Tải bản đầy đủ (.doc) (12 trang)

Thực trạng xâm phạm quyền của cá nhân đối với hình ảnh,nhận xét và kiến nghị

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (161.15 KB, 12 trang )

MỤC LỤC:
ĐẶT VẤN ĐỀ:...........................................................................................................2
NỘI DUNG:...............................................................................................................2
I. Khái quát về quyền nhân thân của cá nhân đối với hình ảnh:.....................2
1. Khái niệm quyền nhân thân đối với hình ảnh của cá nhân:.......................2
2. Ý nghĩa của việc bảo vệ quyền nhân thân đối với hình ảnh của cá nhân:. 2
3. Các hành vi xâm phạm quyền nhân thân đối với hình ảnh của cá nhân:.3
II. Thực trạng xâm phạm quyền của cá nhân đối với hình ảnh,nhận xét và
kiến nghị:...............................................................................................................4
1. Thực tiễn thực hiện các quy định của pháp luật về quyền đối với hình ảnh
của cá nhân:.......................................................................................................4
2. Hướng khắc phục thực trạng xâm phạm quyền đối với hình ảnh của cá
nhân:...................................................................................................................8
KẾT LUẬN:.............................................................................................................11
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO:.............................................................12

1


ĐẶT VẤN ĐỀ:
Trong xã hội hiện nay khi mà nền kinh tế phát triển thì cũng kéo theo sự phát triển
của khoa học kĩ thuật vì vậy có loại hình như internet hay các phương tiện thông tin đại
chúng cáng phổ biến các hình thức quảng cáo cũng đa dạng việc xâm phạm tới hình ảnh
của cá nhân cũng ngày càng tinh vi hơn. Sau đây là đề tài em chọn về thực trạng xâm
phạm hình ảnh của cá nhân hiện nay.

NỘI DUNG:
I. Khái quát về quyền nhân thân của cá nhân đối với hình ảnh:
1. Khái niệm quyền nhân thân đối với hình ảnh của cá nhân:
Hình ảnh của cá nhân được pháp luật bảo vệ và tôn trọng bằng việc qui định là một
quyền nhân than của cá nhân tại Điều 31 BLDS năm 2005 với tên gọi là “Quyền đối với


hình ảnh của cá nhân”. Tuy nhiên điều luật này không đưa ra khái niệm về quyền của cá
nhân đối với hình ảnh của cá nhân, các văn bản pháp luật khác cũng không văn bản nào
đưa ra khái niệm về quyền đối với hình ảnh của cá nhân. Vì vậy để giúp cho việc hiểu rõ
bản chất của quyền nhân thân đối với hình ảnh cá nhân, sau đây em xin đưa ra khái niệm
như sau:
“Quyền đối với hình ảnh của cá nhân là quyền nhân thân gắn liền với cá nhân
được pháp luật ghi nhận và bảo vệ,theo đó cá nhân được phép sử dụng hình ảnh và cho
phép người khác sử dụng hình ảnh của mình”

2. Ý nghĩa của việc bảo vệ quyền nhân thân đối với hình ảnh của cá nhân:
Thứ nhất, đối với chính chủ thể có hình ảnh,có thể thấy “hình ảnh” là yếu tố tinh
thần gắn liền với bản thân chủ thể, nó có ý nghĩa rất lớn đối với đời sống tinh thần của họ,
mỗi hành vi xâm phậm đến hình ảnh cá nhân trên thực tế thường ảnh hưởng sâu sắc tới đời
sống tinh thần cá nhân đó, vì không chỉ xâm phậm tới hình ảnh thôi mà còn xâm phạm tới
danh dự, nhân phẩm uy tín của cá nhân. Bởi vậỵ, việc bảo vệ quyền đối với hình ảnh của
cá nhân có ý nghĩa lớn trong việc ngăn chặn kịp thời hành vi xâm phạm đến hình ảnh cá
nhân, tạo điều kiện cho cá nhân yên tâm lao động và sáng tạo .

2


Thứ hai, về phía nhà nước việc bảo vệ quyền của cá nhân đối với hình ảnh góp
phần hiện thực hóa nội dung chủ trương, chính sách pháp luật của nhà nước về bảo vệ
quyền nhân thân của cá nhân từ đó tăng cường lòng tin của nhân dân vào Nhà nước, vào
qui định của pháp luật để mọi người sống và thực hiện theo Hiến pháp và pháp luật.
Thứ ba, việc bảo vệ hình ảnh của cá nhân còn có ý nghĩa to lớn đối với xã hội đó
là đảm bảo trật tự xã hội và giáo dục ý thức pháp luật làm cho mọi người tôn trọng quyền
đối với hình ảnh của cá nhân.

3. Các hành vi xâm phạm quyền nhân thân đối với hình ảnh của cá nhân:

Thứ nhất, sử dụng hình ảnh của cá nhân mà chưa được sự đồng ý của người đó
hoặc người có quyền liên quan. Theo qui định tại Khoản 2 Điều 31 BLDS năm 2005: “2.
Việc sử dụng hình ảnh của cá nhân phải được người đó đồng ý; trong trường hợp người
đó đã chết, mất năng lực hành vi dân sự, chưa đủ mười lăm tuổi thì phải được cha, mẹ,
vợ, chồng, con đã thành niên hoặc người đại diện của người đó đồng ý, trừ trường hợp vì
lợi ích của Nhà nước, lợi ích công cộng hoặc pháp luật có quy định khác”
Như vậy theo điều luật trên, về nguyên tắc cá nhân tổ chức bất kì sử dụng hình ảnh
của người khác cho mục đích bất kì mà chưa được phép của người đó đều bị coi là hành
vi vi phạm pháp luật.
Trên thực tiễn hành vi xâm phạm này diễn ra phổ biến, những chủ thể vi phạm
thường sử dụng hình ảnh của người khác cho mục đích thương mại mạng lại lợi nhuận mà
không xin phép các chủ thể có quyền đối với hình ảnh đó.
Thứ hai, sử dụng hình ảnh cá nhân mà xâm phạm tới danh dự nhân phẩm,uy tín
của người đó.Tại khoản 3 điều 31 BLDS đã qui định: “3. Nghiêm cấm việc sử dụng hình
ảnh của người khác mà xâm phạm danh dự, nhân phẩm, uy tín của người có hình ảnh.”.
Theo như qui định này thì việc sử dụng hình ảnh mặc dù hợp pháp là được sự đồng ý của
người đó nhưng việc sử dụng là vi phạm pháp luật bởi bởi xâm phạm quyền được bảo vệ
danh dự nhân phẩm, uy tín của cá nhân.
Ngoài ra, tùy theo tính chất và mức độ nguy hiểm của những hành vi xâm phạm
tới quyền của cá nhân đối với hình ảnh mà pháp luật qui định những hành vi vi phạm đó sẽ
bị truy cứu trách nhiệm hình sự hay hành chính.

3


Trên đây là những hành vi bị coi là vi phạm pháp luật do xâm phạm tới hình ảnh
của cá nhân theo qui định của pháp luật. Với qui định đó của pháp luật góp phần bảo vệ
tốt hơn quyền dân sự của công dân nói chung và quyền đối với hình ảnh của cá nhân.

II. Thực trạng xâm phạm quyền của cá nhân đối với hình ảnh,nhận xét

và kiến nghị:
1. Thực tiễn thực hiện các quy định của pháp luật về quyền đối với hình
ảnh của cá nhân:
Hình ảnh của cá nhân thuộc lĩnh vực riêng tư của mỗi người. Tuy nó không có gì bí
mật, cần phải hạn chế sử dụng nhưng một khi muốn sử dụng những hình ảnh của cá nhân
ai đó, nhất là sử dụng khai thác vào mục đích kinh doanh (như in lịch, in bìa sách, bao bì
mẫu quảng cáo…) thì đều phải hỏi ý kiến “người chủ” hình ảnh đó (người thật có hình
đó). Bởi về nguyên tắc, mọi cá nhân đều có quyền đối với hình ảnh của mình. Mỗi người
đều có quyền cho hay không cho người khác sử dụng hình ảnh của mình. Nếu chưa được
sự đồng ý mà sử dụng đã là vi phạm quyền của cá nhân đối với hình ảnh. Tuy nhiên trên
thực tế việc sử dụng “chùa” hình ảnh của người khác vào mục đích kinh doanh lại khá phổ
biến. Chúng ta không còn lạ gì với những biển quảng cáo của các cửa hàng áo cưới, băng
đĩa hay thậm chí là cắt tóc, gội đầu…với hình ảnh của hoa hậu, diễn viên nổi tiếng tràn lan
trên khắp các con phố. Và tất nhiên “nhân vật chính” của những bức ảnh đó không những
không có bất cứ một mối quan hệ nào với việc kinh doanh đó mà thậm chí còn không hề
được chủ kinh doanh hỏi xin phép. Đơn cử một trường hợp được một tờ báo mạng đưa
bài: “Ban đầu đi trên đường Tam Trinh, tôi để ý thấy một cửa hàng trương biển café khá
đặc biệt. Trong khi nhiều cửa hàng dọc phố này đều lấy hình một mỹ nữ bên Tây bên Tàu
trương lên biển hiệu, thì cửa hàng café này lại dùng một ảnh chân dung rất nền nã, nhìn
quen quen: Chiếc răng khểnh ấy không thể khác được là đương kim Hoa hậu Việt Nam,
Mai Phương Thúy. So với bức ảnh của Thúy được công chúng biết đến rộng rãi thì y hệt,
rõ ràng bức ảnh đã được dùng làm “mẫu” để vẽ biển hiệu quảng cáo. Đoán giá đoán non
mãi không hiểu Thúy mở cửa hàng café hay có "mối liên hệ" nào đó với cái quán café bên
con đường bụi bặm lắm xe tải này??? Hay là, họ đã “mượn” bức hình đẹp của Thúy
để...quảng cáo? Chưa kịp hỏi Thúy, thì cửa hàng café này đã đổi biển hiệu, kinh doanh
thêm dịch vụ "gội đầu, tẩm quất" nữa nhưng vẫn trương khuôn mặt thánh thiện của Mai

4



Phương Thúy”1. Hay như gần đây, trên các trang báo mạng tràn lan một dịch vụ được cho
là hot đối với các đấng mày râu khi chỉ cần nhắn “M***” và gửi tới một đầu số dịch vụ thì
bất kỳ chủ thuê bao di động nào cũng có thể sở hữu bộ sưu tập những tấm hình “nóng” của
các hoa hậu, diễn viên nổi tiếng hay các hotgirl…với giá 15.000 đồng. Và Mai Phương
Thúy lại một lần nữa trở thành nạn nhân của hành vi xâm phạm nghiêm trọng đến quyền
đối với hình ảnh của mình. Trao đổi với Zing.vn, Hoa hậu Việt Nam 2006 Mai Phương
Thúy khẳng định cô không hề hay biết gì về chuyện ảnh của mình được rao bán qua tin
nhắn và cũng không hề có bất kỳ ai liên hệ với cô để xin phép kinh doanh những tấm hình
đó. Tuy khá bất bình, nhưng hoa hậu khẳng định sẽ không tự mình đưa ra những giải pháp
cho vụ việc, mà tỏ ý muốn những người có trách nhiệm sẽ quan tâm hơn đến vấn đề sử
dụng hình ảnh sai mục đích.
Trên đây chỉ là một số trong vô vàn những hành vi xâm phạm quyền đối với hình
ảnh của cá nhân. Việc xâm phạm này đang ngày càng trở nên phổ biến và đối tượng
thường được nhắm tới là hình ảnh cá nhân của các nhân vật có tiếng tăm trong làng giải
trí. Tuy nhiên cũng qua thực trạng này cũng có thể nhận thấy rằng, có lẽ người Việt Nam
còn quá “e dè” trong việc yêu cầu pháp luật bảo vệ quyền lợi của mình thông qua thủ tục
kiện cáo. Phải chăng họ còn e ngại rằng chỉ tổ tốn thời gian, tiền bạc để rồi sự việc cũng
chẳng đi đến đâu? Đây có lẽ là suy nghĩ phổ biến của đại đa số, tuy nhiên không phải là tất
cả. Dù ít nhưng vẫn có những trường hợp sau khi quyền về hình ảnh của cá nhân mình bị
xâm phạm, đã quyết định đòi lại công lý cho mình! Đó là vụ việc: “Đầu năm 2004, gia
đình bé Minh Khôi kiện Công ty Biti’s, đòi bồi thường thiệt hại 154 triệu đồng vì Biti’s xài
trái phép ảnh của bé Minh Khôi in trên bìa lịch, tập quảng cáo. Tháng 9-2004, TAND
quận 6 (TP.HCM) buộc Biti’s phải xin lỗi công khai gia đình bé Khôi, chấm dứt vô điều
kiện việc sử dụng trái phép hình ảnh của bé và bồi thường gần ba triệu đồng” hay như vụ
việc “Tháng 12-2004, nhà nhiếp ảnh Nguyễn Văn Trí phát hiện bức ảnh in trên tờ vé số
An Giang chính là tấm ảnh có tên “Hoa sen” mà ông chụp ở Đồng Tháp Mười. Ông Trí
đã hỏi Công ty Xổ số kiến thiết An Giang và Công ty cổ phần In An Giang, được các nơi
này cho biết lấy bông sen trên đĩa vi tính, không đề tên tác giả nên không biết và “mong
tác giả thông cảm”!”.
1


Theo />
5


Qua những trường hợp trên đây, có thể nhận thấy rằng, sử dụng “chùa” hình ảnh
của cá nhân đang ngày càng trở lên phổ biến và dần trở thành thói quen của nhiều người.
Trên thực tế, khi sử dụng hình ảnh của cá nhân khác, cùng lắm người nào “biết điều” cũng
chỉ hỏi ý kiến của người sáng tác (chụp, vẽ ảnh) chứ ít khi chịu tìm đến hỏi ý kiến của
“nhân vật trong ảnh”. Bởi người ta vẫn thường đinh ninh rằng người có hình ảnh được sử
dụng để “lăng – xê” mình trước xã hội đã là…“khoái” lắm rồi, cần gì phải hỏi ý kiến!
Nhưng một khi chuyện đã lỡ rồi, người có hình ảnh đó lại tìm cách làm khó dễ, việc xin
lỗi không thôi chưa đủ!!! Vậy đặt ra một thực tế là, nếu cá nhân khởi kiện lên Tòa án yêu
cầu buộc người xâm phạm hình ảnh phải bồi thường thì mức bồi thường sẽ được xác định
như thế nào? Về vấn đề này, cho đến nay vẫn chưa có bất cứ một văn bản nào hướng dẫn,
cho nên mạnh ai người ấy đòi, đòi cho bằng thích, đến khi vụ việc phải kéo nhau đến toà
án thì toà cũng chỉ theo thông lệ là… “việc dân sự muốn xử sao cũng được”! . Đây chính
là nguyên nhân khiến cho việc xác định mức bồi thường cho các hành vi xâm phạm của
mỗi Tòa lại một khác. Các tòa án thường căn cứ vào giá trị sử dụng hình ảnh trong việc
kinh doanh mà buộc người sử dụng hình ảnh của người khác trái phép phải thanh toán một
khoản tiền có thể là vài triệu đồng, vài chục triệu và cũng có thể lên đến hàng trăm triệu
đồng.
Việc sử dụng “chùa” hình ảnh cá nhân của người khác đã trở thành một thói quen
“khó sửa” của một đại bộ phận thành viên trong xã hội. Sử dụng hình ảnh của cá nhân mà
chưa xin phép là vi phạm quyền đối với hình ảnh của cá nhân. Pháp luật nghiêm cấm
những hành vi xâm phạm quyền đối với hình ảnh của cá nhân dù việc xâm phạm đấy có
gây ảnh hưởng đến người bị xâm phạm hình ảnh hay không. Có thể thấy rằng, việc sử
dụng hình ảnh của cá nhân như những trường hợp vừa nêu thường chỉ gây khó chịu cho
người bị người khác sử dụng hình ảnh hoặc chỉ gây những hiểu lầm nhỏ. Nhưng trên thực
tế, có những trường hợp việc sử dụng hình ảnh cá nhân lại có tác động xấu đến cá nhân,

gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến công việc, cuộc sống của không chỉ cá nhân mà còn là
gia đình và người thân. Đó là việc chụp ảnh, đưa tin khi cá nhân đó chẳng may phải “hầu
tòa”. Trên thực tế, những người “ra tòa” dù với vai trò bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ
liên quan hay nguyên đơn, bị đơn... đều cảm thấy “không tiện” hoặc “không hay lắm” nếu
xuất hiện hình ảnh của mình trên báo chí. Ở nhiều phiên tòa, thường các đương sự luôn

6


quay sang hướng khác hoặc cúi đầu, lấy tay che mặt mỗi khi có người cầm máy ảnh chĩa
về phía mình. Đôi khi ánh mắt họ như năn nỉ người phó nháy hãy “bỏ qua” cho họ. Nhiều
người cho rằng bài báo tường thuật phiên tòa mà thiếu hình ảnh của bị cáo rõ ràng thiếu đi
sự sinh động, hấp dẫn. Bởi hình ảnh là một phần không thể thiếu trong bất cứ vụ việc “có
thật” và “đang diễn ra” nào. Thực tế này xảy ra khá phổ biến ở Việt Nam, bởi tuy BLDS
2005 quy định: “Cá nhân có quyền đối với hình ảnh của mình” và “Việc sử dụng hình ảnh
của cá nhân phải được người đó đồng ý”. Nhưng Luật báo chí lại thừa nhận quyền được
tự do quay phim, chụp hình trong các phiên tòa được tổ chức công khai. Chính bởi sự mâu
thuẫn này của pháp luật, đã dẫn đến tình trạng, hình ảnh của cá nhân khi họ không may
phải “hầu tòa” cũng được sử dụng tràn lan trên các mặt báo, trên truyền hình. Vậy chẳng
nhẽ khi chẳng may phải “hầu tòa” (dù với vai trò là bị cáo, nhân chứng, nguyên đơn…) thì
cá nhân đó không còn có quyền đối với hình ảnh của cá nhân(?) Thực tế cho thấy rằng,
việc sử dụng hình ảnh của cá nhân trong những trường hợp này không những gây khó chịu
cho những người bị xâm phạm hình ảnh cá nhân mà việc đăng hình ảnh của họ chẳng khác
nào đóng thêm “dấu đen” lên cuộc đời của họ, khiến con đường hoàn lương đôi lúc gặp
gập ghềnh. Một thân nhân của bị cáo than thở: “Chồng tôi có chút sai lầm, giờ báo chí
đăng hết lên. Cả dòng họ tôi biết, chòm xóm nhìn gia đình tôi với ánh mắt khác. Mai mốt
chắc phải... bỏ xứ mà đi”2. Hay như mấy ngày qua, cư dân mạng xôn xao trước sự xuất
hiện của clip dài 1,5 phút ghi lại cảnh hai phụ nữ và một thanh niên xăm trổ ở ngực trong
tình trạng không mảnh vải che thân đang ngồi trên giường. So với nhiều clip từng được
tung lên các diễn đàn thì những hình ảnh trong clip này không có gì quá đặc biệt, nhưng

nó lại trở thành đề tài gây xôn xao, phẫn nộ trong dư luận, bởi được cho là clip được quay
lại trong quá trình thực hiện bắt quả tang một vụ mua bán dâm do một công an tỉnh Quảng
Ninh ghi hình lại. Và nó cũng được phát tán trên internet với tốc độ chóng mặt. Hành vi
phát tán clip này đã xâm phạm quyền đối với hình ảnh của cá nhân, gây ảnh hưởng
nghiêm trọng đến nhân phẩm, danh dự của những người có mặt trong đoạn clip, đặc biệt là
hai cô gái. Quyền về hình ảnh cá nhân đã được ghi nhận tại Bộ luật Dân sự. Điều 31
BLDS quy định “Việc sử dụng hình ảnh của cá nhân phải được người đó đồng ý”. Luật
cũng “Nghiêm cấm việc sử dụng hình ảnh của người khác mà xâm phạm danh dự, nhân
2

Theo báo Pháp luật thành phố Hồ Chí Minh

7


phẩm, uy tín của người có hình ảnh”. Trong trường hợp clip bắt gái mại dâm, hai cô gái
nạn nhân hoàn toàn có quyền yêu cầu những cán bộ công an đã quay phim chụp ảnh mình
dừng ngay hành vi vi phạm sau đó có thể yêu cầu tòa án buộc người vi phạm phải bồi
thường thiệt hại về vật chất và tinh thần. Như chúng ta đã biết trong những trường hợp vi
phạm pháp luật hình sự, bị toà án kết án bằng một bản án có hiệu lực pháp luật thì các bị
can, bị cáo, bị án, thậm chí là bị án tử hình chỉ bị tước một số quyền, họ vẫn được pháp
luật của Nhà nước bảo đảm để không bị xúc phạm về thân thể cũng như nhân phẩm, danh
dự. Trong khi đó hành vi mua bán dâm chỉ là hành vi vi phạm hành chính thì lẽ nào quyền
về hình ảnh cá nhân của họ lại không được tôn trọng và bảo vệ. Như vậy, theo quy định
của pháp luật thì không ai có quyền sử dụng hình ảnh cá nhân của họ khi chưa được sự
đồng ý của họ. Mà thậm chí ngay cả khi clip này không được tung lên mạng thì việc quay
phim, chụp ảnh lại mà không cho các cô gái được mặc quần áo đã là hành vi xúc phạm
nghiêm trọng danh dự, nhân phẩm cần phải bị xử lý.
Qua đây có thể nhận thấy, việc sử dụng trái phép hình ảnh của cá nhân trong trường
hợp này đã gây ra một hậu quả vô cùng to lớn. Nó không những ảnh hưởng đến nhân

phẩm, danh dự, công việc, cuộc sống của bản thân người có hình ảnh bị xâm phạm mà còn
ảnh hưởng nghiêm trọng đến cuộc sống của những người thân của họ. Phải chăng qua thực
tế này, pháp luật cũng cần nhanh chóng có những quy định phù hợp, khắc phục những
mâu thuẫn trong quy định của pháp luật này để quyền của cá nhân đối với hình ảnh của
mình được tôn trọng và bảo vệ.

2. Hướng khắc phục thực trạng xâm phạm quyền đối với hình ảnh của cá
nhân:
“Mọi người được làm những gì mà pháp luật không cấm”. Đây được xem là
nguyên tắc cơ bản, chỉ đạo việc thực hiện pháp luật của nước ta. Những quy định cần rõ
ràng, chặt chẽ, có tính răn đe cao để các chủ thể hình thành “thói quen tôn trọng” quyền
đối với hình ảnh của cá nhân chủ thể khác. Vì vậy mà để khắc phục được tình trạng xâm
phạm quyền đối với hình ảnh của cá nhân thì cần nhanh chóng sửa đổi, bổ sung để những
quy định về vấn đề này được chặt chẽ và có tính khả thi cao.
Về quy định về quyền đối với hình ảnh của cá nhân tại Điều 31 BLDS: “1. Cá nhân
có quyền đối với hình ảnh của mình; 2. Việc sử dụng hình ảnh của cá nhân phải được

8


người đó đồng ý; trong trường hợp người đó đã chết, mất năng lực hành vi dân sự, chưa
đủ mười lăm tuổi thì phải được cha, mẹ, vợ, chồng, con đã thành niên hoặc người đại diện
của người đó đồng ý, trừ trường hợp vì lợi ích của Nhà nước, lợi ích công cộng hoặc pháp
luật có quy định khác; 3. Nghiêm cấm việc sử dụng hình ảnh của người khác mà xâm
phạm danh dự, nhân phẩm, uy tín của người có hình ảnh”, thì có thể nhận thấy rằng tuy
quy định này của BLDS khá cụ thể nhưng vẫn còn không ít hạn chế:
Thứ nhất, Điều 31 BLDS không miễn trừ việc xin phép khi sử dụng ảnh chụp
phong cảnh hay các buổi tụ tập đông người (biểu tình, tuần hành, hội họp) vì vậy thực tiễn
đặt ra một vấn đề là nếu muốn công bố một bức ảnh có bao nhiêu khuôn mặt người khác
trong đó thì phải đi hỏi ý kiến của từng ấy người cho phép mới được hay sao. Nếu ảnh

chụp chung cả Quốc hội thì phải xin phép bao nhiêu người(?). Hay giả sử khi sử dụng ảnh
cụ Phan Thanh Giản đi sứ qua Pháp chụp cuối thế kỷ XIX thì kiếm đâu ra hậu duệ của cụ
để xin phép. Cho nên thiết nghĩ để những quy định về quyền đối với hình ảnh của cá nhân
được mọi chủ thể tôn trọng và nghiêm chỉnh thực hiện thì luật nên có quy định rõ ràng hơn
về những trường hợp nào sử dụng hình ảnh cá nhân cần phải xin phép (như sử dụng hình
ảnh vào mục đích thương mại hay việc sử dụng hình ảnh làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến
cá nhân có hình ảnh bị xâm phạm…) và cũng nên quy định thời hiệu đối với việc phải xin
phép khi sử dụng hình ảnh của cá nhân.
Thứ hai, Điều 31 BLDS chỉ điều chỉnh hành vi “sử dụng” hình ảnh của người khác
mà không điều chỉnh hành vi “ghi hình”. Đây là một khoảng trống đáng lo ngại của pháp
luật Việt Nam, bởi ngay khi bị ghi hình thì cá nhân đã mất đi một phần quyền định đoạt
đối với hình ảnh của mình. Hơn nữa, trong điều kiện các trang thiết bị ghi hình ngày càng
phổ biến ở Việt Nam thì nguy cơ bị chụp trộm, quay phim trộm ở những nơi nhạy cảm
như nhà nghỉ, nhà tắm hày buồng thử quần áo cao hơn bao giờ hết. Nhưng do pháp luật
dân sự không quy định hành vi “ghi hình” hình ảnh cá nhân của người khác là vi phạm
pháp luật nên nếu không thể chứng minh được người “ghi hình” những hình ảnh đó đã
phát tán các hình ảnh này thì không thể truy cứu trách nhiệm dân sự theo Điều 31 BLDS
hay trách nhiệm hình sự theo Điều 121 và 226 BLHS.
Thứ ba, Quy định về quyền về hình ảnh của cá nhân tại Điều 31 BLDS có quy
định: “…sử dụng hình ảnh của cá nhân phải được người đó đồng ý…”, tuy nhiên trong

9


trong thực tế chúng ta vẫn dễ dàng bắt gặp việc báo chí tự do đưa tin có kèm hình ảnh của
bị cáo tại phiên tòa. Theo quy định tại Điều 28, 36, 37, 38 và 39 Bộ luật hình sự thì chỉ
hạn chế hoặc tước bỏ một số quyền dân sự của bị can, bị cáo như: cấm đảm nhiệm chức
vụ, làm những nghề hoặc công việc nhất định, cấm đi khỏi nơi cư trú... Không có quy định
nào tước bỏ quyền đối với hình ảnh của một người, dù người đó là kẻ phạm tội. Những
điều kể trên lại mâu thuẫn với quy định về quyền hạn của nhà báo được quy định trong

nghị định số 51/NĐCP/2002 của chính phủ: Nhà báo “Được hoạt động nghiệp vụ lấy tin,
chụp ảnh, quay phim, ghi âm tại các phiên tòa xét xử công khai, được dành chỗ ngồi riêng,
được liên lạc trực tiếp với các thẩm phán, luật sư để lấy tin, phỏng vấn theo quy định của
pháp” (khoản 3 điều 8 nghị định số 51/NĐCP/2002 của Chính phủ về việc quy định chi tiết
thi hành Luật báo chí, luật sửa đổi bổ sung một số điều của Luật báo chí) . Phải chăng theo
những quy định này của pháp luật thì những bị cáo khi ra tòa không có quyền đối với hình
ảnh của cá nhân (?). Theo quan điểm của bản thân thì đây là một quy định còn thiếu tính chặt
chẽ và mâu thuẫn của pháp luật Việt Nam. Nên chăng, về vấn đề quyền đối với hình ảnh của
cá nhân nên được pháp luật quan tâm hơn và có những sửa đổi phù hợp để việc bảo đảm thực
hiện quyền này của cá nhân được thực hiện nghiêm chỉnh và bảo đảm.
Về quy định về phương thức bảo vệ quyền đối với hình ảnh của cá nhân, Điều 25
BLDS quy định: “Khi quyền nhân thân của cá nhân bị xâm phạm thì người đó có quyền:
1. Tự cải chính;
2. Yêu cầu người vi phạm hoặc yêu cầu cơ quan, tổ chức có thẩm quyền buộc
người vi phạm chấm dứt hành vi vi phạm, xin lỗi, cải chính công khai;
3. Yêu cầu người vi phạm hoặc yêu cầu cơ quan tổ chức có thẩm quyền buộc người
vi phạm bồi thường thiệt hại”. Tuy nhiên quy định này lại bộc lộ một hạn chế, đó là trong
trường hợp cá nhân có hình ảnh bị xâm phạm đã chết mà việc xâm phạm đến hình ảnh của
cá nhân đó lại ảnh hưởng nghiêm trọng đến những người thân còn sống của cá nhân đó.
Vậy khi đó, ai sẽ có thể thay cá nhân đó thực hiện những phương thức để bảo vệ quyền đối
với hình ảnh khi mà luật chỉ quy định quyền đó cho cá nhân có hình ảnh bị xâm phạm?
Nên chăng cần sửa đổi đổi theo chiều hướng không chỉ có cá nhân có quyền đối với hình
ảnh bị xâm phạm mà ngay cả những người thân thích của cá nhân đó cũng có các quyền
theo quy định của Điều 25 BLDS trong trường hợp cá nhân có hình ảnh bị xâm phạm chết.

10


Khi có hành vi xâm phạm quyền đối với hình ảnh của cá nhân xảy ra, thì theo quy
định của pháp luật, thì cá nhân có hành ảnh bị xâm phạm có quyền yêu cầu người xâm

phạm phải xin lỗi, cải chính và bồi thường…Tuy nhiên về vấn đề mức bồi thường thì cho
đến nay vẫn chưa có bất cứ một văn bản nào hướng dẫn, cho nên mạnh ai người ấy đòi,
đòi cho bằng thích, đến khi vụ việc phải kéo nhau đến toà án thì toà cũng chỉ theo thông lệ
là…“việc dân sự muốn xử sao cũng được”!!! . .Các tòa án thường căn cứ vào giá trị sử
dụng hình ảnh trong việc kinh doanh mà buộc người sử dụng hình ảnh của người khác trái
phép phải thanh toán một khoản tiền có thể là vài triệu đồng, vài chục triệu và cũng có thể
lên đến hàng trăm triệu đồng. Thiết nghĩ, để quyền của mỗi cá nhân đối với hình ảnh của
mình được tôn trọng và không bị xâm phạm thì pháp luật cũng nên đề ra những chế tài
phù hợp với mức độ xâm phạm nhưng cũng phải đủ sức răn đe. Nên nhanh chóng có một
văn bản quy định về các mức phạt trong từng trường hợp vi phạm cụ thể (mức hình phạt
nên căn cứ vào mục đích sử dụng hình ảnh, mức độ gây ảnh hưởng đến chủ thể có hình
ảnh bị xâm phạm…).

KẾT LUẬN:
Quyền của cá nhân đối với hình ảnh là một quyền quan trọng trong nhóm các
quyền nhân thân. Các quy định của BLDS 2005 về vấn đề này đã khá đầy đủ, tuy nhiên
còn nhiều điểm còn hạn chế và tính khả thi chưa cao. Vì vậy, bên cạnh việc nâng cao ý
thức của người dân về việc tôn trọng, bảo vệ quyền về hình ảnh của cá nhân khác thì việc
sửa đổi, bổ sung những quy định của pháp luật đã nêu trên để hoàn thiện hơn là vô cùng
cần thiết. Bởi nó sẽ tạo tiền đề để tất cả các thành viên trong xã hội có ý thức tôn trọng và
nghiêm chỉnh thực hiện các quy định của pháp luật về quyền đối với hình ảnh của cá nhân
khác. Có như vậy thì mới giải quyết được triệt để việc sử dụng tùy tiện hình ảnh của người
khác như hiện nay.

11


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO:
1.Bộ luật dân sự 2005 NXB Giáo dục
2. Luận văn: “Một số vấn đề lí luận và thực tiễn về quyền nhân thân đối với hình

ảnh trong pháp luận dân sự Việt Nam”.Luận văn thạc sĩ luật học Phùng Bích Ngọc
3.Trang web:
/> />
12



×