Tải bản đầy đủ (.doc) (76 trang)

Thực hiện hợp đồng dân sự những vấn đề lý luận và thực tiễn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (340.29 KB, 76 trang )

1

LỜI NÓI ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Hợp đồng là một trong những phương tiện pháp lý chủ yếu để cá nhân, tổ
chức trao đổi lợi ích nhằm thỏa mãn các nhu cầu của mình. Hợp đồng cũng đóng
vai trò quan trọng trong quá trình vận hành của nền kinh tế, vì nó là hình thức
pháp lý cơ bản của sự trao đổi hàng hóa trong xã hội. Chính vì vậy, ngày nay, chế
định hợp đồng trở thành một chế định quan trọng trong hệ thống pháp luật dân sự
Việt Nam.
Khi được giao kết hợp pháp, hợp đồng có “hiệu lực ràng buộc thực hiện đối
với các bên” (Điều 4, Bộ luật dân sự năm 2005) và bên có nghĩa vụ phải thực hiện
nghĩa vụ của mình “đúng cam kết” (Điều 283, Bộ luật dân sự năm 2005), các bên
phải thưc hiện đúng thời hạn (Điều 285, Bộ luật dân sự năm 2005); đối với vật đặc
định họ phải giao đúng vật đó và đúng cam kết (Điều 289); đối với nghĩa vụ trả
tiền họ phải trả “đúng địa điểm và phương thức đã thỏa thuận” (Điều 290) và đối
với nghĩa vụ phải thực hiện công việc thì phải “thực hiện đúng công việc đó”
(Điều 291).
Khi thực hiện giao kết hợp đồng mục đích mà các bên hướng tới là nhằm
đạt được các “thỏa thuận” mà các bên đã đề ra trong hợp đồng. Theo đó, việc thực
hiên hợp đồng là cách thức mà các bên tiến hành để đảm bảo các thỏa thuận đưa ra
trong hợp đồng được thực thi trên thực tế.
Chúng ta đều thấy rằng, hợp đồng dân sự vốn đa dạng và phức tạp, gắn liền
với thực tế cuộc sống nên trong quá trình thực hiện hợp đồng có thể rất khó khăn,
phức tạp và có nhiều yếu tố làm ảnh hưởng đến việc “thực hiện đúng” hợp đồng
của các bên. Trong trường hợp này, các bên có thể giải quyết các vấn đề phát sinh
trong quá trình thực hiện như thế nào để đảm bảo hài hòa lợi ích của các bên.
Khi thực hiện hợp đồng, theo quy định tại Bộ luật dân sự năm 2005 thì các bên
sẽ chịu sự điều chỉnh trực tiếp của các điều luật tại mục 7, Chương XVII (từ Điều



2

412 đến Điều 422), đồng thời phải tuân thủ các quy định tại mục 2 Chương XVIII
về thực hiện nghĩa vụ dân sự (từ Điều 283 đến Điều 301) và các quy định về từng
loại hợp đồng cụ thể. Mặc dù đã có nhiều điều luật trực tiếp điều chỉnh hoặc có liên
quan đến thực hiện hợp đồng, nhưng trên thực hiện các quy định về thực hiện hợp
đồng vẫn cần được xem xét, nghiên cứu để hoàn thiện, đây chính là lý do tác giả
chọn vấn đề: “Thực hiện hợp đồng dân sự - những vấn đề lý luận và thực tiễn”
làm đề tài luận văn thạc sỹ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài.
Chế định hợp đồng dân sự nói chung và thực hiện hợp đồng dân sự nói riêng
đã có một số bài viết như:
- “Pháp luật vê hợp đồng” của Nguyễn Mạnh Bách, Nxb.CTQG, Hà Nội, 1995.
- “Chế định hợp đồng trong Bộ luật dân sự Việt Nam” của TS. Nguyễn Ngọc
Khánh, Nxb Tư pháp, Hà Nội, 2007 trong đó có đề cập đến nguyên tắc và nội dung
thực hiện hợp đồng dân sự theo quy định tại Bộ luật dân sự năm 2005.
- Đề tài “Vấn đề không thực hiện đúng hợp đồng trong pháp luật thực định
Việt Nam” do TS. Đỗ Văn Đại, Phó chủ nhiệm khoa Luật dân sự, Đại học Luật TP.
Hồ Chí Minh làm chủ nhiệm đề tài, trong đó đã đề cập tới các vấn đề: khái niệm
không thực hiện đúng hợp đồng; những biện pháp xử lý việc không thực hiện đúng
hợp đồng do các bên dữ liệu và do pháp luật quy định…
Tuy nhiên, qua việc nghiên cứu các tài liệu cho thấy, hiện nay chưa có công
trình nào nghiên cứu một cách toàn diện về “Thực hiện hợp đồng dân sự - những
vấn đề lý luận và thực tiễn”.
3. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là vấn đề lý luận và thực tiễn về thực hiện
hợp đồng; các quy định của pháp luật thực định của Việt Nam về vấn đề này cũng
như nghiên cứu quy định về thực hiện hợp đồng của một số nước.



3

Phạm vi nghiên cứu của đề tài bao gồm khái niệm, nội dung của thực hiện hợp
đồng; nguyên tắc thực hiện hợp đồng; các quy định cụ thể về thực hiện hợp đồng
đơn vụ, hợp đồng song vụ, hợp đồng vì lợi ích của người thứ ba, trách nhiệm do vi
phạm hợp đồng (thực hiện không đúng hợp đồng). Để làm rõ nội dung của các quy
định liên quan đến thực hiện hợp đồng, bên cạnh việc nghiên cứu, phân tích các quy
định tại Bộ luật dân sự năm 2005, tác giả còn có nghiên cứu, phân tích các quy định
của pháp luật chuyên ngành có liên quan cũng như tham khảo kinh nghiệm của một
số nước về vấn đề này, đồng thời tác giá cũng có nghiên cứu, đánh giá các khó khăn
vướng mắc trên thực tế về thực hiện hợp đồng, trên cơ sở đó có sự so sánh, đề xuất
và hoàn thiện các quy định liên quan đến thực hiện hợp đồng.
4. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn được hoàn thành dựa trên cơ sở các phương pháp nghiên cứu khoa
học như: phân tích, tổng hợp, so sánh, diễn giải, suy diễn logic…
5. Mục đích và nhiệm vụ của việc nghiên cứu đề tài
Mục đích nghiên cứu của đề tài là làm rõ những vấn đề lý luận về thực hiện hợp
đồng, các quy đinh hiện hành của pháp luật liên quan đến thực hiện hợp đồng và
thực tiễn áp dụng từ đó đưa ra các kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về thực hiện
hợp đồng.
Với mục đích nghiên cứu nêu trên, nhiệm vụ nghiên cứu được định cụ thể trong
đề tài này như sau:
- Làm rõ một số vấn đề lý luận về thực hiện hợp đồng như: khái niệm, nguyên
tắc thực hiện hợp đồng, nội dung thực hiện hợp đồng;
- Tìm hiểu quy định của một số nước về thực hiện hợp đồng;
- Đưa ra một số giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về thực hiện hợp đồng.


4


6. Những điểm mới của luận văn
Luận văn là công trình nghiên cứu có tính hệ thống những vấn đề liên quan đến
thực hiện hợp đồng dân sự. Trong luận văn có những điểm mới sau đây:
- Phân tích một cách khoa học, logic và có hệ thống các nguyên tắc, nội dung
thực hiện hợp đồng dân sự, các biện pháp để bảo đảm thực hiện đúng hợp đồng dân sự.
7. Cơ cấu của luận văn
Luận văn được kết cấu thành 3 phần: Mở đầu, nội dung và kết luận. Phần nội
dung gồm có 03 chương:
Chương 1: Khái niệm và nguyên tắc thực hiện hợp đồng dân sự
Chương 2: Thực hiện hợp đồng dân sự theo các quy định của pháp luật thực định.
Chương 3: Một khó khăn, vướng mắc trong việc thực hiện hợp đồng theo
quy định và kiến nghị hoàn thiện.


5

Chương 1
KHÁI NIỆM, NGUYÊN TẮC THỰC HIỆN HỢP ĐỒNG DÂN SỰ
1.1. Khái niệm thực hiện hợp đồng dân sự
Hợp đồng dân sự khi được giao kết hợp pháp có hiệu lực bắt buộc đối với các
bên. Khi hợp đồng có hiệu lực sẽ làm phát sinh quyền và nghĩa vụ của các bên giao
kết. Tuy nhiên, việc giao kết hợp đồng mới tạo ra hình thức pháp lý cho quan hệ
trao đổi, còn quyền và nghĩa vụ mà các bên đặt ra có đạt được hay không phải thông
qua hành vi trực tiếp là thực hiện hợp đồng. Về bản chất, nghĩa vụ hợp đồng là quan
hệ tạm thời và thậm chí là quan hệ ngắn hạn và phải được chấm dứt vào một thời
điểm nào đó. Nghĩa vụ hợp đồng chấm dứt khi các bên thực hiện đúng và đầy đủ
hợp đồng.
Khi thực hiện hợp đồng, theo quy định tại Bộ luật dân sự năm 2005 (BLDS
2005) thì các bên sẽ chịu sự điều chỉnh trực tiếp của các điều luật tại mục 7,
Chương XVII (từ Điều 412 đến Điều 422), đồng thời phải tuân thủ các quy định tại

mục 2 Chương XVIII về thực hiện nghĩa vụ dân sự (từ Điều 283 đến Điều 301) và
các quy định về từng loại hợp đồng cụ thể.
“Thực hiện hợp đồng” theo định nghĩa tại Từ điển luật học của Viện khoa học
pháp lý, Bộ Tư pháp là: “những hành vi của các chủ thể tham gia quan hệ hợp đồng
nhằm làm cho các điều khoản, nội dung đã cam kết trong hợp đồng trở thành hiện
thực”. Theo đó quá trình thực hiện hợp đồng cần tuân thủ những nguyên tắc về thực
hiện hợp đồng đó là: việc thực hiện hợp đồng phải diễn ta với tinh thần trung thực,
hợp tác và cùng có lợi, đảm bảo sự tin cậy lẫn nhau giữa các bên trong hợp đồng;
thực hiện đúng các điều khoản, nội dung của hợp đồng mà các bên đã cam kết về
đối tượng, chất lượng, số lượng, chủng loại hàng hóa, dịch vụ; thời hạn thực hiện
hợp đồng, thời hạn và phương thức thanh toán cùng các điều khoản thỏa thuận
khác; không được xâm phạm đến lợi ích của nhà nước, lợi ích công cộng, quyền và
lợi ích hợp pháp của người khác. Tùy theo tính chất của từng loại hợp đồng mà
pháp luật quy định việc thực hiện hợp đồng: 1) đối với hợp đồng đơn vụ, bên có


6

nghĩa vụ phải thực hiện đúng các nghĩa vụ mà hai bên đã thỏa thuận trong hợp
đồng. Nếu được bên có quyền đồng ý, bên có nghĩa vụ có thể thực hiện nghĩa vụ
trước hoặc sau thời hạn mà hợp đồng đã quy định; 2) đối với hợp đồng song vụ, khi
các bên đã thỏa thuận về thời hạn thực hiện nghĩa vụ thì mỗi bên phải thực hiện
nghĩa vụ của mình khi đến thời hạn quy định. Các bên không được tự ý hoãn việc
thực hiện nghĩa vụ cho dù bên kia chưa thực hiện nghĩa vụ đối với mình, trừ trường
hợp nghĩa vụ không thực hiện được do lỗi của một bên; 3) đối với việc thực hiện
hợp đồng vì lợi ích của người thứ ba thì người thứ ba có quyền trực tiếp yêu cầu bên
có nghĩa vụ phải thực hiện nghĩa vụ đối với mình. Trường hợp các bên có tranh
chấp về việc thực hiện hợp đồng thì người thứ ba không có quyền yêu cầu thực hiện
nghĩa vụ cho đến khi tranh chấp được giải quyết. Bên có quyền trong hợp đồng
cũng có thể yêu cầu bên có nghĩa vụ phải thực hiện đúng các cam kế trong hợp

đồng vì lợi ích người thứ ba.
Cũng theo định nghĩa tại cuốn Từ điển luật học Viện khoa học pháp lý, Bộ Tư
pháp thì thực hiện nghĩa vụ là: “thực hiện việc phải làm – hành động hoặc không
hành động, làm hoặc không làm một việc. Trong giao lưu dân sự, nguyên tắc thực
hiện nghĩa vụ dân sự là người có nghĩa vụ dân sự phải thực hiện nghĩa vụ của mình
một cách trung thực, theo tinh thần hợp tác, đúng cam kết, không trái pháp luật,
đạo đức xã hội. Việc thực hiện nghĩa vụ phải được tiến hành tại một nơi nhất định,
vào một thời điểm nhất định do các bên thỏa thuận. Về mặt địa điểm, nếu không có
thỏa thuận thì, đối với bất động sản là nơi có bất động sản, trong trường hợp đối
tượng thực hiện nghĩa vụ là bất động sản, nếu đối tượng là động sản thì nơi thực
hiện nghĩa vụ là địa điểm cư trú hoặc trụ sở của người có quyền. Về thời hạn, nếu
không có thỏa thuận và pháp luật cũng không có quy định thì các bên có thể thực
hiện hoặc yêu cầu thực hiện nghĩa vụ vào bất cứ lúc nào, nhưng phải thông báo cho
nhau biết trước một thời gian hợp lí”.
Theo quy định tại Điều 280 BLDS 2005 thì “nghĩa vụ dân sự là việc mà theo
đó, một hoặc nhiều chủ thể (sau đây gọi chung là bên có nghĩa vụ) phải chuyển
giao vật, chuyển giao quyền, trả tiền hoặc giấy tờ có giá, thực hiện công việc khác


7

hoặc không được thực hiện công việc nhất định vì lợi ích của một hoặc nhiều chủ
thể khác (sau đây gọi chung là bên có quyền)”, như vậy việc thực hiện nghĩa vụ dân
sự (hay thực hiện hợp đồng) là thực hiện việc chuyển giao vật, chuyển giao quyền,
trả tiền hoặc giấy tờ có giá, thực hiện công việc khác hoặc không được thực hiện
công việc nhất định. Nói cách khác, đó là việc thực hiện những hành vi (hoặc không
thực hiện những hành vi) thuộc đối tượng của hợp đồng. Khi đánh giá kết quả hợp
đồng, bên có quyền bao giờ cũng đặt ra các vấn đề: thứ nhất người có nghĩa vụ đã
thực hiện các hành vi mà hai bên cam kết chưa và thứ hai, các hành vi đó được thực
hiện như thế nào. Đó chính là việc xem xét các nghĩa vụ trong hợp đồng có được

thực hiện không, trong trường hợp có thực hiện thì thực hiện có đúng theo các cam
kết không. “Thực hiện” ở đây được thể hiện qua việc thực hiện những hành vi cụ
thể hoặc không thực hiện những hành vi thuộc đối tượng của hợp đồng – hay còn
gọi cách khác là thực hiện nghĩa vụ trên thực tế. “Thực hiện đúng” chính là việc
xem xét chất lượng thực hiện nghĩa vụ, tức là đánh giá, xem xét bên có nghĩa vụ có
tuân thủ đúng các điều kiện về nghĩa vụ mà hai bên đã thỏa thuận hoặc pháp luật có
quy định, đó chính là việc thực hiện đúng đối tượng hợp đồng, đúng phương thức,
thực hiện theo thỏa thuận của hai bên, thực hiện đúng về thời hạn, địa điểm… Khi
các nội dung trên được thực hiện theo đúng thỏa thuận của các bên, theo quy định
của pháp luật thì được coi là đã thực hiện nghĩa vụ trên thực tế đồng thời thực hiện
đúng nghĩa vụ, còn trường hợp ngược lại, nếu các điều kiện về nghĩa vụ không được
tuân thủ, dù các nghĩa vụ đã thực hiện bởi bên có nghĩa vụ thì vẫn sẽ bị coi là thực
hiện không đúng nghĩa vụ.
Về nội dung này, pháp luật của nhiều nước (như Anh, Nga, Đức…) đều thừa
nhận vị trí riêng biệt của việc thực hiện nghĩa vụ trên thực tế và việc thực hiện đúng
nghĩa vụ, theo đó khi một trong các bên không thực hiện nghĩa vụ hợp đồng trên
thực tế hoặc có thực hiện nhưng không đúng theo sự thỏa thuận thì có thể phải chịu
các hậu quả pháp lý khác nhau. Ở nước ta, vấn đề này mới chỉ được đưa ra ở một số
điều luật mà chưa có các quy định mang tính nguyên tắc, thống nhất và rõ ràng. Cụ
thể, theo quy định tại khoản 1 Điều 302 thì trách nhiệm dân sự được phân thành hai


8

trường hợp là trách nhiệm do không thực hiện nghĩa vụ và trách nhiệm do thực hiện
không đúng nghĩa vụ. Hay tại Điều 303 BLDS 2005 khi quy định về trách nhiệm
dân sự do không thực hiện nghĩa vụ giao vật đã quy định hai trường hợp đó là: khi
bên có nghĩa vụ không thực hiện nghĩa vụ giao vật đặc định – không thực hiện
nghĩa vụ trên thực tế thì người có quyền có thể yêu cầu bên có nghĩa vụ phải giao
đúng vật; nếu vật bị hư hỏng (tức không thực hiện được đúng nghĩa vụ) thì bên có

nghĩa vụ phải thanh toán giá trị của vật và bồi thường thiệt hại cho bên có quyền.
- Thực hiện nghĩa vụ hợp đồng trên thực tế: về nguyên tắc, thực hiện nghĩa vụ
hợp đồng trên thực tế đòi hỏi người có nghĩa vụ phải tự nguyện thi hành những
hành vi (hoặc không thực hiện những hành vi) thuộc đối tượng của hợp đồng:
chuyển giao vật, chuyển giao quyền, thực hiện một công việc nhất định… Việc thực
hiện các nghĩa vụ này phải theo thỏa thuận và bên có nghĩa vụ không được tự ý thay
thế việc thực hiện nghĩa vụ bằng việc thanh toán một khoản tiền tương đương.
- Thực hiện đúng nghĩa vụ hợp đồng chính là việc thực hiện đúng: đối tượng;
thời hạn; địa điểm; phương thức; đúng với người có quyền tiếp nhận; thực hiện
đúng nghĩa vụ hợp đồng do đúng người có nghĩa vụ tiến hành.
Như vậy, thực hiện hợp đồng là thực hiện những quyền và nghĩa vụ phát sinh
trong hợp đồng. Thông thường, trong hợp đồng dân sự, quyền của bên này tương
ứng với nghĩa vụ của bên kia. Theo đó, kể từ thời điểm có hiệu lực của hợp đồng,
các bên tham gia hợp đồng đó có các quyền, nghĩa vụ đối lập nhau. Nói cách khác,
trong một hợp đồng nếu bên này có quyền thì đồng nghĩa với việc bên kia có nghĩa
vụ, tương ứng với quyền của bên này là nghĩa vụ của bên kia. Tính chất tương ứng
và đối lập nhau về quyền và nghĩa vụ dân sự giữa các bên trong hợp đồng dân sự
dẫn đến hệ quả là quyền lợi của bên này chỉ đạt được khi bên kia thực hiện các hành
vi mang tính nghĩa vụ. Chẳng hạn, trong hợp đồng cho vay thì quyền thu lãi của bên
cho vay chỉ đạt được chứng nào bên vay thực hiện hành vi trả lãi theo nợ vay.
Nghĩa vụ trong hợp đồng dân sự có thể chỉ là một hành vi nhưng có thể lại
gồm nhiều hành vi khác nhau. Các hành vi đó có thể phải tiến hành cùng một lúc,


9

vào cùng một thời điểm hoặc có thể được tiến hành theo một quá trình trong một
thời hạn nhất định.
Việc thực hiện nghĩa vụ theo hợp đồng diễn ra như thế nào, điều đó phụ thuộc
vào nội dung và tính chất của từng hợp đồng cụ thể. Tuy nhiên, có thể khái quát

việc thực hiện Hợp đồng dân sự như sau:
Thực hiện hợp đồng dân sự là bên có nghĩa vụ trong hợp đồng phải làm hoặc
không được làm một công việc theo một thời hạn nhất định đã được xác định trong
nội dung của hợp đồng dân sự, qua đó thỏa mãn quyền dân sự tương ứng của bên kia.
1.2. Nguyên tắc thực hiện hợp đồng dân sự
Việc thực hiện hợp đồng dân sự của các bên không những nhằm thỏa mãn
những nhu cầu về vật chất, văn hóa tinh thần của mỗi bên mà còn phải hướng tới lợi
ích chung của toàn xã hội. Đồng thời, còn thể hiện việc chấp hành pháp luật, thể
hiện tinh thần tôn trọng truyền thống đạo đức xã hội của các chủ thể trong quá trình
thực hiện các giao dịch dân sự. Để đảm bảo quyền dân sự của các bên giao kết hợp
đồng, Điều 412 BLDS 2005 quy định:
“Việc thực hiện hợp đồng phải tuân theo các nguyên tắc sau đây:
1. Thực hiện đúng hợp đồng, đúng đối tượng, chất lượng, số lượng, chủng
loại, thời hạn, phương thức và các thoả thuận khác;
2. Thực hiện một cách trung thực, theo tinh thần hợp tác và có lợi nhất cho
các bên, bảo đảm tin cậy lẫn nhau;
3. Không được xâm phạm đến lợi ích của Nhà nước, lợi ích công cộng, quyền,
lợi ích hợp pháp của người khác”.
Theo các nguyên tắc này, các bên phải thực hiện đúng, đầy đủ các điều khoản
đã được xác định một cách thật thà, ngay thẳng, không được xâm phạm đến lợi ích
của Nhà nước, lợi ích công cộng, quyền, lợi ích hợp pháp của người khác. Cụ thể:
1.2.1. Thực hiện một cách trung thực, theo tinh thần hợp tác và có lợi nhất
cho các bên, bảo đảm tin cậy lẫn nhau.
Cơ sở hình thành nguyên tắc này xuất phát từ bản chất tương đối của quan hệ
hợp đồng dân sự là lợi ích của một bên luôn luôn phụ thuộc vào nghĩa vụ của bên
kia. Ví dụ: trong quan hệ mua bán, lợi ích của người bán là khoản tiền phải trả của


10


người mua tương xứng với giá trị của tài sản mua bán. Lợi ích đó có đạt được hay
không phụ thuộc vào việc người mua có trả tiền đầy đủ như đã thỏa thuận hay
không. Lợi ích của bên mua là sở hữu tài sản mua bán, lợi ích này có đạt được hay
không phụ thuộc vào việc bên bán có giao cho bên mua đúng tài sản mà bên mua dự
định mua hay không. Muốn đạt được lợi ích như vậy phụ thuộc rất nhiều vào sự
trung thực của mỗi bên. Bất cứ hành vi gian dối của một bên cũng có thể dẫn tới sự
thiệt hại về vật chất của bên kia và có thể là nguyên nhân dẫn tới hợp đồng vô hiệu.
Sự trung thực càng có ý nghĩa khi trong hợp đồng có những điều khoản không rõ
nghĩa, các bên cùng bàn bạc, thỏa thuận để đi đến sự thống nhất chung về nội dung
các điều khoản trong hợp đồng. Nguyên tắc này có ý nghĩa nhằm ngăn chặn sự tối
nghĩa trong hợp đồng để làm lợi cho một bên. Việc thực hiện hợp đồng không chỉ
đòi hỏi sự trung thực của các bên mà còn cần đến tinh thần hợp tác giúp đỡ, tin cậy
lẫn nhau. Khi thực hiện hợp đồng các bên phải xuất phát từ sự tôn trọng lợi ích của
nhau. Nguyên tắc này nhằm đảm bảo hợp đồng được thực hiện một cách thuận lợi,
bảo đảm việc thực hiện hợp đồng một cách có lợi nhất cho các bên. Cũng chính từ
sự trung thực, từ kết quả đạt được khi thực hiện hợp đồng tạo cơ sở cho sự tin cậy
lẫn nhau giữa các bên. Nguyên tắc cũng là một trong những yếu tố nhằm đảm bảo
thực hiện nguyên tắc thực hiện đúng hợp đồng.
Mục đích của nguyên tắc thực hiện “một cách trung thực, theo tinh thần hợp
tác và có lợi nhất cho các bên, bảo đảm tin cậy lẫn nhau”, để thực hiện được
nguyên tắc này, khi thực hiện hợp đồng các bên phải nói rõ cho nhau biết về tình
trạng và đặc tính của đối tượng, nếu che dấu khuyết tật của vật là đối tượng của
nghĩa vụ nhằm mục đích tư lợi mà gây thiệt hai cho bên kia thì phải bồi thường.
Trong quá trình thực hiện hợp đồng, các bên hợp tác để tương trợ, giúp đỡ và
thông tin cho nhau là một việc làm cần thiết để đáp ứng nhu cầu và bảo đảm lợi ích
cho các bên trong quan hệ nghĩa vụ. Theo nguyên tắc này, các bên phải luôn quan
tâm đến nhau trong quá trình thực hiện hợp đồng, tạo điều kiện để giúp nhau khắc
phục khó khăn trong quá trình thực hiện nghĩa vụ. Người có quyền không được thờ
ơ, bàng quan trước những khó khăn của người có nghĩa vụ mà phải tạo điều kiện



11

thuận lợi cho người đó vượt qua được khó khăn để thực hiện đầy đủ và nghiêm
chỉnh các nghĩa vụ của mình. Mặt khác, người có nghĩa vụ không được ỷ vào những
khó khăn khách quan, lấy đó làm nguyên cớ để không thực hiện hợp đồng mà phải
thi hành các biện pháp trong khả năng cho phép để khắc phục những khó khăn
khách quan đó. Ngoài ra, nguyên tắc này còn đòi hỏi cả hai bên phải cùng nhau tìm
mọi biện pháp và thi hành các biện pháp cần thiết để ngăn chặn, hạn chế những thiệt
hại. Nếu bên nào có điều kiện mà không thực hiện các biện pháp ngăn chặn sẽ bị coi
là có lỗi và phải gánh chịu thiệt hại ấy.
1.2.2. Không được xâm phạm đến lợi ích của nhà nước, lợi ích công cộng,
quyền, lợi ích hợp pháp của người khác.
Bên cạnh mục đích bảo đảm sự thỏa thuận về lợi ích của các bên trong hợp
đồng, việc thực hiện hợp đồng còn hướng tới lợi ích của toàn xã hội với nguyên tắc
chung: “tôn trọng lợi ích của nhà nước, lợi ích công cộng, quyền, lợi ích hợp pháp
của người khác” (Điều 10, BLDS 2005).
Nguyên tắc này đòi hỏi các bên khi thực hiện hợp đồng ngoài việc phải tôn
trọng những nghĩa vụ đã cam kết hoặc pháp luật đã quy định còn phải tôn trọng và
tuân thủ những quy định chung của pháp luật trong suốt quá trình thực hiện nghĩa
vụ dân sự.
Một con người không thể sống tách rời khỏi cộng đồng, xã hội và thường bị
chi phối bởi nhiều lợi ích, quyền và nghĩa vụ khác nhau. Pháp luật cho phép các chủ
thể tự do tham gia các quan hệ pháp luật dân sự nói chung và quan hệ hợp đồng dân
sự nói riêng. Tuy nhiên, để tồn tại trong một xã hội, các chủ thể phải dung hòa các
mối quan hệ cũng như quyền lợi của bản thân. Theo đó, họ phải tôn trọng và tuân
thủ một số nguyên tắc nhất định khi tham gia vào những quan hệ dân sự cụ thể.
Trong quan hệ hợp đồng dân sự cũng vậy, khi các chủ thể tham gia quan hệ này bên
cạnh việc được tự do thỏa thuận, giao kết hợp đồng thì các bên cũng phải đảm bảo
nguyên tắc các việc thỏa thuận và thực hiện các thỏa thuận không được xâm phạm

đến lợi ích của nhà nước, lợi ích của công cộng, quyền và lợi ích hợp pháp của


12

người khác. Việc quy định nguyên tắc này nhằm giới hạn sự tự do của các chủ thể
khi thực hiện hợp đồng nhằm đảm bảo sự hài hòa giữa các lợi ích trong xã hội.
Nguyên tắc này là một trong những nguyên tắc cơ bản khi thực hiện hợp đồng dân
sự theo quy định của pháp luật Việt Nam, và đây cũng là nguyên tắc được ghi nhận
và xem như là nguyên tắc nền tảng của pháp luật dân sự của các nước trên thế giới.
Nguyên tắc này cũng nhằm đảm bảo sự phù hợp và thống nhất đối với nguyên
tắc “tự do giao kết hợp đồng nhưng không được trái pháp luật, đạo đức xã hội”, tức
các bên chủ thể giao kết hợp đồng được quyết định mọi vấn đề liên quan đến hợp
đồng mà không bị bất kỳ cá nhân, tổ chức, kể cả Nhà nước can thiệp, làm thay đổi ý
chí của các bên chủ thể. Tuy nhiên, quyền tự do giao kết không phải là quyền tuyệt
đối mà bị hạn chế bởi lợi ích công cộng, tự do giao kết nhưng không được trái pháp
luật và đạo đức xã hội. Sự hạn chế này thể hiện ở tất cả các khía cạnh của tự do giao
kết hợp đồng từ quyền tự chủ, lựa chọn đối tác đến nội dung, hình thức của hợp
đồng. Thông thường, pháp luật quy định rõ các hạn chế này nhằm bảo vệ lợi ích nhà
nước, trật tư công cộng, ví dụ: quy định để thực hiện giao kết hợp đồng thì chủ thể
của giao kết phải là người có năng lực hành vi dân sự theo quy định tại Điều 19,
BLDS 2005; quy định đối với một số loại hợp đồng nhất định phải tuân thủ về hình
thức hợp đồng, và một số điều kiện khác như phải đăng ký quyền sở hữu, phải công chứng…
1.2.3. Thực hiện đúng hợp đồng, đúng đối tượng, chất lượng, số lượng
Theo quy định của Điều 412 BLDS, nguyên tắc này bao gồm những nội dung sau:
1.2.3.1.Thực hiện đúng hợp đồng
Khi giao kết hợp đồng các bên thoả thuận về các điều khoản chủ yếu như đối
tượng, giá cả, thời hạn… ngoài ra các bên còn thoả thuận về nhiều nội dung khác.
Mặt khác, trong mỗi loại hợp đồng thì pháp luật đã quy định về quyền và nghĩa vụ
của các bên mà các bên có thể thuận theo các nội dung của các quy định hoặc không

thoả thuận nhưng bắt buộc phải thực hiện đúng các quy định của pháp luật. Ngoài
ra, khi giao kết hợp đồng một bên có thể tự cam kết với bên kia về một nghĩa vụ nào
đó “vì cam kết, thỏa thuận hợp pháp có hiệu lực bắt buộc thực hiện đối với các
bên...” (Điều 4 BLDS 2005). Việc không thực hiện đúng hợp đồng sẽ bị coi là vi


13

phạm hợp đồng, là nguyên nhân dẫn đến tranh chấp và có thể gây thiệt hại cho các
bên tham gia giao kết. Bên nào vi phạm hợp đồng mà gây thiệt hại cho bên kia thì
mặc dù đã bồi thường thiệt hại cho bên kia nhưng vẫn phải thực hiện nghĩa vụ đã
cam kết.
Bản chất của của nguyên tắc “thực hiện đúng hợp đồng” là đúng về đối tượng,
thời hạn, phương thức và các thoả thuận khác. Thực hiện đúng đối tượng là đúng số
lượng, chất lượng. Hay nói cách khác, thực hiện đúng hợp đồng là đúng toàn bộ nội
dung đã thoả thuận và các nội dung do pháp luật quy định. Tuy nhiên, Điều 412
BLDS quy định thực hiện đúng hợp đồng, đúng đối tượng, đúng chất lượng, số
lượng là thừa những nội dung này. Bởi vì thực hiện đúng đối tượng phải nằm trong
nội dung thực hiện đúng hợp đồng.
Nội dung của thực hiện đúng hợp đồng đòi hỏi các bên trong hợp đồng phải
thực hiện đúng những điều khoản mà mình đã cam kết, đồng thời cho phép mỗi bên
có quyền yêu cầu bên kia thực hiện đậy đủ các nghĩa vụ của họ
Thực hiện đúng hợp đồng là việc các bên trong hợp đồng có nghĩa vụ phải
thực hiện một cách đầy đủ, toàn bộ nội dung của hợp đồng. Nghĩa là, các bên phải
thực hiện đúng về đối tượng, thời gian, địa điểm, thời hạn như hai bên đã cam kết
xác định hoặc pháp luật quy định. Vì vậy, người có nghĩa vụ theo hợp đồng mà thực
hiện các điều khoản nói trên không đúng với nội dung đã cam kết thì phải chịu trách
nhiệm dân sự do vi phạm hợp đồng (trách nhiệm dân sự do vi phạm nghĩa vụ).
1.2.3.2. Thực hiện đúng đối tượng của hợp đồng
Theo nguyên tắc này, đối tượng của hợp đồng (vật, tiền, giấy tờ có giá, một

công việc hoặc một dịch vụ nhất định…) do bên có nghĩa vụ chuyển giao hoặc thực
hiện phải đảm bảo phù hợp với quy định của pháp luật và sự thỏa thuận của các bên
về chất lượng, số lượng cũng như các tiêu chuẩn khác. Đối tượng của hợp đồng
cũng phải “có thể thực hiện được”. Nếu đối tượng của hợp đồng không thể thực
hiện được ngay từ khi ký kết, hợp đồng sẽ bị vô hiệu. Ngoài ra, để hợp đồng có thể
thực hiện được (để tài sản có thể chuyển giao, để công việc hoặc dịch vụ có thể thực
hiện được) đối tượng của hợp đồng cũng phải được xác lập cụ thể hoặc có thể xác


14

định được. Tuy nhiên, trong trường hợp này không nhất thiết đối tượng của hợp
đồng phải đang tồn tại trên thực tế ngay tại thời điểm ký kết hợp đồng mà quan
trọng là nó phải được xác định cụ thể hoặc có thể xác định được, đây chính là
trường hợp đối tượng của hợp đồng chính là các tài sản được hình thành trong
tương lai.
Thực hiện đúng đối tượng là thực hiện hợp đồng đúng với những công việc mà
các bên đã thỏa thuận hoặc pháp luật đã quy định. Đối tượng của nghĩa vụ dân sự
bao gồm nhiều loại khác nhau nên cần phải dựa và từng loại đối tượng cụ thể để xác
định người có nghĩa vụ đã thực hiện đúng đối tượng hay chưa.
1.2.3.3. Thực hiện đúng thời hạn
Thời hạn thực hiện nghĩa vụ trong hợp đồng dân sự là một thời điểm hay một
khoảng thời gian nhất định mà trong thời điểm hoặc khoảng thời gian đó người có
nghĩa vụ phải hoàn thành nghĩa vụ của mình nhằm thỏa mãn lợi ích của bên có quyền.
Theo quy định tại Điều 285 BLDS 2005 thì: thời hạn thực hiện nghĩa vụ dân sự là:
“1. Thời hạn thực hiện nghĩa vụ dân sự do các bên thoả thuận hoặc theo quy
định của pháp luật.
Bên có nghĩa vụ phải thực hiện nghĩa vụ dân sự đúng thời hạn; chỉ được thực
hiện nghĩa vụ dân sự trước thời hạn khi có sự đồng ý của bên có quyền; nếu bên có
nghĩa vụ đã tự ý thực hiện nghĩa vụ trước thời hạn và bên có quyền đã chấp nhận

việc thực hiện nghĩa vụ thì nghĩa vụ được coi là đã hoàn thành đúng thời hạn.
2. Trong trường hợp các bên không thoả thuận và pháp luật không quy định
về thời hạn thực hiện nghĩa vụ dân sự thì các bên có thể thực hiện nghĩa vụ hoặc
yêu cầu thực hiện nghĩa vụ vào bất cứ lúc nào, nhưng phải thông báo cho nhau biết
trước một thời gian hợp lý.”
Việc thực hiện nghĩa vụ dân sự đúng thời hạn của người có nghĩa vụ có ý
nghĩa quan trọng trong việc thỏa mãn kịp thời những nhu cầu về vật chất và tình
thần của người có quyền.


15

Tùy thuộc vào tính chất, nội dung của từng hợp đồng cụ thể cũng như điều
kiện, hoàn cảnh của mình mà các bên có thể thỏa thuận về thời hạn thực hiện hợp
đồng. khi thời hạn đã được xác định theo thỏa thuận thì các bên phải thực hiện
nghĩa vụ dân sự đúng thời hạn đó. Ví dụ: theo hợp đồng mua bán nhà ở được ký
giữa ông Hạnh và ông Toàn, theo đó ông Hạnh bán cho ông Toàn căn nhà thuộc
quyền sở hữu của ông Hạnh và thỏa thuận sẽ giao nhà cho ông Toàn sau 01 tháng kể
từ ngày ký hợp đồng. Như vậy, sau 01 tháng ông Hạnh phải giao nhà cho ông Toàn
trừ trường hợp các bên có thỏa thuận lại về thời hạn giao nhà khác.
Trong trường hợp các bên không xác định về thời hạn thực hiện hợp đồng, thì
bên có nghĩa vụ sẽ được thực hiện hợp đồng vào bất cứ lúc nào khi một trong hai
bên có yêu cầu. Tuy nhiên, để tạo điều kiện cho các bên thực hiện nghĩa vụ một
cách thuận lợi, các bên phải thông báo cho nhau trước một khoảng thời gian hợp lý.
Vì vậy, trong trường hợp này khoảng thời gian hợp lý đó được coi là thời hạn thực
hiện nghĩa vụ.
Nếu người có nghĩa vụ thực hiện nghĩa vụ trước thời hạn đã được xác định mà
người có quyền đồng ý và đã tiếp nhận sự thực hiện, thì nghĩa vụ dân sự được xem
như đã thực hiện đúng thời hạn. Mặt khác, khi bên có nghĩa vụ không thể thực hiện
nghĩa vụ đúng thời hạn, các bên có thể thỏa thuận để hoãn việc thực hiện nghĩa vụ

(thực chất là kéo dài thời hạn), thì nghĩa vụ dân sự được hoàn thành trong thời hạn
kéo dài đó cũng được coi là thực hiện đúng thời hạn.
Trong trường hợp pháp luật quy định một quy phạm tùy nghi, trong đó các bên
có quyền tự thỏa thuận về thời hạn thực hiện nghĩa vụ hoặc theo quy định của pháp
luật thì trước hết cần thực hiện theo thời hạn do các bên thỏa thuận. Quy định của
pháp luật về thời hạn chỉ được áp dụng khi không có thỏa thuận của các bên. Điều
này xuất phát từ nguyên tắc tôn trọng sự tự nguyện thỏa thuận của các chủ thể trong
giao dịch dân sự. Thông thường, các quy định của pháp luật dân sự không thể đưa
ra các quy định về thời hạn thực hiện từng nghĩa vụ cụ thể mà chủ yếu xuất phát từ
tính hợp lý đối với từng loại nghĩa vụ để dữ liệu, ví du: thời hạn thuê nhà được xác
định theo mục đích thuê (Điều 492 BLDS 2005), thời hạn trả tiền thuê được xác


16

định theo tập quán (Điều 489 BLDS 2005), thời hạn thực hiện dịch vụ được xác
định khi công việc được hoàn thành (Điều 526, BLDS 2005).
Việc thực hiện nghĩa vụ dân sự trước thời hạn chỉ có thể được thực hiện sau
khi có sự đồng ý của bên có quyền, trường hợp bên có nghĩa vụ đã tự thực hiện
nghĩa vụ trước thời hạn và bên có quyền đã chấp nhận việc thực hiện nghĩa vụ thì
nghĩa vụ được coi là đã hoàn thành đúng thời hạn. Mặc dù việc thực hiện nghĩa vụ
cũng mang ý nghĩa vì lợi ích của người có quyền nhưng điều đó không có nghĩa
rằng thực hiện nghĩa vụ càng sớm thì càng mang lại lợi ích cho bên có quyền. Thực
tế cho thấy, trong không ít trường hợp, việc thực hiện nghĩa vụ trước thời hạn mà
các bên đã thỏa thuận có thể gây thiệt hại cho người có quyền. Ví dụ: A cho B mượn
chiếc ô tô của mình trong thời hạn một năm, theo đó, do không có nhu cầu sử dụng
gara ô tô trong vòng một năm nên A đã cho C thuê gara ô tô của mình để sử dụng.
Trong trường hợp này, nếu B trả xe ô tô cho A trước thời hạn một năm sẽ gây khó
khăn cho A vì không có chỗ để xe, nếu lấy gara để để xe thì A lại vi phạm hợp đồng đối
với C.

Vì vậy, để đảm bảo quyền lợi của các bên, tại Điều 285 BLDS 2005 đã quy
định việc thực hiện nghĩa vụ trước thời hạn phải có sự đồng ý của bên có quyền,
trường hợp người có quyền đồng ý cho phép thực hiện nghĩa vụ trước thời hạn hoặc
bên có nghĩa vụ tự ý thực hiện nghĩa vụ trước thời hạn và bên có quyền chấp nhận
việc thực hiện đó thì nghĩa vụ được xem là đã hoàn thành đúng thời hạn.
Trong trường hợp không có sự thỏa thuận của các bên và pháp luật không quy
định về thời hạn thực hiện nghĩa vụ thì người có quyền có thể yêu cầu người có
nghĩa vụ thực hiện nghĩa vụ vào bất kỳ thời điểm nào, tuy nhiên, cần phải báo cho
người có nghĩa vụ trước một khoảng thời gian hợp lý đủ để người có nghĩa vụ có
điều kiện thực hiện nghĩa vụ. Khái niệm thời gian hợp lý không thể đồng nhất trong
mọi trường hợp mà chỉ có thể xác định cho từng trường hợp cụ thể.
Việc thực hiện nghĩa vụ hợp đồng đúng thời hạn có ý nghĩa quan trọng cho sự
điều hòa những quan hệ pháp lý trong xã hội. Một chủ nợ có một khoản tiền cho


17

vay đến hạn vào một ngày nào đó có thể cùng ngày ấy hoặc một vài ngày sau phải
trả một món nợ cho chủ nợ khác. Vì thế, người đó phải sắp xếp thời hạn của các
khoản nợ cho vay và món nợ của mình để làm sao có thể thực hiện được những
nghĩa vụ theo cam kết của họ. Nếu người mắc nợ không tự nguyện thi hành nghĩa
vụ đúng hạn thì nhiều nghĩa vụ sau đó có thể bị ảnh hưởng 1. Do đó, người có nghĩa
vụ phải có nghĩa vụ thực hiện đúng theo thời hạn đã thỏa thuận, không được phép
chậm thực hiện nghĩa vụ hợp đồng. Việc chậm thực hiện nghĩa vụ theo hợp đồng
của người có nghĩa vụ được coi là thực hiện nghĩa vụ hợp đồng không đúng thời
hạn, điều này có thể dẫn tới hậu quả là người có nghĩa vụ phải bồi thường thiệt hại
phát sinh cho người có quyền. Liên quan tới vấn đề này, một câu hỏi được đặt ra đó
là trong trường hợp người có quyền chậm tiếp nhận việc thực hiện nghĩa vụ hợp
đồng thì hành vi đó của người có quyền cũng có thể được coi là chậm thực hiện
nghĩa vụ được không. Ví dụ, trong hợp đồng mua bán tôm đông lạnh giữa công ty A

và công ty B, theo thỏa thuận, ngày 12/04/2012, Công ty A có trách nhiệm giao
hàng cho Công ty B tại kho của Công ty B. Đến ngày 12/4/2012, theo đúng thỏa
thuận trong hợp đồng, Công ty A đã vận chuyển tôm đông lạnh đến kho của Công ty
B để thực hiện nghĩa vụ giao hàng. Tuy nhiên, khi Công ty A giao hàng thì Công ty
B lại không nhận hàng vì lý do là chưa chuẩn bị được kho bãi. Vậy trong trường
hợp này, theo thỏa thuận của hợp đồng thì ngày 12/4/2012 là ngày mà Công ty B
tiếp nhận quyền của mình (nhận hàng) và công ty A thực hiện nghĩa vụ của mình
(giao hàng). Nhưng khi Công ty A giao hàng, Công ty B không nhận dẫn tới gây
thiệt hại cho công ty A thì trong trường hợp này Công ty B chậm thực hiện nghĩa vụ
tiếp nhận hàng hoá cho nên phải chịu trách nhiệm dân sự.
1.2.3.3. Thực hiện đúng phương thức
Thực hiện đúng phương thức là đúng cách thức thực hiện nghĩa vụ mà các bên
đã thoả thuận trong hợp đồng hoặc do pháp luật quy định. Trong trường hợp, bên có
nghĩa vụ phải thực hiện nhiều công việc khác nhau thì công việc nào thực hiện
trước và công việc nào thực hiện sau và vào thời hạn thực hiện như thế nào..
1

Nguyễn Mạnh Bách: Pháp luật về hợp đồng, NXB. Chính trị quốc gia, H1995, tr 108.


18

Việc thực hiện hợp đồng phải tuân theo cách thức do các bên thỏa thuận và xác
định trong nội dung của hợp đồng. Thông thường, các bên tự xác định với nhau về
nghĩa vụ được thực hiện như thế nào, bằng cách nào, bằng một lần hay nhiều lần,
theo một thời hạn cụ thể hay theo định kỳ, người có nghĩa vụ trực tiếp thực hiện
công việc hay được thông qua người thứ ba, phải thực hiện nghĩa vụ đã xác định
hay được thực hiện một nghĩa vụ khác để thay thế v.,v..
Trong trường hợp các bên không có thỏa thuận thì việc thực hiện nghĩa vụ phải
theo phương thức do pháp luật quy định

- Thực hiện đúng theo phương thức các bên tự thỏa thuận: về nguyên tắc, các
bên có quyền tự do thỏa thuận phương thức để thực hiện hợp đồng. Khi phương
thức thực hiện hợp đồng đã được các bên thỏa thuận trong hợp đồng thì trong quá
trình thực hiện các bên phải thực hiện đúng theo các thỏa thuận đã đưa ra, đã cam kết.
- Thực hiện nghĩa vụ theo phương thức do pháp luật quy định.
Trong trường hợp các bên không có thỏa thuận về phương thức thực hiện hợp
đồng thì các bên phải tuân thủ các quy định của pháp luật về việc thực hiện nghĩa
vụ theo hợp đồng.
Như chúng ta đã biết, phương thức thực hiện nghĩa vụ hợp đồng phụ thuộc
trực tiếp vào đối tượng của nghĩa vụ. Khi đối tượng của nghĩa vụ là vật không chia
được hoặc là công việc phải được thực hiện cùng một lúc thì đó là nghĩa vụ không
chia được theo phần. Khi nghĩa vụ mà đối tượng là vật chia được hoặc công việc có
thể chia thành nhiều phần để thực hiện thì việc thực hiện nghĩa vụ không phải dưới
hình thức một hành vi cụ thể mà có thể theo từng phần một, bằng phương thức thực
hiện nhiều hành vi trong thời hạn quy định của hợp đồng hay nói cách khác, nghĩa
vụ thực hiện có thể phần chia được theo phần.
Theo quy định tại Điều 300, BLDS 2005 thì: “1. Nghĩa vụ dân sự phân chia
được theo phần là nghĩa vụ mà đối tượng của nghĩa vụ là vật chia được hoặc công
việc có thể chia thành nhiều phần để thực hiện. 2. Bên có nghĩa vụ có thể thực hiện
từng phần nghĩa vụ, trừ trường hợp có thoả thuận khác”. Như vậy, theo quy định


19

tại điều luật này thì đối với nghĩa vụ mà đối tượng của nghĩa vụ là vật chia được
hoặc công việc có thể chia thành nhiều phần thì bên có nghĩa vụ có thể thực hiện
từng phần một trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác. Quy định này có điểm
hợp lý nhưng cũng có điểm bất hợp lý. Việc để ngỏ khả năng “bên có nghĩa vụ có
thể thực hiện từng phần nghĩa vụ” là điểm hợp lý, tuy nhiên nó lại trở thành bất hợp
lý khi nguyên tắc thực hiện này được áp dụng cho mọi nghĩa vụ (trừ nghĩa vụ mà

đối tượng là vật không chia được hoặc công việc phải thực hiện cùng một lúc).
Tương ứng với nguyên tắc này, người có quyền bắt buộc phải tiếp nhận từng phần
nghĩa vụ đã thực hiện của bên có nghĩa vụ, điều này sẽ dẫn đến một hệ quả là mục
đích của giao dịch khó có thể đạt được bởi thực tế cho thấy các giao dịch chỉ đạt
được mục đích khi nghĩa vụ được thực hiện một lần và toàn bộ. Bên cạnh điểm bất
hợp lý của quy định này thì việc quy định phương thức thực hiện nghĩa vụ chia
được theo phần cũng là một trong những quy định được dự liệu đối với những khả
năng xử sự có thể xảy ra trong cuộc sống hàng ngày và chỉ có thể cưỡng chế áp
dụng nó đối với một số trường hợp cụ thể mà pháp luật quy định hoặc do chính bản
chất, nội dung của nghĩa vụ đòi hỏi. Ví dụ: thực hiện nghĩa vụ dân sự theo định kỳ;
thanh toán các khoản nợ có đảm bảo bằng các tài sản thế chấp hoặc cầm cố… trong
trường hợp này nếu tài sản đưa đi cầm cố, thế chấp không đủ để thanh toán khoản
nợ thì nghĩa vụ thanh toán theo phần, tức khoản nợ sẽ được thanh toán trong quá
trình thanh lý tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã theo quy định tại Điều 35, Luật
Phá sản năm 2004.
Quy định tại Điều 300, BLDS 2005 cũng không phù hợp với xu thế chung của
các nước trên thế giới về thực hiện nghĩa vụ theo phần. Theo quy định tại Điều
1220, Bộ luật dân sự Pháp thì: “nghĩa vụ, dù có thể phân chia được theo phần vẫn
phải được thực hiện giữa người có quyền và người có nghĩa vụ như là nghĩa vụ
không phân chia được theo phần. Tính chất phân chia được theo phần chỉ được áp
dụng đối với những người thừa kế của họ, theo đó người thừa kế của người có
quyền hoặc của người có nghĩa vụ chỉ có quyền yêu cầu thực hiện nghĩa vụ hoặc
chỉ phải thực hiên nghĩa vụ tương ứng với phần mà mình được hưởng phải thực


20

hiện với tư cách là người đại diện của người có quyền hay người có nghĩa vụ”. Hay
theo quy định tại Điều 6.1.2 và Điều 6.1.3 Bộ nguyên tắc của Unidroit về hợp đồng
thương mại 2004 thì: “bên có nghĩa vụ phải thực hiện nghĩa vụ một lần, trong phạm

vi có thể, trừ trường hợp hoàn cảnh cho phép xác định khác” và “khi đến hạn thực
hiện nghĩa vụ, bên có quyền có thể từ chối chấp nhận đề nghị thực hiện một phần
nghĩa vụ, bất kể đề nghị đó có kèm theo hay không kèm theo bảo đảm về thực hiện
đúng phần nghĩa vụ còn lại”. Ngoại lệ duy nhất là nếu việc thực hiện nghĩa vụ toàn
bộ và một lần không đem lại “lợi ích chính đáng” hiển nhiên cho bên có quyền thì
bên có quyền không thể từ chối việc thực hiện nghĩa vụ theo phần. Các quy định tại
Bộ luật dân sự Pháp hay Bộ nguyên tắc của Unidroit về hợp đồng thương mại 2004
nhằm đảm bảo nguyên tắc đó là nghĩa vụ phải được thực hiện đầy đủ. Bên có quyền
có thể từ chối đề nghị thực hiện một phần dù đề nghị đó có kèm theo hay không
kèm theo bảo đảm về việc thực hiện đúng phần còn lại vì bên có quyền được quyền
nhận toàn bộ những gì đã được quy định (thỏa thuận) và vì vậy, việc thực hiện một
phần thường bị coi là không thực hiện hợp đồng, đây là sự khác biệt lớn giữa quy
định của các nước cũng như Bộ nguyên tắc của Unidroit về hợp đồng thương mại
2004 và quy định của BLDS 2005.
Một trong các nội dung thực hiện đúng phương thức là thực hiện đúng phương
thức thanh toán hợp đồng. Việc thực hiện đúng phương thức thanh toán hợp đồng có
ý nghĩa quan trọng đáp ứng yêu cầu của bên có quyền.
Phương thức thanh toán là cách thức mà một bên áp dụng để thực hiện việc trả
tiền cho bên kia, về nguyên tắc, việc thanh toán được thực hiện theo sự tự thỏa
thuận của các bên, theo đó các bên có thể thỏa thuận đồng tiền thanh toán (với điều
kiện đồng tiền đó được phép sử dụng trong các giao dịch theo quy định của pháp
luật); hình thức thanh toán (thanh toán một lần hoặc nhiều lần…); thanh toán bằng
tiền mặt hoặc chuyển khoản…
Về nguyên tắc, các bên có thể thỏa thuận với nhau về phương thức thanh toán,
theo đó các bên có thể thanh toán bằng tiền, hàng đổi hàng… Thông thường, các
bên lựa chọn phương thức thanh toán bằng tiền. Trong trường hợp này đồng tiền


21


được sử dụng phải là đồng tiền pháp luật cho phép được sử dụng cho các hợp đồng
cụ thể. “Trên lãnh thổ Việt Nam, mọi giao dịch, thanh toán, niêm yết, quảng cáo
của người cư trú, người không cư trú không được thực hiện bằng ngoại hối, trừ các
giao dịch với tổ chức tín dụng, các trường hợp thanh toán thông qua trung gian
gồm thu hộ, uỷ thác, đại lý và các trường hợp cần thiết khác được Thủ tướng Chính
phủ cho phép” (Điều 22 Pháp lệnh ngoại hối năm 2005). Theo quy định này thì
đồng tiền thanh toán trong các giao dịch dân sự trên lãnh thổ Việt Nam phải là đồng
Việt Nam đồng trừ các giao dịch với tổ chức tín dụng, các trường hợp thanh toán
thông qua trung gian gồm thu hộ, ủy thác và các trường hợp cần thiết khác được
Thủ tướng Chính phủ cho phép.
Trong phương thức thanh toán thì các bên có thể lựa chọn hình thức thanh toán
là thanh toán bằng tiền mặt hoặc chuyển khoản.
Tuy nhiên, trong một số trường hợp nhất định, hình thức thanh toán phải tuân
theo các quy định của pháp luật liên quan tới việc thanh toán không dùng tiền mặt
theo quy định của pháp luật. Theo đó, đối với “các tổ chức sử dụng vốn nhà nước
khi chi trả cho người thụ hưởng có tài khoản tiền gửi thanh toán tại các tổ chức
cung ứng dịch vụ thanh toán, Kho bạc Nhà nước với mức tiền trên 30 triệu đồng
cho cùng một mục đích thanh toán phải sử dụng các phương tiện thanh toán không
dùng tiền mặt để chi trả; với mức chi trả từ 30 triệu đồng trở xuống thì được sử
dụng tiền mặt để chi trả” (khoản 3 Thông tư số 01/2007/TT-NHNN ngày 7/3/2007
hướng dẫn thực hiện Điều 4 và Điều 7 Nghị định 161/2006/NĐ-CP ngày
28/12/2006 về thanh toán dùng tiền mặt). Theo đó, chỉ đối với những giao dịch có
mức thanh toán dưới 30 triệu đồng thì các bên mới có thể dùng tiền mặt để thanh
toán, còn đối với các giao dịch giá trị trên 30 triệu đồng thì việc thanh toán phải sử
dụng các phương tiện thanh toán không dùng tiền mặt để chi trả.
Chương 2
THỰC HIỆN HỢP ĐỒNG DÂN SỰ THEO CÁC QUY ĐỊNH
CỦA PHÁP LUẬT THỰC ĐỊNH
Thực hiện hợp đồng dân sự là bên có nghĩa vụ trong hợp đồng phải làm hoặc
không được làm một công việc theo một thời hạn nhất định đã được xác định trong

nội dung của hợp đồng dân sự, qua đó thỏa mãn quyền dân sự tương ứng của bên kia.


22

Tùy theo tính chất của từng loại hợp đồng mà pháp luật quy định việc thực
hiện hợp đồng thành: thực hiện hợp đồng đơn vụ, thực hiện hợp đồng song vụ và
thực hiện hợp đồng vì lợi ích của người thứ ba.
2.1. Thực hiện hợp đồng đơn vụ
2.1.1. Khái quát về hợp đồng đơn vụ
Hợp đồng đơn vụ là hợp đồng trong đó chỉ có một bên có nghĩa vụ còn một
bên có quyền. Theo quy định tại Điều 413, BLDS 2005 thì thực hiện hợp đồng đơn
vụ là “đối với hợp đồng đơn vụ, bên có nghĩa vụ phải thực hiện nghĩa vụ đúng như
đã thỏa thuận; chỉ được thực hiện trước hoặc sau thời hạn, nếu bên có quyền đồng ý”.
Như vậy, hợp đồng đơn vụ là hợp đồng trong đó chỉ có một bên có nghĩa vụ
còn một bên có quyền, một bên luôn là chủ thể của quyền, một bên luôn là chủ thể
của nghĩa vụ. Trong các hợp đồng đơn vụ, bên có nghĩa vụ phải thực hiện nghĩa vụ
đó đúng như đã thỏa thuận. Nếu bên có nghĩa vụ thực hiện nghĩa vụ đó trước hoặc
sau thời hạn thỏa thuận mà không có sự đồng ý của bên có quyền thì sẽ bị coi là vi
phạm hợp đồng và phải gánh chịu trách nhiệm do vi phạm hợp đồng. Việc quy định
chặt chẽ về việc thực hiện nghĩa vụ của bên có nghĩa vụ nhằm đảm bảo cho người
có quyền không bị động khi phải tiếp nhận việc thực hiện hợp đồng trước hoặc sau
thời hạn thỏa thuận. Ví dụ: hợp đồng cho mượn tài sản là hợp đồng đơn vụ. Bên
mượn tài sản phải có nghĩa vụ giữ gìn, bảo quản tài sản và trả lại tài sản khi hết thời
hạn mượn. Người cho mượn luôn là chủ thể của quyền, còn người mượn luôn là chủ
thể của nghĩa vụ. Tuy nhiên, cần lưu ý rằng “hợp đồng chỉ có một bên có nghĩa vụ”
chỉ mang tính chất tương đối. Trong các loại hợp đồng được quy định trong BLDS
2005, chỉ có hợp đồng tặng cho tài sản và hợp đồng cho mượn tài sản có thể là hợp
đồng đơn vụ, nhưng không phải hợp đồng tặng cho tài sản hay hợp đồng cho mượn
tài sản cũng là hợp đồng đơn vụ. Ví dụ: tặng cho tài sản có điều kiện, vẫn thuộc loai

hợp đồng song vụ, bởi lẽ bên được tặng cho phải có nghĩa vụ thực hiện các điều
kiện được nêu trong hợp đồng thì mới được nhận tài sản tặng cho. Hay đối với hợp
đồng cho mượn tài sản, pháp luật quy định bên cho mượn tài sản sẽ phải thực hiện
nghĩa vụ cung cấp thông tin cần thiết về việc sử dụng tài sản hoặc thông báo khuyết


23

tật của tài sản cho bên mượn tài sản biết; thanh toán chi phí sửa chữa tài sản, bồi
thường thiệt hại nếu vi phạm nghĩa vụ thanh toán,vv... Các nghĩa vụ này phát sinh
khi tài sản mà bên mượn cần hướng dẫn sử dụng, hoặc có khuyết tật,v,v.. Trường
hợp này hợp đồng cho mượn tài sản là hợp đồng song vụ chứ không phải hợp đồng
đơn vụ nữa.
2.1.2.Thực hiện đúng các thoả thuận trong hợp đồng đơn vụ
Nội dung của hợp đồng theo quy định tại Điều 402 BLDS 2005 gồm: các điều
khoản về đối tượng, thời hạn, địa điểm, giá cả, phương thức thanh toán và các nội
dung khác. Trong các nội dung đó thì việc thực hiện đúng về đối tượng, thời hạn,
địa điểm, giá cả có ý nghĩa quan trọng, bởi lẽ đây là những nội dung chủ yếu của hợp đồng.
2.1.2.1. Thực hiện đúng thoả thuận về đối tuợng trong hợp đồng đơn vụ
Thực hiện đúng về đối tượng của hợp đồng nói chung và của hợp đồng đơn vụ
nói riêng thì đối tượng đó phải được pháp luật phép giao dịch và phải thực hiện được.
Theo quy định tại khoản 3 Điều 282 BLDS 2005 thì “chỉ những tài sản có thể
giao dịch, những công việc có thể thực hiện được mà pháp luật không cấm, không
trái đạo đức xã hội thì mới là đối tượng của nghĩa vụ dân sự”
Như vậy, nếu công việc là đối tượng của nghĩa vụ thì công việc đó phải đảm
bảo yêu cầu “có thể thực hiện được”. Tính “thực hiện được” của đối tượng nghĩa
vụ mang tính khách quan, là khả năng con người trong điều kiện hiện tại, không phụ
thuộc vào từng cá nhân tổ chức và các bên trong quan hệ nghĩa vụ cụ thể. Vì vậy,
nếu các bên đã xác lập quan hệ nghĩa vụ chẳng hạn như bên A thuê bên B xây dựng
một ngôi nhà, thực hiện hợp đồng, bên B đã triển khai các công tác chuẩn bị cho

công việc chính như mua sắm vật liệu, chuyên chở máy móc đến địa điểm xây
dựng, tuy nhiên, do Bên A không có giấy phép xây dựng nên việc xây nhà không
thể tiến hành được, trường hợp này các bên không thể viện dẫn Điều 282 BLDS
2005 để nói rằng nghĩa vụ không thể thực hiện để cho rằng nghĩa vụ chưa được xác lập.


24

Mặt khác, đối tượng của nghĩa vụ có thể là tài sản phải chuyển giao cho người
có quyền, công việc mà bên có nghĩa vụ phải thực hiện hoặc không thực hiện vì lợi
ích của người có quyền hoặc vì lợi ích của người thứ ba. Theo quy định tại Điều
163 BLDS 2005 “Tài sản bao gồm vật, tiền, giấy tờ có giá và các quyền tài sản”,
như vậy, không phải bất cứ tài sản nào hoặc công việc cụ thể nào cũng có thể là đối
tượng của nghĩa vụ. Tài sản chỉ có thể được chấp nhận là đối tượng của nghĩa vụ
khi tài sản đó được phép giao dịch. Ví dụ: A và B thỏa thuận A bán cho B chiếc xe
máy và có trách nhiệm chuyển giao chiếc xe máy cho B, B có trách nhiệm thanh
toán cho A một số tiền là 21 triệu đồng. Trong trường hợp này, chiếc xe máy mà A
bán và số tiền mà B phải trả là đối tượng của nghĩa vụ vì được phép giao dịch. Còn
trong trường hợp, A thỏa thuận bán cho B 1kg heroin thì 1 kg heroin không được
coi là đối tượng của nghĩa vụ vì nó không được phép giao dịch, bị pháp luật cấm sử
dụng, lưu thông, buôn bán. Trong trường hợp này, vì heroin là tài sản không được
phép giao dịch nên việc các bên thỏa thuận việc mua, bán heroin là vi phạm pháp
luật, sẽ bị xử lý theo quy định của pháp luật.
Trường hợp các bên thoả thuận về vật hạn chế lưu thông, thì việc thực hiện
chuyển giao, hoặc phải hoàn vật đó đúng với các quy định của pháp luật về khai
thác sử dụng, chuyển giao… loại vật đó. Đối những vật tự do lưu thông thì bên có
nghĩa vụ phải thực hiện đúng cam kết về số lượng, chất lượng, hình dáng kích
thước, tính năng công dụng của vật đó. Tuy nhiên, trong khi thực hiện nghĩa vụ giao
vật hoặc phải hoàn thành vật đó mà rủi ro đối tượng của hợp đồng không thể thực
hiện được thì các bên cần phải giải quyết hậu quả đó theo thoả thuận hoặc theo quy

định của pháp luật
Theo quy định của Bộ luật dân sự thì trong trường hợp vì lý do khách quan mà
đối tượng của hợp đồng không thực hiện được thì hợp đồng đó vô hiệu, theo đó các
bên khôi phục lại tình trạng ban đầu, hoàn trả cho nhau những gì đã nhận; nếu
không hoàn trả được bằng hiện vật thì phải hoàn trả bằng tiền, trừ trường hợp tài
sản giao dịch, hoa lợi, lợi tức thu được bị tịch thu theo quy định của pháp luật. Bên
có lỗi gây thiệt hại phải bồi thường.


25

Theo quy định tại Điều 411, BLDS 2005 thì hợp đồng dân sự vô hiệu do có đối
tượng không thể thực hiện được “1. Trong trường hợp ngay từ khi ký kết, hợp đồng
có đối tượng không thể thực hiện được vì lý do khách quan thì hợp đồng này bị vô
hiệu. 2. Trong trường hợp khi giao kết hợp đồng mà một bên biết hoặc phải biết về
việc hợp đồng có đối tượng không thể thực hiện được, nhưng không thông báo cho
bên kia biết nên bên kia đã giao kết hợp đồng thì phải bồi thường thiệt hại cho bên
kia, trừ trường hợp bên kia biết hoặc phải biết về việc hợp đồng có đối tượng không
thể thực hiện được. 3. Quy định tại khoản 2 Điều này cũng được áp dụng đối với
trường hợp hợp đồng có một hoặc nhiều phần đối tượng không thể thực hiện được,
nhưng phần còn lại của hợp đồng vẫn có giá trị pháp lý”.
Như vậy, trong trường hợp vì lý do khách quan mà đối tượng của hợp đồng
không thể thực hiện được thì hợp đồng đó vô hiệu. Lý do khách quan là các lý do
xảy ra không phụ thuộc vào ý chí chủ quan của các bên tham gia giao kết hợp đồng,
đó có thể là do các điều kiện từ thiên nhiên như hỏa hoạn, lũ lụt, thiên tai… hay do
các chính sách của nhà nước thay đổi là cho đối tượng của hợp đồng lúc ký kết là tài
sản được phép lưu thông nhưng khi thực hiện hợp đồng thì nhà nước có quy định
mới về loại tài sản đó, làm cho nó không được phép mua bán, xuất nhập khẩu tài
sản đó… Trong trường hợp này, nếu hợp đồng chưa được thực hiện thì hợp đồng sẽ
vô hiệu, nếu hợp đồng đã thực hiện được một phần thì phần đã thực hiện vẫn có

hiệu lực, chỉ đối với phần còn lại của hợp đồng mà chưa thực hiện mới vô hiệu.
Trường hợp, hợp đồng có nhiều đối tượng thì chỉ những đối tượng nào không thể
thực hiện được thì phần đó bị vô hiệu, các phần còn lại của hợp đồng vẫn có hiệu
lực (đây là trường hợp giao dịch dân sự vô hiệu từng phần theo quy định tại Điều
135, BLDS 2005).
Việc quy định trong trường hợp khi giao kết hợp đồng mà một bên biết hoặc
phải biết về việc hợp đồng có đối tượng không thể thực hiện được, nhưng không
thông báo cho bên kia biết nên bên kia đã giao kết hợp đồng thì phải bồi thường
thiệt hại cho bên kia, trừ trường hợp bên kia biết hoặc phải biết về việc hợp đồng có
đối tượng không thể thực hiện được nhằm hạn chế sự lạm dụng của một bên khi


×