên vai các
ngân hàng thương mại. Để thu hút nguồn vốn các ngân hàng đã tăng lãi suất
để thu hút vốn.
Thêm vào đó, sự ấm lên của thị trường chứng khoán và thị trường bất
động sản cũng có tác động nhất định đến nguồn vốn huy động của các ngân
hàng. “Một nguồn vốn không nhỏ đã dịch chuyển từ ngân hàng sang các
kênh đầu tư này”. Và cũng không phải ngẫu nhiên có những khoản vay trong
các chương trình cho vay tiêu dùng của các ngân hàng với lãi suất khá cao
đổ vào thị trường chứng khoán và thị trường bất động sản. Đó là chưa kể
những đợt sóng trên thị trường vàng và thị trường ngoại hối cũng khiến nhà
đầu tư “sốt sắng” tham gia.
Không chỉ vậy vào cuối năm 2007 đầu năm 2008 nhằm phục vụ cho các
nhu cầu tiêu dùng và nhu cầu kinh doanh mùa cuối năm của khách hàng, nếu
các ngân hàng cổ phần không tăng lãi suất sẽ khó thu hút được nguồn vốn
nhàn rỗi trong dân chúng, vì lạm phát tăng cao đã khiến người gửi tiết kiệm
phải chịu lãi suất âm
6 tháng cuối năm lãi suất giảm mạnh:
Bắt đầu từ tháng 7 trở đi, các ngân hàng lại bước vào cuộc đua lãi suất
mới nhưng với xu hướng ngược lại so với 6 tháng đầu năm. Cuộc đua ban
đầu chỉ mới nhích nhẹ từ 18,5% xuống còn 17,5% và bắt đầu giảm mạnh từ
tháng 10 năm 2008.
Đặc biệt từ tháng 9 đến cuối năm, gắn với những điều chỉnh các lãi suất
chủ chốt của Ngân hàng Nhà nước, cả lãi suất huy động và cho vay dồn dập
giảm; ít nhất có 8 đợt điều chỉnh trên diện rộng. Từ đỉnh điểm trên
19%/năm, lãi suất huy động VND rút về quanh mốc 8%/năm; lãi suất cho
vay tối đa từ 21%/năm về còn 12,75%/năm.
Tín hiệu tích cực từ lạm phát và chuyển biến kinh tế vĩ mô cũng là cơ sở
để có được sự điều chỉnh này. Lạm phát có chiều hướng giảm - Do dư nợ

tăng thấp nên vốn khả dụng VND dư thừa tương đối nhiều, cộng thêm tình
hình kinh tế có dấu hiệu giảm phát, các Ngân hàng đã liên tục hạ Lãi suất
tiền gửi VND. Từ 16,5%- 17,5%/năm giảm về từ 10,5%-14,5%/năm.
Trên cơ sở xem xét các nhu cầu tín dụng, cân đối khả năng huy động
cũng như yêu cầu quản trị…, các ngân hàng đã có quyết định phù hợp với
trường hợp của
Năm 2009
Năm 2009, lãi suất huy động và cho vay bằng VNĐ có xu hướng tăng.
Trong đó, lãi suất huy động tăng cao hơn so với mức tăng lãi suất cho vay,
dẫn đến chênh lệch giữa lãi suất huy động-cho vay có xu hướng bị thu hẹp
Lãi suất huy động VNĐ trong 2 tháng đầu năm 2009 có xu hướng giảm
khoảng 1-2%/năm so với cuối năm 2008. Tuy nhiên, từ cuối tháng 2-2009,
lãi suất huy động VNĐ luôn có xu hướng tăng, chủ yếu do nhu cầu vay vốn
tín dụng lớn để triển khai các cơ chế hỗ trợ lãi suất, các doanh nghiệp và hộ
sản xuất thực hiện các phương án sản xuất-kinh doanh, dự án đầu tư theo
chương trình kích thích đầu tư của chính phủ, các NHTM khó khăn trong
việc cân đối vốn huy động từ thị trường để cho vay. Đến 31/12/2009 mặt
bằng lãi suất huy động của các kỳ hạn một tháng trở lên ở mức 10-
10,49%/năm
Lãi suất cho vay VNĐ trong 2 tháng đầu năm 2009 giảm khoảng 1,5-
2.5%/năm so với cuối năm 2008 và tương đối ổn định đến hết tháng 11-
2009, nhưng luôn sát mức lãi suất cho vay tối đa là 10,5%/năm. Từ ngày
1/12/ 2009, sau khi NHNN điều chỉnh tăng lãi suất cơ bản từ 7% lên
8%/năm, các tổ chức tín dụng điều chỉnh lãi suất cho vay lên mức tối đa
12%/năm. Đối với các nhu cầu phục vụ vốn, đời sống và cho vay thông qua
nghiệp vụ phát hành và sử dụng thẻ tín dụng, lãi suất cho vay ở mức cao hơn
lãi suất cho vay thông thường khoảng 3-5%/năm. Đến 31/12/2009, lãi suất
cho vay thông thường phổ biến ở mức 12%/năm, lãi suất cho vay các nhu
cầu vốn phục vụ đời sống cho vay thông qua thẻ tín dụng phổ biến ở mức
15-17%/năm

Năm 2010
Do nhà nước có những chính sách hợp lý nên Lãi suất cơ bản tiền Đồng
VN năm 2010 tiếp tục ở mức 8%/năm.
NHNN quy định mức lãi suất cơ bản của Đồng Việt Nam là 8%/năm và
có hiệu lực thi hành từ ngày 1/10/2010. Đây là tháng thứ 11 liên tiếp, lãi suất
cơ bản bằng đồng Việt Nam được duy trì ổn định ở mức 8%/năm.
Chiều ngày 27/9/2010 Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) đã ban
hành quyết số 2281/QĐ-NHNN về mức lãi suất cơ bản bằng Đồng Việt
Nam.
Ngày 24/6/2010, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã ký Quyết
định số 1565/QĐ-NHNN quy định mức lãi suất cơ bản bằng đồng Việt Nam.
Theo đó, kể từ ngày 1/7/2010, mức lãi suất cơ bản bằng đồng Việt Nam
sẽ là 8%/năm.
Như vậy, kể từ ngày 1/12/2009 đến nay, lãi suất cơ bản bằng đồng Việt
Nam liên tục được duy trì ổn định.
Cùng ngày, theo Thông báo số 220/TB-NHNN ngày 24/6/2010, Ngân
hàng Nhà nước Việt Nam thông báo một số mức lãi suất áp dụng từ ngày
1/7/2010.
Cụ thể: lãi suất tái cấp vốn của Ngân hàng Nhà nước đối với các tổ chức
tín dụng là 8,0%/năm; lãi suất tái chiết khấu của Ngân hàng Nhà nước đối
với các tổ chức tín dụng là 6,0%/năm; lãi suất cho vay qua đêm trong thanh
toán điện tử liên ngân hàng và cho vay bù đắp thiếu hụt trong thanh toán bù
trừ của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đối với các ngân hàng là 8%/năm.
II. Lãi suất ngoại tệ
Năm 2007
+4 tháng đầu năm 2007: Lãi suất huy động USD: Lãi suất huy động
USD tăng khoảng 0,1-0,3%/năm so với cuối năm năm 2006, chủ yếu do nhu
cầu vay vốn bằng ngoại tệ tăng , lãi suất cho vay ít biến động. Cụ thể là
+6 tháng đầu năm 2007: lãi suất huy động USD tăng do một số NHTM
phát hành giấy tờ có giá với lãi suất cao hơn lãi suất tiết kiệm cùng kỳ hạn từ

0,05%-0,45%/năm , tháng 7/2007, nhiều NHTM cổ phần điều chỉnh tăng lãi
suất huy động từ 0,05-0,15%/năm nhằm mở rộng huy động vốn đáp ứng nhu
cầu vay ngoại tệ ngày càng tăng. tháng 8, một số NHTM có mức lãi suất
tương đối cao so với mặt bằng lãi suất chung đã điều chỉnh giảm nhẹ
0,1%/năm. 4 tháng cuối năm lãi suất huy động USD trong nước vẫn tương
đối ổn định do các TCTD tiếp tục huy động vốn bằng ngoại tệ để đáp ứng
nhu cầu vay vốn bằng ngoại tệ đang có xu hướng gia tăng, lãi suất huy động
USD phổ biến của nhóm NHTM nhà nước kỳ hạn 3 tháng là 4,2%/năm, 6
tháng là 4,5%/năm, 12 tháng là 4,85%/năm; lãi suất huy động của nhóm
NHTM cổ phần kỳ hạn 3 tháng là 4,6%/năm, 6 tháng là 4,8%/năm, 12 tháng
là 5,1%/năm.
Lãi suất cho vay:
Lãi suất cho USD tương đối ổn định. Lãi suất cho vay USD từ đầu năm
đến nay vẫn giữ ở mức 6%-7%/năm đối với cho vay ngắn hạn và 6,5%-
8%/năm đối với cho vay trung, dài hạn.
Năm 2008
Lãi suất tiền gửi bằng USD ở Việt Nam đang ở mức 7,2%/năm, cao hơn
1,95% so với mức lãi suất của trái phiếu chính phủ 1 năm của Mỹ là 5,25%.
Chênh lệch lãi suất quá lớn so với thị trường quốc tế đã tạo ra những bất cập
đòi hỏi sự can thiệp bằng chính sách.
Cuộc đua tăng lãi suất tiền gửi USD đã được phát động từ giữa tháng
3/2008, nhiều ngân hàng thương mại đã đẩy mức lãi suất tiền gửi bằng USD
lên mức cao kỷ lục là 7,2%/năm, sau nhiều năm lãi suất tiền gửi bằng USD
thấp và ổn định, lãi suất tiền gửi ngoại tệ có xu hướng tăng mạnh. Dường
như cuộc đua lần này cũng quyết liệt không kém cuộc đua lãi suất đồng nội
tệ trước đó. Đồng thời đối với ngoại tệ cũng lặp lại tình trạng lãi suất ngắn
hạn cao hơn lãi suất dài hạn và cũng bắt đầu từ các ngân hàng thương mại
nhỏ. Điều này đã được một số nhà phân tích kinh tế dự báo. Về cơ bản, hiện
tượng tăng lãi suất đồng ngoại tệ chỉ là hệ quả tất yếu của việc tăng lãi suất
đồng nội tệ và VND đang tăng giá. Với mức lãi suất tiền gửi ngoại tệ từ 6 –

6,5%/năm thì lãi suất vay phải ở mức 10-10,5%/năm. Điều gì sẽ xảy ra đối
với các doanh nghiệp? Khó có thể tưởng tượng được các doanh nghiệp lại có
thể vay với lãi suất này để đầu tư, ngoại trừ vay để nhập hàng tiêu dùng,
dược liệu, vật tư nông nghiệp và một số vật liệu xây dựng đang có mức tăng
giá đến chóng mặt. Hoặc là, các ngân hàng thương mại, chủ yếu là các ngân
hàng nhỏ đang gặp khó khăn về thanh khoản ngoại tệ trong đó có việc tăng
dự trữ bắt buộc đối với tiền gửi ngoại tệ. Thật may mắn nếu đó chỉ là di
chứng của cú sốc tiền tệ vừa qua. Còn nếu làn sóng này kéo dài, thì hậu quả
cũng tai hại không kém, thậm chí còn tệ hơn lãi suất nội tệ, bởi vì rủi ro hối
đoái trong trường hợp USD mạnh lên là rất lớn.
Lãi suất tiền gửi bằng USD tăng cao không làm cải thiện nhiều dòng vốn
chảy vào Việt Nam do ba nguyên nhân:
Một là, dòng vốn đầu tư gián tiếp (FII) vẫn đang bị quản lý chặt do vậy
lãi suất cao vẫn tiếp tục được duy trì do cung ngoại tệ vẫn khan hiếm trong
khi cầu ngoại tệ cho nhập khẩu tiếp tục leo thang.
Hai là, mục đích chuyển tiền qua tài khoản vãng lai chủ yếu để gửi tiền
cho người thân ở trong nước hoặc đang học tập ở nước ngoài, quy mô đầu
cơ lãi suất thông qua tài khoản vãng lai là rất thấp so với hoạt động đầu cơ
lãi suất của các tổ chức tài chính quốc tế được thực hiện qua tài khoản vốn.
Ba là, cuộc đua tăng lãi suất tiền gửi bằng USD gây rối loạn hoạt động
huy động ngoại tệ của ngân hàng thương mại. Lượng ngoại tệ vào nền kinh
tế không tăng mạnh do tài khoản vốn vẫn đang được kiểm soát chặt chẽ
trong khi các ngân hàng thương mại cổ phần thường đưa ra mức lãi suất cao
để thu hút ngoại tệ làm nguồn ngoại tệ có khuynh hướng rút khỏi các ngân
hàng có mức lãi suất tiền gửi bằng USD thấp (ngân hàng thương mại quốc
doanh) chuyển sang các ngân hàng thương mại cổ phần.
Năm 2009
Cung cầu ngoại tệ năm 2009 luôn có những diễn biến phức tạp, tạo nhiều
sức ép lên tỷ giá hối đoái, nguyên nhân chủ yếu là do tác động của các yếu
tố

-Thâm hụt cán cân thương mại
-Khủng hoảng tài chính toàn cầu tác động đến tâm lý nắm giữ ngoại tệ:
nhiều doanh nghiệp xuất khẩu găm giữ, không bán ngoại tệ nên NHTM
không đủ ngoại tệ điều hòa cho nền kinh tế
-Tác động của chính sách hỗ trợ lãi suất đối với các doanh nghiệp vay
bằng VNĐ: do lãi suất vay VNĐ thấp, phạm vi và thời gian cho vay được
mở rộng, một số doanh nghiệp có ngoại tệ không muốn bán ngoại tệ, muốn
vay VNĐ
-Các nguồn thu như từ xuất khẩu, kiều hối, du lịch, FDI, FII đều giảm so
với các năm trước
Lãi suất liên ngân hàng
Năm 2010
Đối với đồng USD, các giao dịch trên thị trường liên ngân hàng phát
sinh chủ yếu đối với các kỳ hạn ngắn (dưới 6 tháng). Lãi suất giao dịch bình
quân cũng có xu hướng tăng nhẹ, với mức tăng không nhiều, từ 0,05% đến
2,17%/năm. Riêng lãi suất bình quân qua đêm và kỳ hạn 1 tuần có xu hướng
giảm. Lãi suất bình quân cao nhất là 2,63%/năm, lãi suất các kỳ hạn còn lại
dao động từ 0,77% đến 1,42%/năm.
Về doanh số giao dịch trên thị trường này, NHNN cho biết, doanh số đạt
xấp xỉ 78.687 tỷ VND và 1.513 triệu USD, bình quân đạt khoảng 15.737 tỷ
VND/ngày và 302 triệu USD/ngày. So với tuần trước nữa, doanh số giao
dịch trên thị trường liên ngân hàng tăng 12.834 tỷ VND và giảm 92 triệu
USD. Doanh số giao dịch qua đêm bằng VND ở mức 30.462 tỷ, chiếm tỷ
trọng 39% so với tổng doanh số giao dịch cả tuần.
NHNN công bố lãi suất cho vay qua đêm trên thị trường liên ngân hàng
ngày 08/12/2010 đã lên tới 13,08%, tăng 4,59% so với thời điểm 30/11.
III. Lãi suất liên ngân hàng
Năm 2007
10 tháng đầu năm 2007, lãi suất thị trường nội tệ liên ngân hàng có xu hướng
giảm từ 1-2,3%/năm so với cuối năm 2006, do vốn khả dụng toàn hệ thống dư

thừa. Tuần đầu của nửa cuối tháng 11/2007, lãi suất thị trường nội tệ liên ngân
hàng tăng đột biến ở một vài thời điểm, có thời điểm lãi suất thị trường liên ngân
hàng qua đêm ở mức 10-12,6%, Từ ngày 3/12 đến nay, NHNN thực hiện chào
mua giấy tờ có giá theo phương thức đấu thầu khối lượng và công bố lãi suất ở
mức 8% nhằm hạn chế tình trạng bỏ thầu lãi suất không phù hợp với lãi suất thị
trường, gây tâm lý phản ứng tác động không thuận đối với điều hành CSTT của
NHNN. Vì vậy, đến nay tình trạng thiếu hụt vốn khả dụng của NHTM đã cơ bản
được khắc phục, lãi suất thị trường nội tệ liên ngân hàng đã ổn định và có xu
hướng giảm khoảng 0,5-2%/năm so với cuối tháng 11/2007.
Lãi suất VNIBOR:
Trong 5 tháng đầu năm 2007, lãi suất VNIBOR giảm ở tất cả các kỳ hạn, với
mức giảm từ 2,1 - 3,8%/năm so với cuối năm 2006; tuy nhiên, trong những ngày
đầu tháng 6/2007, lãi suất VNIBOR ở các kỳ hạn có xu hướng tăng mạnh, mức
tăng từ 0,5 - 2,5%/năm so với cuối tháng 5/2007, chủ yếu do ảnh hưởng của việc
NHNN điều chỉnh tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc áp dụng cho kỳ duy trì dự trữ bắt
buộc từ tháng 6/2007 trở đi.
Lãi suất thị trường mở:
6 tháng đầu năm 2007, lãi suất trúng thầu bán trên thị trường mở dao động ở
mức 0,7-2,8%/năm đối với các kỳ hạn 14, 28 và 56 ngày; đặc biệt, từ đầu tháng
5/2007, nghiệp vụ thị trường mở thực hiện các phiên đấu thầu theo khối lượng,
theo đó lãi suất chào bán trên thị trường mở được ấn định ở mức 1,85% - 2,95% -
3,95% đối với kỳ hạn 28 ngày, 56 ngày và 84 ngày; lãi suất trúng thầu mua kỳ hạn
14 ngày dao động ở mức 5 - 6%/năm.
Lãi suất thị trường đấu thầu tín phiếu Kho bạc có xu hướng tăng nhẹ so với
cuối năm 2006, mức tăng khoảng 0,75%/năm.
Lãi suất trái phiếu Chính phủ:
3 tháng đầu năm 2007, lãi suất trái phiếu Chính phủ kỳ hạn 5 năm giảm mạnh
khoảng 1,4 - 1,7%/năm so với cuối năm 2006 và đạt mức thấp nhất là 6,5%/năm
vào thời điểm cuối tháng 3/2007. Từ tháng 4/2007 đến nay, lãi suất trái phiếu
Chính phủ kỳ hạn 5 năm đã có xu hướng tăng nhẹ và dao động ở mức 7% -

7,1%/năm. Ngoài ra, trong 6 tháng đầu năm 2007, Chính phủ đã phát hành 3 đợt
trái phiếu lô lớn với lãi suất danh nghĩa là 7,8%/năm.
Lãi suất trái phiếu doanh nghiệp:
Trong 6 tháng đầu năm 2007, một số doanh nghiệp phát hành trái phiếu như
Tổng Công ty Tàu thuỷ Việt Nam (lãi suất trái phiếu kỳ hạn 10 năm là
10,5%/năm), Tổng Công ty Thép Việt Nam (lãi suất trái phiếu kỳ hạn 5 năm là
9,5%/năm). Các mức lãi suất này tương đương lãi suất trái phiếu doanh nghiệp
cùng kỳ hạn năm 2006.
Tóm lại, trong 6 tháng đầu năm 2007, lãi suất huy động và cho vay của TCTD
đối với khách hàng dao động nhẹ và không có biến động đột biến, lãi suất thị
trường thị trường liên ngân hàng và lãi suất trái phiếu Chính phủ ở mức thấp hơn
so với cuối năm 2006. Lãi suất VND chênh lệch dương so với lạm phát khoảng
+1,3%, so với lãi suất USD và mức tăng tỷ giá USD/VND chênh lệch dương
+3,6%.
Năm 2008
Lãi suất liên ngân hàng biến động trong thời gian này là diễn biến hoàn
toàn bình thường. Lãi suất liên ngân hàng phải cao hơn lãi suất huy động
vốn của các tổ chức tín dụng. Điều đó phản ánh đúng bản chất của thị
trường. Sự biến động của lãi suất liên ngân hàng có 2 cách hoặc là đột biến
hoặc lập lại trật tự, không có lý gì khi lãi suất huy động là 11%/năm mà lãi
suất liên ngân hàng chỉ ở mức 4,22%/năm.
Cuộc đua lãi suất huy động VND nhằm đáp ứng nhu cầu tiền đồng đang
căng như dây đàn của các ngân hàng đã khiến lãi suất VND vay qua đêm
trên thị trường liên ngân hàng ngày 19/2 đã leo lên mức không tưởng 43%.
Cuối tuần trước, mức lãi suất này mới chỉ 25% và mức cao nhất trong cả
năm 2007 cũng chỉ là 17%. Tuy nhiên, ngay cả ở mức lãi suất kỷ lục này,
nhiều ngân hàng nhỏ phải chấp nhận nhưng cũng không vay được vốn để cải
thiện khả năng thanh khoản, bởi nguồn cho vay hạn chế. Cũng chính từ
nguồn cho vay hạn chế đã nảy sinh tình trạng đầu cơ, tích trữ và khiến cho
lãi suất trên thị trường liên ngân hàng không ngừng tăng cao.

Thị trường tiền tệ "nóng" lên được các chuyên gia giải thích rằng do
nhiều ngân hàng chưa chấp hành đúng các tỉ lệ an toàn trong hoạt động. Đó
là việc sử dụng vốn vay trên thị trường liên ngân hàng với kỳ hạn ngắn để
cho khách hàng vay lại với kỳ hạn dài dẫn tới vốn khả dụng bị thiếu hụt
Bởi thế, khi thiếu hụt vốn khả dụng, các ngân hàng này phải chấp nhận vay
với mức lãi suất cao để có vốn. Đây cũng là nguyên nhân "châm ngòi" cho
cuộc đua tăng lãi suất lan rộng trên toàn hệ thống vào cuối tháng 2/2008.
Đến đầu quý này, nhu cầu vốn của các tổ chức tín dụng tăng lên do nhiều
khoản tiền gửi đáo hạn, cộng với yêu cầu đáp ứng dự trữ bắt buộc của các
ngân hàng. Do đó, ngay cả những "mạnh thường quân" cũng không dễ dàng
"mở hầu bao" cho các ngân hàng khác vay lại vào thời điểm này. Chính vì
vậy, việc lãi suất trên thị trường liên ngân hàng tăng trong thời gian gần đây
là phù hợp với cung cầu vốn trên thị trường.
Năm 2009
Tương đối ổn định trong 6 tháng đầu năm, lãi suất qua đêm phổ biến từ
6-7%/năm
Trong 6 tháng cuối năm, do nhu cầu vốn tăng cao để đáp ứng các
chương trình kích thích kinh tế của chính phủ đã tác động làm tăng lãi suất
trên thị trường liên ngân hàng bằng VNĐ. Lãi suất qua đêm tháng 8/2009 từ
7,5-8%/năm
Tháng 12/2009 phổ biến từ 10,5-11,5%/năm. Các tổ chức tín dụng chủ
yếu giao dịch ở các kỳ hạn ngắn, cho thấy vốn vay trên thị trường ngân hàng
chủ yếu là để đáp ứng khả năng thanh khoản của các tổ chức tín dụng
Năm 2010
Lãi suất liên ngân hàng giảm 1.42%/năm
Với sự can thiệp của NHNN, từ tuần thứ 2 của tháng đầu tiên trong năm,
lãi suất liên ngân hàng liên tục giảm. Ngày 6/1, NHNN đã “bơm” thêm một
lượng tiền khá lớn qua thị trường mở nhằm hỗ trợ các ngân hàng thương mại
cải thiện thanh khoản, lượng tiền NHNN “bơm” lên tới 15.000 tỷ đồng.
Theo các chuyên gia, việc hỗ trợ trên của NHNN là hoạt động bình thường,

được tăng cường qua thị trường mở thời gian gần đây nhằm điều hòa cung-
cầu vốn trong hệ thống.
Lãi suất giao dịch bình quân trên thị trường liên ngân hàng VND có xu
hướng giảm so với tuần trước nữa đối với hầu hết các kỳ hạn, ngoại trừ lãi
suất bình quân kỳ hạn 3 tháng tăng nhẹ. Mức giảm của các kỳ hạn phổ biến
từ 1% đến 1,42%/năm.
Ngân hàng Nhà nước (NHNN) cho biết, trong đó, lãi suất bình quân kỳ
hạn 12 tháng có mức giảm cao nhất 1,42%/năm, đứng ở mức 10,52%/năm.
Lãi suất bình quân qua đêm ở mức 8,03%/năm, giảm 1,05%/năm; lãi suất
bình quân đối với các kỳ hạn còn lại dao động từ 9,25% đến 11,08%/năm;
riêng lãi suất bình quân kỳ hạn 3 tháng là 11,82%/năm. Lãi suất cho vay
thấp nhất là 1,7%/năm; lãi suất cho vay cao nhất là 12%/năm (không tính lãi
suất không kỳ hạn).
Lãi suất liên ngân hàng tính đến ngày 08/12/2010 - Nguồn: SBV
Như vậy, lãi suất liên ngân hàng trong tuần này đang tăng rất mạnh
tại các kỳ hạn ngắn. Theo thông tin mới nhất trên báo Tuổi trẻ, lãi suất
cho vay liên ngân hàng ngày 09/12 đã lên tới xấp xỉ 20%/năm.
Động thái này trên thị trường liên ngân hàng là do trong 03 tuần trở lại
đây, NHNN đã hút ròng về tổng cộng gần 31.000 tỷ đồng (tuần từ 29/11 đến
03/12 tiếp tục hút ròng trên 3.000 tỷ đồng – bơm ra 82.618 tỷ đồng và hút về
86.068 tỷ đồng). Khả năng việc hút ròng trên OMO của NHNN đã góp phần
đẩy các ngân hàng nhỏ tăng lãi suất huy động trên thị trường dân cư
Ta thấy rất rõ khi nhìn vào biểu đồ trên, tình hình biến động của lãi suất
năm 2010 rất phức tạp. lãi suất lên xuống thất thường và đặc biệt là tháng
cuối năm, lãi suất tăng rất cao báo hiệu thời kì lam phát kéo dài sắp diễn ra
vào đầu năm 2011.
C. ẢNH HƯỞNG CỦA LÃI SUẤT ĐẾN NỀN KINH TẾ
I. Ảnh hưởng của lãi suất đến thị trường chứng khoán
Lãi suất
Lãi suất có thể ảnh hưởng đến toàn

bộ nhà đầu tư chính là lãi suất chiết
khấu của ngân hàng trung ương (ở VN
là ngân hàng nhà nước). Lãi suất chiết
khấu là chi phí mà các ngân hàng
thuơng mại phải trả cho việc vay tiền
từ ngân hàng trung ương. Nói rõ ràng
hơn thì khi các ngân hàng thương mại
cần tiền, họ có thể vay ở ngân hàng
trung ương bằng cách mang chiết khấu các giấy tờ có giá với một lãi suất do
ngân hàng trung ương công bố từ trước, gọi là lãi suất chiết khấu.
Nhưng tại sao con số này lại quan trọng đến như vậy?
Bởi đó là một trong những cách hữu hiệu nhất mà ngân hàng trung ương
nỗ lực để kiểm soát lạm phát. Hiện tượng sức mua của tiền bị giảm, đồng
tiền mất giá liên tục trong một thời gian dài, không phải do các yếu tố bất
thường gây ra thì đó chính là lạm phát. Không một quốc gia nào muốn để
lạm phát ở mức cao. Việt Nam cũng không nằm ngoài mục tiêu đó, chúng ta
đang cố gắng khống chế tỷ lệ lạm phát ở mức 8%. Bằng việc thay đổi lãi
suất chiết khấu, ảnh hưởng đến lượng cung tiền trong xã hội, ngân hàng
trung ương hy vọng có thể kiểm soát lạm phát. Đây cũng là cách làm phổ
biến của hầu hết các quốc gia.
Hiểu một cách cơ bản nhất thì khi ngân hàng trung ương gia tăng lãi suất
chiết khấu tức là họ đang nỗ lực làm cho lượng cung tiền trong xã hội giảm
bằng cách tạo chi phí vay tiền đắt hơn.
Hiệu ứng của sự gia tăng lãi suất chiết khấu
Khi ngân hàng trung ương tăng lãi suất chiết khấu, việc này sẽ không tác
động ngay lập tức lên thị trường chứng khoán. Thay vì vậy, lãi suất chiết
khấu lại có những tác động trực tiếp theo cách của riêng nó. Nó khiến cho
việc vay tiền của ngân hàng thương mại từ ngân hàng trung ương trở nên đắt
hơn. Tuy nhiên, sự gia tăng lãi suất chiết khấu không chỉ dừng lại ở đó, nó
còn tạo nên tác động lan truyền ảnh hưởng đến hầu hết các cá nhân và doanh

nghiệp.
Tác động gián tiếp đầu tiên của việc gia tăng lãi suất chiết khấu: các ngân
hàng sẽ tăng lãi suất cho vay đối với khách hàng. Khách hàng cá nhân bị ảnh
hưởng thông qua việc lãi suất tăng đối với thẻ tín dụng và các khoản vay
ngắn hạn khác. Song song đó, các cá nhân cũng có thể sẽ hạn chế mức vay
nợ xuống, do vậy lúc này người tiêu dùng sẽ có ít tiền hơn để chi tiêu. Sau
cùng, mỗi tháng mọi người đêù phải trả tiền cho các hoá đơn và khi các hoá
đơn này trở nên đắt hơn thì khoản thu nhập dự phòng của mỗi gia đình sẽ trở
nên ít hơn.
Lãi suất chiết khấu tác động đến các khách hàng tiêu dùng cá nhân, đến
lượt mình sự thay đổi trong hành vi của người tiêu dùng cá nhân lại ảnh
hưởng đến các doanh nghiệp, tuy nhiên với doanh nghiệp ảnh hưởng của sự
tăng lãi suất chiết khấu không chỉ có thế, họ còn chịu tác động nhiều hơn. Dễ
thấy, chính bản thân các doanh nghiệp cũng cần vay tiền từ ngân hàng
thương mại để duy trì hoạt động và mở rộng sản xuất. Một khi các khoản
vay từ ngân hàng trở nên đắt hơn thì các doanh nghiệp sẽ có tâm lý ngại vay
tiền và thực tế thì họ phải trả lãi suất cao hơn cho các khoản vay. Với một
doanh nghiệp trong thời kỳ tăng trưởng thì điều này có thể tác động nghiêm
trọng, doanh nghiệp phải thu hẹp phạm vi hoạt động và kết quả là lợi nhuận
bị giảm sút.
“Doanh nghiệp Việt Nam phần lớn là doanh nghiệp nhỏ và vừa, hoạt
động chủ yếu là vay vốn từ ngân hàng; lãi suất tăng, điều kiện vay ngặt
nghèo làm cho doanh nghiệp khó tiếp cận với vốn vay, sản xuất cầm chừng,
trong khi chính những doanh nghiệp này là lực lượng cung ứng hàng hoá
tiêu dùng thiết yếu cho xã hội” PGS, TS. Nguyễn Thị Mùi nhấn mạnh.
Tác động đến thị trường chứng khoán
Rõ ràng, sự thay đổi trong lãi suất chiết khấu đã ảnh hưởng đến hành vi
của các cá nhân cũng như các doanh nghiệp, nhưng câu chuyện không chỉ có
như vậy mà thị trường chứng khoán cũng bị ảnh hưởng. Như chúng ta đã
biết, một trong những cách để định giá một doanh nghiệp chính là đưa tất cả

các dòng tiền kỳ vọng trong tương lai chiết khấu về hiện tại. Lấy giá trị của
doanh nghiệp chia cho số lượng cố phần đang lưu hành ta có giá trị một cổ
phần. Giá chứng khoán thay đổi tuỳ theo các kỳ vọng khác nhau của nhà đầu
tư về công ty ở các thời điểm khác nhau. Do đó mà nhà đầu tư sẵn sàng mua
hoặc bán cổ phần ở các mức giá khác nhau.
Một khi doanh nghiệp bị thị trường nhìn thấy là sẽ cắt giảm các chi phí
đầu tư tăng trưởng hoặc là doanh nghiệp đang tạo ra lợi nhuận ít hơn vì chi
phí vay nợ tăng cao hoặc là doanh thu sụp giảm do người tiêu dùng thì dòng
tiền tương lai được dự đoán sẽ giảm đi. Và hệ quả là giá cổ phần của doanh
nghiệp sẽ thấp xuống. Nếu số lượng doanh nghiệp trên TTCK có sự sụp
giảm này đủ lớn thì xét toàn bộ thị trường, chỉ số thị trường chứng khoán sẽ
giảm.
Tác động đến đầu tư
Đối với nhiều nhà đầu tư, thị trường đi xuống hoặc giá chứng khoán sụt
giảm là điều không hề mong muốn. Nhà đầu tư nào cũng kỳ vọng giá trị
khoản đầu tư của mình sẽ không ngừng tăng lên, có thể là ở dạng lãi vốn, cổ
tức hoặc cả hai. Nhưng với kỳ vọng về sự tăng trưởng trong tương lai thấp
hơn và dòng tiền trong tương lai của doanh nghiệp không tốt như mong đợi,
chắc chắn không nhà đầu tư thông minh nào tiếp tục đánh giá cao doanh
nghiệp, nhà đầu tư sẽ mong đợi ít hơn khi sở hữu các cổ phần.
Hơn nữa, đầu tư vào cổ phiếu có thể được xem là rủi ro hơn so với việc
đầu tư vào các lĩnh vực khác. Khi ngân hàng trung ương công bố tăng lãi
suất chiết khấu, thường sẽ kèm theo là các chứng khoán chính phủ mới được
phát hành thí dụ như trái phiếu chính phủ. Đây được xem là cơ hội đầu tư an
toàn nhất. Nói cách khác, lúc này tỷ suất sinh lợi phi rủi ro sẽ tăng và do đó
đầu tư vào trái phiếu chính phủ và các cơ hội đầu tư tương tự trở nên hấp
dẫn hơn. Nếu nhà đầu tư vẫn tiếp tục trung thành với các cổ phiếu thì họ sẽ
nâng tỷ suất sinh lợi đòi hỏi của mình lên để bù đắp cho phần rủi ro tăng
thêm một lượng gọi là phần bủ rủi ro. Tỷ suất sinh lợi mong đợi từ việc nắm
giữ cổ phiếu bao gồm tổng của tỷ suất sinh lợi phi rủi ro và phần bù rủi ro

thị trường. Dĩ nhiên là độ lớn của phần bù rủi ro khác nhau với mỗi nhà đầu
tư, tuỳ thuộc vào khả năng chịu đựng rủi ro cũng như doanh nghiệp mà họ
đầu tư. Tuy nhiên nói một cách tổng quát thì, khi ngân hàng trung ương tăng
lãi suất chiết khấu, lãi suất phi rủi ro cũng tăng theo, và do đó tổng tỷ suất
sinh lợi đầu tư đòi hỏi cũng sẽ tăng. Do vậy, nếu phần bù rủi ro đòi hỏi giảm
trong khi tỷ suất sinh lợi tiềm năng vẫn như cũ hoặc thậm chí là thấp hơn, thì
chắc là nhà đầu tư sẽ cảm thấy đầu tư vào cổ phiếu trở nên rủi ro hơn và kết
quả là họ sẽ chuyển tiền của mình vào các lĩnh vực đầu tư khác.
Lãi suất ảnh hưởng nhưng không quyết định thị trường chứng
khoán
Lãi suất thông qua các phương tiện thông tin đại chúng như báo đài, ti vi,
mạng internet dễ dàng được người tiêu dùng biết đến và thật sự thì nó có
một tác động rộng lớn khác nhau đối với cả nền kinh tế. Khi lãi suất chiết
khấu gia tăng, hiệu ứng tổng thể là nó sẽ làm giảm lượng cung tiền nhằm
mục đích duy trì lạm phát ở mức thấp. Nó cũng làm cho việc vay tiền của
các cá nhân và doanh nghiệp trở nên đắt hơn, nó tác động đến hành vi tiêu
dùng của các cá nhân và chiến lược kinh doanh của các doanh nghiệp, gia
tăng chi phí cho các doanh nghiệp, khiến cho thu nhập thấp hơn và cuối
cùng là nó có khuynh hướng làm cho thị trường chứng khoán trở nên kém
hấp dẫn hơn đối với các nhà đầu tư.
Tuy nhiên phải luôn nhớ rằng, mỗi sự kiện và kết quả luôn có liên hệ với
nhau. Lãi suất không phải là yếu tố có tính quyết định đối với giá chứng
khoán và có rất nhiều cách thức khác nhau để xem xét sự thay đổi của giá
chứng khoán và khuynh hướng thị trường - một sự gia tăng trong lãi suất
chiết khấu chỉ là một trong những cách đó. Do vậy, không ai có thể tự tin nói
rằng một công bố gia tăng lãi suất chiết khấu của ngân hàng trung ương có
thể tạo nên ảnh hưởng xấu đến toàn bộ giá chứng khoán.
II. Ảnh hưởng của lãi suất đến thị trường bất động sản
Khi lãi suất tăng có nghĩa là cái khó khăn của Chính phủ đang chuyển
sang vai của các doanh nghiệp. Các doanh nghiệp kinh doanh bất động sản,

xây dựng sẽ đối phải đối mặt với nhiều thách thức, không loại trừ một số
doanh nghiệp có thể bị phá sản.
“Trong bối cảnh hiện nay, khi mà lãi
suất ngân hàng cả ngắn hạn và dài hạn lên
đến quanh mức 16 -18 %, thực tế có thể
còn cao hơn thì sẽ chẳng có ngành nghề
kinh doanh nào cho dù xoay xở cỡ nào
cũng khó có thể làm ăn có lãi.
Đặc biệt đối với BĐS, lãi suất ngân
hàng cao như hiện nay thì chẳng ai có đủ
can đảm để vay mua nhà. Đối với giới đầu
tư, cũng chẳng ai dại gì đầu tư vào BĐS trong thời điểm khó khăn này.
Trong những thời điểm hoàng kim nhất của thị trường BĐS, đầu tư sinh lợi
30%/năm cũng rất hiếm. Bây giờ, giá nhà đất không lên nếu vay vốn đầu tư
cầm chắc là thất bại. Một khi, cả giới đầu tư và những người có nhu cầu mua
nhà để ở không tham gia thị trường điều dễ hiểu sẽ là rất khó khăn cho thị
trường BĐS”.
Trước tình hình này các chủ đầu tư buộc phải ngừng hoặc dãn tiến độ để
thăm dò tình hình rồi mới quyết định sẽ làm gì tiếp theo. Riêng đối với Cty
Nhà Việt Nam, các dự án đã cam kết tiến độ thì buộc phải tiếp tục triển khai.
Còn những dự án mới thì buộc phải dừng lại hết”.
Vanphucgia.vn
Khi các ngân hàng bắt đầu giảm lãi suất cho vay, nới tín dụng cho khách
hàng ; giá nguyên vật liệu giảm mạnh; nhu cầu về nhà ở, văn phòng cho
thuê, mặt bằng bán lẻ đang cao… thi thị trường BĐS sẽ sôi động và bớt
căng thẳng hơn.

×