Tải bản đầy đủ (.docx) (7 trang)

Quy định của pháp luật và thực tiễn giải quyết việc làm đối với người khuyết tật ở việt nam hiện nay bài tập học kỳ luật người khuyết tật

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (99.78 KB, 7 trang )

Bài tập Học kỳ Luật Người khuyết tật – Đề số 8 (8 điểm)

Khuyên các bạn nên học môn này vì điểm khá cao ^^

Đề số 8: Quy định của pháp luật và thực tiễn giải quyết việc làm đối với người khuyết tật ở Việt Nam hiện nay.

LỜI MỞ ĐẦU

Chính sách việc làm được thực thi với mục tiêu phải tạo ra điều kiện và cơ hội để mọi người lao động có việc làm, có thu nhập bảo đảm cuộc sống bản thân và gia đình đồng
thời đóng góp một phần cho xã hội. Chính sách việc làm và giải quyết việc làm là yêu cầu cho mọi người lao động nhưng đặc biệt quan tâm những người lao động yếu thế
trong xã hội do có những khiếm khuyết đã ngăn cản hoặc hạn chế họ tham gia thuận lợi vào thị trường lao động để có một việc làm ổn định. Trong các đối tượng yếu thế về
việc làm và xã hội, thì việc làm cho người khuyết tật (NKT) là đối tượng hết sức đặc biệt luôn được Đảng, Nhà nước và xã hội chú trọng quan tâm. Chính sách việc làm đối với
NKT là một phần quan trọng trong tổng thể các chính sách xã hội nhằm giúp đỡ và tạo cơ hội để họ vượt qua những rào cản và hòa nhập với cuộc sống.

Tại Việt Nam, chính sách này đã được triển khai rộng rãi từ năm 1998 với sự ra đời của Pháp lệnh về Người tàn tật. Pháp lệnh đã đem đến những thay đổi tích cực, cải thiện
một phần đời sống của người tàn tật, đặc biệt bao gồm cả lĩnh vực việc làm cho NKT. Tuy nhiên, theo thống kê của Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội, trong số người tàn
tật có khả năng lao động, hiện vẫn còn trên 50% chưa có đủ việc làm, số có việc làm nhưng lại thường có thu nhập thấp, không ổn định. Cơ hội hòa nhập cho người tàn tật với
cộng đồng vẫn đang là một thách thức lớn, còn nhiều vấn đề chưa được giải quyết có hiệu quả như công tác hướng nghiệp, đào tạo nghề, việc làm cho người tàn tật, khả
năng tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản,…

Chính vì vậy, với bài tập lớn học kỳ môn Luật NKT Việt Nam, em xin chọn đề tài “Quy định của pháp luật và thực tiễn giải quyết việc làm đối với NKT ở Việt Nam hiện nay”. Đây
là một đề tài đòi hỏi lượng kiến thức xã hội phong phú, đặc biệt là các kiến thức liên quan đến NKT. Bài làm của em sẽ còn nhiều thiếu sót, em kính mong nhận được sự góp ý
từ các thầy cô để vốn kiến thức của em được hoàn thiện hơn.

NỘI DUNG CHÍNH

I. Lý luận chung về vấn đề việc làm đối với NKT.

I.1. Khái niệm việc làm đối với NKT.

I.1.a. Khái niệm việc làm.



Ở Việt Nam, khái niệm việc làm chính thức được ghi nhận trong Bộ luật Lao động (BLLĐ) năm 1994. Cụ thể theo Điều 13 BLLĐ, việc làm được hiểu là mọi hoạt động lao động
tạo ra thu thập và không bị pháp luật cấm. Hoạt động lao động nói chung được hiểu là sự tác động của sức lao động vào tư liệu sản xuất để tạo ra sản phẩm và dịch vụ. Tuy
nhiên, những hoạt động được coi là việc làm ở đây phải là những hoạt động có tính thường xuyên liên tục mang tính nghề nghiệp. Vì vậy, người được coi là có việc làm phải là
người thực hiện các hoạt động lao động trong phạm vi nghề nhất định và trong thời gian tương đối ổn định. Đồng thời các hoạt động lao động này phải tạo ra thu nhập và hoạt
động đó phải là hợp pháp.

I.1.b. Khái niệm việc làm đối với NKT.

Việc làm cũng được đặt ra đối với NKT. Việc làm không chỉ giúp NKT có thu nhập ổn định cuộc sống mà giúp họ hòa nhập vào cộng đồng, cảm thấy mình là người có ích cho
xã hội và đặc biệt là để họ thấy rằng mình cũng được bình đẳng như những người bình thường khác. NKT cũng có thể tự mình tự tạo việc làm hoặc tham gia quan hệ lao động
để có việc làm. Việc làm đối với NKT cũng tương tự như những người lao động khác. Vì vậy, việc làm đối với NKT cũng được hiểu là các hoạt động lao động tạo ra thu nhập
cho NKT và không bị pháp luật cấm.

Tuy nhiên, đề cập vấn đề việc làm cho NKT là đề cập dưới góc độ cơ hội việc làm cho họ. Việc làm ở đây bao gồm cả việc tiếp nhận đào tạo nghề, được tiếp nhận việc làm và
các loại nghề nghiệp và cả các điều kiện sử dụng lao động cũng như đảm bảo việc làm, tức là đề cập cả một quá trình làm việc của NKT.

I.2. Ý nghĩa của việc làm đối với NKT.

I.2.a. Việc làm giúp NKT có thu nhập, ổn định cuộc sống.


Từ xưa đến nay, NKT thương bị nhìn nhận là một đối tượng yếu thế cần có sự trợ giúp và chăm lo của gia đình, cộng đồng cũng như của toàn xã hội. NKT không thể sống tự
lập nên đời sống vật chất tinh thần của họ gặp rất nhiều khó khăn. Hiện có tới 80% NKT ở thành thị và 70% NKT ở nông thôn sống dựa vào gia đình, người thân và trọ cấp xã
hội, trong đó 32,5% thuộc diện nghèo. NKT thường bị mặc cảm, mang tâm lí chán nản vì cho rằng mình là người “ăn bám” gia đình và xã hội.

Do đó, nếu NKT có việc làm, đời sống vật chất tinh thần của họ sẽ được nâng cao hơn. Họ sẽ có thu nhập để nuôi sống chính bản thân mình, không cần phải sống dựa vào sự
giúp đỡ của người khác, thậm chí họ có thể hỗ trợ gia đình và đóng góp cho xã hội.

Quan niệm, cách nhìn nhận về NKT vì vậy cũng sẽ có sự thay đổi. Từ quan điểm nhìn nhận NKT dưới góc độ đạo đức, đó là đối tượng cần trợ giúp sẽ chuyển sang góc độ tiếp

cận quyền của NKT. Đó là quyền được làm việc, được cống hiến sức lao động của mình để tạo ra thu nhập cho mình xã hội.

I.2.b. Việc làm giúp NKT hòa nhập vào cộng đồng và tự tin hơn trong cuộc sống.

Việc làm không chỉ giúp NKT có thu nhập ổn định đời sống mà quan trọng hơn là nó giúp NKT có thể hòa nhập vào cộng đồng và tự tin hơn trong cuộc sống. Môi trường lao
động là môi trường có sự tham gia của nhiều người, hoạt động lao động là hoạt động mang tính tập thể. Bởi vậy, khi NKT có việc làm, họ sẽ được tiếp xúc với nhiều người và
làm việc trong môi trường tập thể. Mặt khác, việc làm tạo ra thu nhập cho NKT nên họ sẽ cảm thấy tự tin hơn trong cuộc sống khi thấy mình cũng làm việc và cũng có ích như
những người khác. Đồng thời, nó cũng xây dựng nên lòng tự tin và tạo ra các kênh tương tác xã hội từ đó mang lại lòng tự hào và nhân phẩm cho NKT.

I.2.c. Việc làm cho NKT góp phần phát huy nguồn lực cho xã hội.

NKT là một bộ phận cấu thành của xã hội không thể tách rời và họ cũng có trách nhiệm trong việc tham gia vào các hoạt động của cộng đồng và đóng góp công sức của mình
vào việc thúc đẩy phát triển kinh tế – xã hội của các quốc gia và cũng có quyền được hưởng đẩy đủ những thành quả phát triển của nhân loại. NKT là những người bị suy giảm
về thể chất, trí tuệ, tâm thần hoặc giác quan được biểu hiện dưới dạng khuyết tật khiến cho lao động, sinh hoạt, học tập gặp nhiều khó khăn và cản trở sự tham gia bình đẳng
vào hoạt động xã hội, nhưng nếu họ được tạo điều kiện cần thiết và tự mình vươn lên thì NKT có thể sống, hoạt động và đóng góp cho xã hội theo sức khở và năng lực như
những người không khuyết tật.

Vì vậy, NKT cũng sẽ là lực lượng lao động của xã hội, là nguồn nhân lực của xã hội. Giải quyết việc làm cho NKT cũng sẽ góp phần giải phóng và phát huy nguồn nhân lực cho
toàn xã hội. NKT sẽ cùng với những người không khuyết tật khác ohats huy hết khả năng và nguồn lực của mình cho sự phát triẻn kinh tế xã hội của đất nước.

Thực tế cho thấy, NKT cũng đã có những đóng góp không nhỏ cho nền kinh tế của đất nước. Hiện tại, có tới 75% NKT có khả năng lao động tham gia hoạt động kinh tế, trong
đó có tới 42,22% tự tạo việc làm.

I.3. Nguyên tắc cơ bản của việc làm đối với người lao động khuyết tật.

I.3.a. Không phân biệt đối xử với NKT trong lĩnh vực việc làm.

Cơ sở của nguyên tắc này chính là xuất phát từ vấn đề về quyền con người. Người khuyết tật cũng là con người nên họ có quyền được đối xử bình đẳng và công bằng như
những người khác ở trong mọi lĩnh vực và trong đó có lĩnh vực việc làm. Nguyên tắc này đã được tổ chức lao động quốc tết ILO quy định trong Công ước số 111 – Công ước
về phân biệt đối xử trong việc làm nghề nghiệp. Nguyên tắc không phân biệt đối xử với người khuyết tật trong lĩnh vực việc làm thể hiện ở việc người khuyết tật và người

không khuyết tật đều được đối xử bình đẳng về việc làm, cơ hộ tìm kiếm việc làm cũng như quá trình duy trì và đảm bảo việc đó.

I.3.b. Hỗ trợ, điều chỉnh hợp lí đối với NKT trong lĩnh vực việc làm.

Do đặc điểm về thể chất nên tìm kiếm việc làm, duy trì việc làm cũng như đảm bảo việc làm đối với người khuyết tật thường khó khăn hơn với những lao động khác. Hơn nữa
trong quá trình thực hiện công việc họ cần có những điều kiện sử dụng lao động riêng phù hợp với sức khỏe. Chính vì vậy cần phải có sự hỗ trợ, điều chỉnh hợp lý cho người
khuyết tật có việc làm và có việc làm bền vững, tức là thực hiện quyền việc làm của mình. Tuy nhiên sự hỗ trợ điều chỉnh này không có nghĩa tao gánh nặng cho các đơn vị sử
dụng lao động có sử dụng lao động là người khuyết tật, Nhà nước sẽ chịu trách nhiệm chính trong việc hộ trợ điều chỉnh nói trên và bản thân người khuyết tật cũng phải có cố
gắng nhất định.

II. Quy định pháp luật về vấn đề việc làm đối với NKT ở Việt Nam.

II.1. Quy định pháp luật về vấn đề việc làm đối với NKT ở Việt Nam.

II.1.1. Trách nhiệm của một số chủ thể trong lĩnh vực việc làm đối với NKT.


II.1.1.a. Trách nhiệm của Nhà nước.

Điều 13 BLLĐ quy định: “Giải quyết việc làm, đảm bảo cho mọi người có khả năng lao động đều có cơ hội việc làm là trách nhiệm của Nhà nước, của các doanh nghiệp và toàn
xã hội”.

NKT cũng là công dân, là lực lượng lao động xã hội nên Nhà nước phải có trách nhiệm giải quyết việc làm cho họ. Hơn nữa, NKT lại là bộ phận dân cư cần được quan tâm
đặc biệt nên Nhà nước càng cần phải có trách nhiệm hơn đối với đối tượng này. Bên cạnh trách nhiệm giải quyết việc làm cho công dân nói chung, đối với NKT, Nhà nước còn
có các trách nhiệm khác. NKT thường bị suy giảm khả năng lao động nên Nhà nước phải có trách nhiệm phục hổi chức năng lao động cho họ cùng với những hỗ trợ khác để
NKT có việc làm cũng như ổn định việc làm và duy trì việc làm bền lâu.

Cụ thể, theo Điều 33 Luật NKT thì Nhà nước tạo điều kiện để NKT phục hồi chức năng lao động, được tư vấn việc làm miễn phí, có việc làm và làm việc phù hợp với sức khỏe
và đặc điểm của NKT.


Điều 125 BLLĐ quy định “Nhà nước bảo hộ quyền làm việc của người tàn tật và khuyến khích việc thu nhận, tạo việc làm cho người tàn tật. Hành năm, Nhà nước dành một
khoản ngân sách để giúp người tàn tật phục hồi sức khỏe, phục hồi chức năng lao động, học nghề và có chính sách cho vay với lãi suất thấp để người tàn tật tự tạo việc làm và
tự ổn định đời sống”.

II.1.1.b. Trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp, cá nhân.

Các cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp cá nhân vì vậy cũng có trách nhiệm giải quyết việc làm cho NKT. Để tránh tình trạng kì thị, phân biệt đối xử, tạo ra những rào cản dẫn đến
sự hạn chế cơ hội có việc làm của NKT, Luật NKT quy định các cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp cá nhân không được từ chối tuyển dụng NKT có đủ tiêu chuẩn tuyển dụng vào
làm việc hoặc đặt ra tiêu chuẩn tuyển dụng trái quy định của pháp luật nhằm hạn chế cơ hội việc làm của NKT. Cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp, cá nhân sử dụng lao động là
NKT tùy theo điều kiện cụ thể bố trí, sắp xếp công việc, bảo đảm điều kiện và môi trường làm việc phù hợp cho NKT đồng thời phải thực hiện đầy đủ quy định của pháp luật về
lao động đối với lao động là NKT. Tổ chức giới thiệu việc làm có trách nhiệm tư vấn học nghề, tư vấn và giới thiệu việc làm cho NKT.

Đặc biệt, các doanh nghiệp còn có trách nhiệm nhận tỉ lệ lao động là NKT đối với một số nghề và công việc theo quy định của Chính phủ (theo khoản 3 Điều 125 BLLĐ). Cụ thể
theo Điều 14 Nghị định số 81/NĐ-CP, các doanh nghiệp thuộc các ngành sản xuất điện năng, luyện kim, hóa chất, địa chất, đo đạc bản đổ, dầu khí, khai thác mỏ, khai thác
khoáng sản, xây dựng cơ bản, vận rải phải nhận 2% lao động là NKT; doanh nghiệp thuộc các ngành khác là 3%. Tỉ lệ người tàn tật các doanh nghiệp phải tiếp nhận là tỉ số
giữa số người tàn tật so với tổng số lao động có mạt bình quân tháng của doanh nghiệp.

Trường hợp nếu doanh nghiệp không nhận hoặc nhận ít hơn tỉ lệ quy định thì phải góp một khoản tiền theo quy định của Chính phủ vào quỹ việc làm để góp phần giải quyết
việc làm cho NKT. Cụ thể theo Nghị định số 16/NĐ-CP ngày 23/4/2004 sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 81/NĐ-CP về lao động là NKT, nếu doanh nghiệp tiếp
nhận số lao động là NKT vào làm việc thấp hơn tỉ lệ quy định thì hàng tháng phải nộp vào Quỹ việc làm cho người tàn tật một khoản tiền bằng mức tiền lương tối thiểu hiện
hành do Nhà nước quy định nhân với số lao động là người tàn tật mà doanh nghiệp cần phải nhận thêm để đủ tỉ lệ quy định.

II.1.2. Chế độ hỗ trợ đối với NKT trong lĩnh vực việc làm.

Để khuyến khích các cơ sở sản xuất kinh doanh nhận NKT vào làm việc, Nhà nước đã có chính sách hỗ trợ, ưu đãi đối với các cơ sở này. Cụ thể, các cơ sở sản xuất, kinh
doanh sử dụng từ 30% tổng số lao động trở lên là NKT được hỗ trợ cải tạo điều kiện, môi trường làm việc phù hợp cho NKT; được miễn thuế thu nhập doanh nghiệp; được vay
vốn với lãi suất ưu đãi theo dự án phát triển sản xuất kinh doanh; được ưu đãi cho thuê đất, mặt bằng, mặt nước và miễn, giảm tiền thuế đất, mặt bằng, mặt nước phục vụ sản
xuất, kinh doanh theo tỉ lệ lao động là NKT, mức độ khuyết tật của người lao động và quy mô doanh nghiệp (Điều 30 Luật NKT).

Theo quy định của pháp luật, các tỉnh thành phố trực thuộc trung ương lập quỹ việc làm cho NKT để giúp NKT phục hồi chức năng lao động và tạo việc làm. Quỹ này được sử

dụng vào các mục đích: cấp hỗ trợ cho các đối tượng là các cơ sở sản xuất kinh doanh dành riêng cho NKT để xây dựng cơ sở vật chất kĩ thuật ban đầu, duy trì việc dạy nghề
và phát triển sản xuất, các doanh nghiệp nhận NKT vào làm việc cao hơn tỉ lệ quy định; cho vay với lãi suất đối với các đối tượng như cơ sở sản xuất kinh doanh dành riêng
cho NKT, cá nhân và nhóm lao động là NKT, doanh nghiệp nhận số lao động là NKT vào làm việc cao hơn tỉ lệ quy định, các hoạt động phục hồi chức năng lao động cho NKT
(Nghị định số 81/NĐ-CP).

Co sở dạy nghề và những cơ sở sản xuất kinh doanh dành riêng cho người tàn tật được giúp đỡ cơ sở vật chất ban đầu về nhà xưởng, trường, lớp, trang bị, thiết bị và được
miễn thuế, được vay vốn với lãi xuất thấp. Theo Điều 3 Nghị định 81/NĐ-CP, cơ sở sản xuất kinh doanh dành riêng cho người lao động là người tàn tật phải có đủ điều kiện
như:

-

Có trên 51% số lao động là người tàn tật;


-

Có quy chế hoặc điều lệ phù hợp và đối tượng lao động là người tàn tật.

II.1.3. Quyền và nghĩa vụ của NKT trong lĩnh vực việc làm.

Vì NKT là đối tượng lao động đặc thù nên pháp luật cũng có một số quy định riêng cho phù hợp với yếu tố đặc thù của họ. Cụ thể khi tham gia quan hệ lao động, NKT được
giảm thời gian làm việc: họ chỉ phải làm 7 giờ trong một ngày và 42 giờ trong một tuần. Đặc biệt để bảo vệ sức khỏe cho NKT, pháp luật còn quy định NKT không phải làm
những công việc nặng nhọc, nguy hiểm hoặc tiếp xúc với các chất độc hại theo danh mục do Bộ Lao động, thương binh và xã hội và Bộ y tế ban hành và NKT bị suy giảm khả
năng lao động từ 51% trở lên, không phải làm thêm giờ, làm việc ban đêm.

II.1.4. Chống phân biệt đối xử đối với người khuyết tật.

Căn cứ vào khoản 3 điều 2 Luật NKT sửa đổi, bổ sung năm 2010 thì “phân biệt đối xử NKT” là hành vi xa lánh, từ chối, ngược đãi, phỉ báng, có thành kiến hoặc hạn chế quyền
của NKT vì lý do khuyết tật của người đó.


Việc làm là cơ hội để NKT hòa nhập cộng đồng, giúp cho NKT xóa bỏ mặc cảm, cảm thấy tự tin, bình đẳng và hòa nhập trong gia đình và xã hội. Để tạo cho NKT có nhiều cơ
hội tìm kiếm việc làm, bộ luật LĐ và Nghị định 81/CP của Chính phủ đã quy định “Mỗi doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế phải nhận từ 2-3% NKT trong tổng số lao
động của doanh nghiệp. Nếu doanh nghiệp không nhận đủ NKT vào làm việc thì doanh nghiệp phải đóng góp vào ngân sách thuộc quỹ việc làm dành cho NKT ở tỉnh đó”. Luật
NKT (có hiệu lực từ ngày 1/1/2011) quy định các cơ sở sản xuất, kinh doanh sử dụng từ 30% tổng số lao động trở lên là NKT được hỗ trợ cải tạo điều kiện, môi trường làm
việc phù hợp cho NKT; được miễn thuế thu nhập doanh nghiệp; được vay vốn với lãi suất ưu đãi theo dự án phát triển sản xuất kinh doanh; được ưu tiên cho thuê đất, mặt
bằng và miễn, giảm tiền thuê đất, mặt bằng phục vụ sản xuất, kinh doanh,…..

II.2. Ý nghĩa của quy định pháp luật về vấn đề việc làm đối với NKT ở Việt Nam.

Những quy định này ở một góc độ nào đó chính là nhằm bảo vệ NKT, đảm bảo sức khỏe cho họ khi tham gia quan hê lao động. Tuy nhiên, ngày nay có quan điểm cho rằng sự
quy định mang tinh chất ưu đãi cho NKT đó lại chính là rào cản đối với NKT trong lĩnh vực việc làm. Với những quy định mang tính riêng biệt trong việc sử dụng lao động này,
người sử dụng lao động sẽ không muốn sử dụng lao động là NKT. Bởi vậy, cần phải hướng tới việc đảm bảo điều kiện lao động để không xảy ra những rủi ro sức khỏe cho cả
NKT và người không khuyết tật thay vì giảm thời gian làm việc hay cấm NKT không được làm một số công việc nào đó.

III. Thực tiễn giải quyết việc làm đối với NKT ở Việt Nam hiện nay.

III.1. Thực tiễn giải quyết việc làm đối với NKT.

- Tỷ lệ NKT có việc làm rất thấp

Trong số 5.3 triệu NKT thì có 60% trong độ tuổi lao động, số còn khả năng lao động chiếm 40%, số đang tham gia lao động chỉ có 30%, khoảng 3% chưa đào tào nghề. Người
có việc làm phù hợp và ổn định chỉ chiếm 15% là một con số quá ít.

Hơn 80% NKT sống ở nông thông, phần lớn họ sống cùng gia đình. Số có làm việc thì đại bộ phận là lao động thủ công như: Làm tăm tre, chổi đót, đan lát, trồng trọt và chăn
nuôi….Họ làm việc cùng nhau trong tổ, nhóm ở cùng một thôn, bản, làng, xóm nhưng cũng có thể làm việc làm việc theo đơn lẻ tại gia đình. Hiện cả nước có hơn 400 cơ sở
này, với khoảng 20.000 lao động NKT đang làm việc với qui mô lớn, nhỏ khác nhau.

- Các quy định pháp luật về vấn đề việc làm cho NKT chưa thực sự tác động đến các doanh nghiệp.

Để tăng cơ hội việc làm cho NKT, pháp luật quy định tỷ lệ bắt buộc nhận NKT vào làm việc trong các doanh nghiệp, nếu không nhận đủ thì phải nộp một khoản tiền vào quỹ

việc làm cho NKT. Nhưng quy định này chưa thấy có hiệu quả trong thực tiễn, mới chỉ có 8 tỉnh, thành phố thành lập Quỹ Việc làm. Nếu các quy định được thực hiện nghiêm
túc thì sẽ có một khoản tài chính đáng kể, tăng cường cho việc tổ chức dạy nghề và tạo việc làm cho NKT nhiều hơn, nhưng chưa sự quan tâm đầy đủ, đồng thời cũng thiếu
giám sát và đôn đốc, cũng như chưa có những biện pháp chế tài hữu hiệu.

- NKT gặp khó khăn trong tìm việc làm.

Trong quá trình tiếp cận cơ hội học nghề, tìm việc làm, NKT gặp rất nhiều khó khăn. Anh Lê Quang Tuấn , sinh 1974, quê xã Hải Yến, Tỉnh Gia, Thanh Hóa bước vào nghề ăn
xin cách đây 5 năm với lý do phải tự nuôi thân. Anh Tuấn cho rằng: “Học nghề thì cần phải có nhiều văn hóa. Mình học hết lớp 5, người thì trông như thế này, làm gì có ai nhận
dạy nghề, tạo việc làm cho”. Bởi vậy, anh Tuấn chưa từng nghĩ xem mình có thể làm việc gì bằng sức lao động chính đáng mà tự cho mình chỉ có thể đi ăn xin. Điều đáng buồn
là gia đình anh còn bố mẹ, anh chị cũng ủng hộ việc anh đi ăn xin khắp nơi.


- Cơ sở vật chất cho NKT chưa được đảm bảo.

Rào cản giao thông cũng là thách thức không nhỏ. Quy định cấm xe 3 bánh chở hàng, nhưng đồng thời lại chưa có giải pháp tháo gỡ thỏa đáng khiến một bộ phận NKT sống
bằng nghề chở hàng xe ba bánh mất việc, không có thu nhập và cũng chưa chuyển đổi nghề khác phù hợp.

NKT đi lại bằng giao thông công cộng thì xe buýt không tiếp cận được, thái độ phục vụ còn thờ ơ, đi lại bằng đường hàng không còn trường hợp bị từ chối phục vụ. Khó khăn
trong đi lại đồng nghĩa với khó khăn tìm kiếm việc làm (trừ một số người làm trong lĩnh vực công nghệ thông tin, nhận gia công tại nhà….)

Rào cản về môi trường xây dựng như: Trụ sở nơi làm việc, cơ sở học nghề không có lối đi NKT. Rào cản về nhận thức khi hầu hết chủ doanh nghiệp cho rằng sử dụng NKT sẽ
thêm nặng trách nhiệm, tốn kém. Còn ở địa phương vẩn tồn tại nhận thức giải quyết việc làm cho người lành còn chưa xong, làm sao lo được cho NKT. Nhận thức này sai lầm,
vì tình trạng thất nghiệp là một tồn tại xã hội, không giải quyết triệt để được. Nếu việc gì cũng phải chờ lo cho xong người lành mới đến NKT thì họ không bao giờ có cơ hội
việc làm.

- Trình độ chuyên môn kĩ thuật của NKT còn thấp.

Thực tế cho thấy, trình độ chuyên môn kĩ thuật của NKT còn rất thấp. Có tới 93.4% số NKT từ 16 tuổi trở lên không có chuyên môn, số có bằng cấp từ chứng chỉ nghề trở lên
chỉ chiếm 6,5%. Riêng NKT có trình độ từ THCN trở lên chỉ chiếm trên 2,75%. Trình độ chuyên môn kĩ thuật của NKT khu vực thành thị cao hơn khu vực nông thôn, của nam
giới cao hơn của nữ giới (97% nữ không có chuyên môn kĩ thuật, nam 91,3%) và của người Kinh cao hơn người dân tộc thiểu số.[1]


- Nhiều cơ quan, doanh nghiệp chưa thực sự muốn và thường viện cớ để không phải sử dụng lao động là NKT.

. Luật NKT cũng đã quy định rất rõ và mang tính trách nhiệm hành chính đối với các cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp. Tuy nhiên, NKT là những người bị khiếm khuyết về thể
chất hay tinh thần nên thường bị suy giảm khả năng lao động, nên các đơn vị sử dụng lao động thường không muốn nhận NKT vì sợ rằng năng suất lao động không cao.. Các
cơ quan, doanh nghiệp cũng thường viện cớ Luật Lao động quy định “thời giờ làm việc của người tàn tật không được vượt quá 7h/ngày hoặc 42h/tuần” để không tiếp nhận
người tàn tật vì cho rằng họ sẽ gây cản trở cho việc tổ chức sản xuất theo phương thức dây chuyền (nếu ca làm 8 tiếng thì sẽ phải dừng trước một giờ).

Thêm nữa, những doanh nghiệp có dây chuyền sản xuất hiện đại lại thường viện cớ không thể nhận người tàn tật vào làm vì họ chỉ cần lao động có trình độ cao. Lại có khá
nhiều trường hợp các cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp từ chối tuyển NKT vào làm việc, mặc dù họ đã trải qua những kỳ kiểm tra sát hạch, với lý do NKT làm việc không được
như người bình thường và các cơ quan, tổ chức, đơn vị, doanh nghiệp phải chịu một khoản chi phí cải tạo lại môi trường, cải tạo lại cơ sở vật chất, hạ tầng kỹ thuật cho phù
hợp với họ.

- Vấn đề đào tạo dạy nghề và việc làm của vẫn chưa được quan tâm đúng mức.

Cả nước hiện có trên 16.000 người tàn tật đang làm việc trong các doanh nghiệp thuộc 33 tỉnh, thành phố. Đối tượng chủ yếu vẫn là thương binh, bệnh binh, người tàn tật do
lao động với tỷ lệ thương tật nhẹ đã có sẵn trong doanh nghiệp từ trước.

Hiện nay chỉ có 2,5% trong tổng số hơn 5 triệu người tàn tật được qua các lớp đào tạo, nhưng số này lại tập trung chủ yếu ở các đô thị lớn, còn khu vực nông thôn người tàn
tật hầu như không được tiếp cận với các lớp dạy nghề. Trình độ học vấn của người tàn tật cũng rất thấp với gần 36% người tàn tật không biết chữ, 25,3% có trình độ tiểu học
và 21,46% có trình độ trung học cơ sở[2]

Vấn đề đào tạo dạy nghề và việc làm của NKT trong thực tế thị trường lao động vẫn còn quá nhiều khoảng cách, nan giải mà đòi hỏi xã hội nhất là người sử dụng cần phải
thực sự quan tâm với cách nhìn rộng mở và hưởng ứng chính sách nhà nước về Luật NKT. Đối với các cơ sở dạy nghề cho NKT thì vấn đề nâng cao chất lượng đào tạo phải
được đặc biệt chú trọng thì hiệu quả dạy nghề và hỗ trợ việc làm cho NKT tham gia xã hội từng bước nâng cao hiệu quả.

III.2. Nguyên nhân của những hạn chế trong vấn đề giải quyết việc làm đối với NKT tại Việt Nam.

Có nhiều nguyên nhân khiến NKT ít có cơ hội tìm được việc làm, trong đó, trước hết là do trình độ văn hóa thấp, không được đến trường vì nhiều lý do. 41% NKT từ 6 tuổi trở
lên không biết chữ, số còn lại thì chủ yếu dừng lại cấp 1, cấp 2. Trong khi đó, muốn có nghề, có việc làm thì phải có trình độ văn hóa nhất định.


Quy định NKT làm việc 7h/ngày kiến nhiều doanh nghiệp ngại tuyển dụng NKT vì không đảm bảo hoạt động sản xuất bình thường. Với một số công việc đòi hỏi trình độ cao,
NKT có thể đáp ứng nhưng không được sự quan tâm đào tạo. NKT tự tạo việc làm gặp nhiều khó khăn trong tiếp cận vốn vì vay Ngân hàng Chính sách thì không có tài sản
thế chấp, thủ tục vay vốn phức tạp….


Đối với những doanh nghiệp thuộc các ngành xây dựng cơ bản, khai khác khoáng sản, luyện kim… luôn đòi hỏi người lao động ngoài chuyên môn, nghiệp vụ còn có sức khoẻ
tốt. Nhưng số người tàn tật có trình độ ở nước ta hiện nay rất ít, nếu được nhận vào các doanh nghiệp thì họ cũng khó có khả năng đáp ứng được yêu cầu công việc. Do vậy,
khi đặt ra vấn đề cải thiện việc làm cho người tàn tật thì vấn đề cơ bản nhất vẫn công tác đào tạo nghề.

Nguyên nhân chính dẫn đến việc đào tạo nghề cho NKT còn yếu kém là do đa số NKT không được tư vấn hướng nghiệp và chưa được đào tạo nghề chính quy. Vì vậy họ
không biết mình có thể làm tốt việc gì và không có tay nghề vững vàng ở một lĩnh vực nào cả.Nhu cầu học nghề của NKT là rất cao nhưng do thiếu thông tin về học nghề, việc
làm, do điều kiện khó khăn, khuyết tật đi lại vất vả nên chưa mạnh dạn đi học. Hơn nữa họ cũng không biết đăng ký ở đâu, học nghề gì nên họ vẫn không có cơ hội hòa nhập
cộng đồng.

Việc dạy nghề cho NKT đang gặp nhiều khó khăn, nhất là việc lựa chọn ngành, nghề đào tạo phù hợp cho NKT. Những ngành đòi hỏi kỹ thuật cao, có nhiều cơ hội xin được
việc làm thì rất ít NKT có khả năng theo học. Đối với những ngành thủ công đơn giản đã có nhiều người học, NKT sẽ khó tìm được việc làm do tính cạnh tranh cao. Bên cạnh
đó, những đơn vị đã tham gia đào tạo nghề cho NKT chưa có đội ngũ giáo viên giảng dạy chuyên biệt, chưa có nghiệp vụ đào tạo cho nhóm đối tượng yếu thế. Chính vì vậy,
các doanh nghiệp tuyển lao động chưa tin tưởng vào công tác đào tạo nghề cho NKT ở các cơ sở đó, do vậy NKT lại càng khó khăn hơn khi tìm việc làm.

III.3. Giải pháp cho những hạn chế trong vấn đề giải quyết việc làm cho NKT tại Việt Nam.

- Cần sự quan tâm của các ngành và toàn xã hội

Để cải thiện tình trạng trên, nâng cao cơ hội cho NKT học nghề, có việc làm cần sự phối hợp đồng bộ, có hiệu quả của các ngành hữu quan và sự quan tâm của cả cộng đồng.
Phải phổ cập và nâng cao trình độ văn hóa cho NKT, tạo điều kiện cho họ học tập và học càng cao càng tốt. Cần đào tạo cho NKT ở mọi trình độ văn hóa. Đào tạo nghề phải
gắn với tạo việc làm, có thu nhập. Quan tâm đến vấn đề can thiệp sớm, phục hồi chức năng ngay từ khi còn nhỏ để tránh khuyết tật nặng, tránh gây khó khăn trong học nghề
và tìm việc làm sau này.

- Tạo điều kiện cho NKT đi lại thuận lợi.


Các cơ quan, doanh nghiệp, cơ sở giáo dục, đào tạo, dạy nghề phải sửa chửa, cải tạo cơ sở vật chất để NKT tiếp cận và sử dụng. Nếu như cùng chung một ngành nghề, một
môi trường làm việc, thì hãy quan tâm chia sẽ và ưu tiên hơn 1 chút cho những người NKT. Thay đổi nhận thức của chủ sử dụng lao động về khả năng làm việc của NKT, thay
đổi định kiến cho rằng NKT không đảm bảo sức khỏe làm việc, nhận NKT thêm phiền phức, tốn kém, kinh doanh không có lãi. Bên cạnh những lợi ích của việc sử dụng lao
động NKT, cần phải nhận thức đây cũng là trách nhiệm đối với xã hội. Vì nếu không được làm việc thì NKT sẽ phải sống phụ thuộc, gánh nặng gia đình và cộng đồng.

- Thông tin về dạy nghề, việc làm cho NKT phải đến được NKT.

Bản thân NKT còn tự ti không mạnh dạn liên hệ hoặc chủ động đề nghị giới thiệu, giúp đỡ để được cung cấp thông tin, vậy nên cần có sự quan tâm của gia đình, đoàn thể, tổ
chức hội, chính quyền địa phương giới thiệu, cung cấp thông tin cho NKT. Nên thông qua tổ chức tự lực của NKT, tổ chức vì NKT để tuyên truyền về các chương trình, các dự
án, khóa học nghề, tuyển dụng NKT để họ nắm được thông tin và đăng ký tham dự. Cần tổ chức nhiều hơn hội chợ việc làm, ngày hội tuyển dụng dành cho NKT….

- Phổ biến các quy định, chính sách việc làm đối với NKT rộng rãi hơn.

Một trong những việc cần thiết hiện nay là tuyên truyền sâu rộng tới các doanh nghiệp vừa và nhỏ về Nghị định 81/CP về người tàn tật. Trước tiên là để doanh nghiệp nắm
được tinh thần của Nghị định và hơn nữa, nếu doanh nghiệp nào nhận người tàn tật vào làm việc thì doanh nghiệp đó sẽ được hưởng những quyền lợi về vật chất để trực tiếp
giúp đỡ lại người tàn tật.

Đẩy mạnh công tác tuyên truyền phổ biến pháp luật NKT cho các tổ chức cá nhân mà trực tiếp là các doanh nghiệp để họ biết được quyền và nghĩa vụ của mình khi tuyển
dụng lao động là NKT. Hơn nữa cần phải phổ biến pháp luật cho NKT để họ biết được các quyền lợi của mình khi tham gia vào quan hệ tuyển dụng lao động, qua đó góp phần
cho họ có thể tự bảo vệ mình trước các hành vi phân biệt đối xử.

- Tiếp tục hoàn thiện các quy định, chính sách việc làm đối với NKT.

Cần nghiên cứu, có cơ chế phù hợp về việc NKT làm việc 7 giờ/ngày. Cần có quy định về ngành nghề dành riêng cho NKT. Cần có các quy định chặt chẽ hơn trong việc tổ
chức dạy nghề cho NKT như: Giáo án phù hợp, chính sách thỏa đáng cho giáo viên dạy văn hóa, dạy nghề, phiên dịch cho người khiếm thính. Thời gian học nghề đối với NKT
cần phải linh hoạt, tăng thêm thời gian so với người không khuyết tật.

- Có chính sách khuyến khích dạy nghề cho NKT tại cộng đồng.



Vì phần lớn NKT sống ở gia đình, gắn với cộng đồng dân cư nên hướng dạy nghề, tạo việc làm cho NKT ở cộng đồng là thích hợp và thuận tiện nhất. Đầu tư nâng cao năng
lực, trang thiết bị kiến thức, kỹ năng, tay nghề, phát huy tài năng của lao động NKT. Với NKT ở vùng xâu, vùng xa, khu vực nông thôn, nên quan tâm và nâng thành tầm chiến
lược cấp quốc gia thực hiện “Chương trình tạo việc làm tại chỗ”, tạo điều kiện cho NKT và gia đình của họ tự tạo việc làm.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.

Giáo trình Luật Người khuyết tật Việt Nam, Trường Đại học Luật Hà Nội, NXB CAND, 2011.

2.

Bộ Luật Lao động 1994.

3.

Luật Người khuyết tật sửa đổi, bổ sung năm 2010.

4.

Nghị định số 81/NĐ-CP của Chính phủ ngày 23/11/1995 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của bộ luật lao động về lao động là người tàn tật.

5.

Nghị định số 28/NĐ-CP của Chính phủ ngày 10/04/2012 về hướng dẫn thi hành Luật Người khuyết tật 2010.

6.

Việc làm cho Người khuyết tật và kiến nghị hoàn thiện chính sách – TS.Nguyễn Đình Liêu – Chủ tịch Hội Bảo trợ và trẻ mồ côi Việt Nam


7.

Việc làm cho Người khuyết tật – Một cách tiếp cận dựa trên quyền con người (Châu Á) báo cáo về hội nghị tham vấn, kỹ thuật ba bên,



×