Tải bản đầy đủ (.doc) (10 trang)

Phân tích quyền của cá nhân đối với hình ảnh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (158.87 KB, 10 trang )

Lời Nói Đầu
Ngày này, các thiết bị quay phim, chụp ảnh ngày càng trở nên phổ biến và hiện đại,
cùng với sự trợ giúp của internet, hình ảnh được phát tán rộng với tốc độ lớn, không chỉ
giới hạn ở Việt Nam mà còn trên phạm vi thế giới. Việc ngăn chặn và truy tim thủ phạm
trở nên khó khăn hơn. Có thể nói chưa bao giờ nguy cơ xâm phạm hình ảnh lại cao như
vậy. Bất cứ ai cũng có thể trở thành nạn nhân bị xâm phạm hình ảnh. Bộ luật Dân sự
năm 2005 đã có những quy định về quyền nhân thân của cá nhân đối với hình ảnh,
nhưng việc hiểu và áp dụng trên thực tế còn nhiều khó khăn và bất cập. Những khó khăn
đó được thể hiện trong việc xác định như thế nào là quyền nhân thân của cá nhân đối
với hình ảnh, những hành vi nào bị coi là xâm phạm quyền của cá nhân đối với hình
ảnh, mức độ bồi thường khi cá nhân bị xâm hại.Vì vậy em xin lựa chọn đề bài “ Phân
tích quyền của cá nhân đối với hình ảnh” để tìm hiểu rõ hơn về vấn đề này.

Nội Dung
I. Một số vấn đề lý luận về quyền của cá nhân đối với hình ảnh.
1. Khái niệm quyền cúa cá nhân đối với hình ảnh.
Trên thực tế hiện nay chưa có một định nghĩa nào định nghĩa thật ngắn gọn dễ hiểu
đối với khái niệm này. Việc hiểu “hình ảnh” là gì phụ thuộc chủ yếu vào từng lĩnh vực
nghiên cứu khác nhau, mỗi ngành, mỗi lĩnh vực có một cách thức định nghĩa riêng phù
hợp với chuyên môn của ngành đó. Theo từ điển Tiếng Việt của viện ngôn ngữ học 2000,
giải thích hình ảnh “là hình người, vật, cảnh tượng thu được bằng khí cụ quang học hoặc
để lại ấn tượng nhất định và tái hiện được trong trí óc, là khả năng gợi tả sống động trong
cách diễn đạt”. Trong triết học, hình ảnh được coi là “ là kết quả của sự phản ánh khách
thể, đối tượng vào ý thức của con người. Ở trình độ cảm tính, hình ảnh là những cảm
giác, tri giác và biểu tượng; ở trình độ tư duy đó là khái niệm, phán đoán và suy luận.
Đối với các nhà nhiếp ảnh thì “hình ảnh” được coi là sản phẩm thỏa mãn nhu cầu nhận
thức sự vật bằng mắt và chỉ gồm hai yếu tố cơ bản là hình dáng của vật thể và sắc độ của
hình ảnh, thì mỹ thuật lại xem “ hình ảnh” như là sự diễn tả hay tái hiện một vật, một
người trong nghệ thuật tạo hình.
Qua những định nghĩa trên, tựu trung lại ta có thể tạm hiểu “hình ảnh chính là sự
sao chép lại những hình ảnh, biểu tượng, có thể được nhận thức bằng chính tư duy của


con người hoặc bằng các cách thức sao chụp nguyên mẫu”. Tuy nhiên, hình ảnh không
1


tồn tại độc lập với đối tượng của sự phản ánh. Mặc dù hình ảnh khách quan về mặt nội
dung khi phản ánh chân thực đối tượng song hình ảnh không bao giờ hàm chứa hết các
thuộc tính và quan hệ của đối tượng, nguyên mẫu. Hình ảnh không đơn thuần là sự sao
chép nguyên mẫu mà qua sự sao chụp đó còn phải gây được sự chú ý với con mắt nhìn,
thể hiện được nội dung, lột tả được tinh thần của vật mẫu, thể hiện cá tính nghệ thuật và
dấu ấn riêng.
Khái niệm “hình ảnh của cá nhân” bao gồm mọi hình thức tác phẩm được ghi lại
hình dáng của con người cụ thể như ảnh chụp, ảnh vẽ, ảnh họa chép và suy luận rộng ra
có thể cả bức tượng của cá nhân đó”. Đứng về mặt quyền sở hữu trí tuệ “thì bức ảnh, tấm
hình, pho tượng đều là loại hình tác phẩm, người sử dụng tác phẩm trước hết phải xin
phép người chủ bản quyền và trả cho họ một khoản lợi ích vật chất, đồng thời phải trả
thù lao, nhuận bút cho người sáng tác (người chụp ảnh, họa hình..) nhưng đứng về mặt
“quyền nhân thân của con người” thì ai muốn sử dụng hình ảnh của cá nhân đều phải
được sự đồng ý của người đó. Hình ảnh của cá nhân có thể được hiểu là sự tái hiện lại vẻ
bề ngoài của một người bằng cách thức nào đó có thể ghi lại và gây ấn tượng thị giác cho
những người khác. Khi được mọi người nhìn vào hình ảnh tái hiện đó có thể nhận được
rằng đó là ai.
Hình ảnh của cá nhân được pháp luật tôn trọng và bảo về bằng việc quy định là một
quyền nhân thân của cá nhân tại Điều 31 BLDS năm 2005 với tên gọi là “quyền đối với
hình ảnh”, tuy nhiên điều luật không đưa ra khái niệm về quyền đối với hình ảnh của cá
nhân, các văn bản khác cũng không có văn bản nào đưa ra khái niệm về quyền đối với
hình ảnh, tuy nhiên từ cách hiểu trên ta có thể hiểu: “Quyền đối với hình ảnh của cá
nhân là quyền nhân thân gắn liền với cá nhân được pháp luật ghi nhận và bảo vệ, theo
đó cá nhân được quyền sử dụng và cho phép người khác sử dụng hình ảnh của mình ”.
Có thể hiểu quyền của cá nhân đối với hình ảnh là “quyền gắn liền với mỗi cá nhân liên
quan đến việc tạo dựng, sử dụng và cho phép sử dụng hình ảnh theo ý chí của chính cá

nhân đó”.
2. Đặc điểm quyền của cá nhân đối với hình ảnh
Quyền đối với hình ảnh thuộc một trong những quyền nhân thân của cá nhân. Ngoài
việc mang những đặc điểm của quyền nhân thân nói chung, quyền nhân thân của cá nhân
đối với hình ảnh có một số điểm riêng biệt sau:
2


Thứ nhất quyền của cá nhân đối với hình ảnh là quyền không gắn với tài sản:
Quyền của cá nhân đối với hình ảnh gắn với chính bản thân của người đó và mỗi chủ thể
có một hình ảnh riêng biệt. Mỗi chủ thể được công nhận một cách vô điều kiện đối với
hình ảnh của mình. Hình ảnh bên ngoài của cá nhân chính là yếu tố nhận dạng cá nhân
đó, không phải là một tài sản mang ra để giao dịch. Điều này hoàn toàn khác với quyền
tài sản đối với hình ảnh, vì quyền tài sản đối với hình ảnh nghĩa là hình ảnh được phép
mang ra kinh doanh nhằm thu lợi nhuận cho bản thân cá nhân. Do vậy khi sử dụng hình
ảnh của cá nhân vào mục đích quảng cáo thì cần phải có sự đồng ý của cá nhân đó.
Quyền của cá nhân đối với hình ảnh được công nhận một cách bình đẳng và suốt đời,
không phụ thuộc vào bất cứ hoàn cảnh kinh tế, địa vị hay mức độ tài sản của người đó.
Thứ hai quyền của cá nhân đối với hình ảnh là quyền cá biệt hóa chủ thể: Cùng với
quyền của cá nhân đối với họ tên, dân tộc, quyền của cá nhân đối với hình ảnh thuộc
quyền cá biệt hóa cá nhân. Đây là quyền nhân thân tuyệt đối, gắn liền với mỗi cá nhân
đó. Đây là quyền ghi nhận đặc điểm của mỗi cá nhân, là cơ sở để xác định dấu hiệu cơ
bản của quyền cá biệt hóa cá nhân trong quan hệ xã hội nói chung và quan hệ dân sự nói
riêng.
Thứ ba là quyền của cá nhân đối với hình ảnh là quyền được bảo hộ vô thời hạn:
Hình ảnh được hiểu là sự tái hiện lại vẻ bên ngoài của một người bằng cách thức nào đó
có thê ghi lại và gây ấn tượng thị giác cho người khác. Khi mọi người nhìn vào ảnh đó có
thể nhận diện được đó là ai. Quyền nhân thân đối với hình ảnh được bảo hộ vô thời hạn
được pháp luật bảo hộ vĩnh viễn. Ngay cả sau khi người chết thì người thân thích được
quyền yêu cầu chấm dứt hành vi xâm phạm tới hình ảnh của người đã khuất.

Thứ tư quyền của cá nhân đối với hình ảnh được bảo vệ khi có yêu cầu: Khi quyền
của cá nhân đối với hình ảnh bị xâm phạm thì cá nhân có hình ảnh bị xâm phạm phải là
người đánh giá xem quyền nhân thân đối với hình ảnh của mình bị xâm phạm hay không,
tự quyết định có yêu cầu chấm dứt hành vi xâm phạm hay không? Nhà nước chỉ can
thiệp và bảo vệ khi có yêu cầu.

II. Quy định của pháp luật dân sự về quyền đối với hình ảnh của cá nhân
1. Nội dung quyền nhân thân đối với hình ảnh của cá nhân.
BLDS năm 2005 quy định quyền nhân thân của cá nhân đối với hình ảnh của
mình, ngay tại khoản 1 Điều 31 BLDS 2005 quy định “ Cá nhân có quyền đối với hình
3


ảnh của mình”, đây là sự khẳng định của Nhà nước về quyền của cá nhân đối với hình
ảnh của bản thân mình. Thông qua quy định tại Điều 31 BLDS cho thấy nội dung của
quyền nhân thân đối với hình ảnh gồm:
Thứ nhất, cá nhân có quyền sử dụng hình ảnh của mình.
Hình ảnh là yếu tố nhân thân gắn liền với cá nhân nên trước tiên chính bản thân cá
nhân đó được quyền sử dụng. Việc sử dụng hình ảnh của cá nhân thông qua việc tự khai
thác giá trị thương mại hình ảnh của bản thân bằng việc bán hình ảnh của mình cho
người khác sử dụng hoặc nhận tiền. Ví dụ: Người mẫu kí hợp đồng chụp ảnh với các
nhiếp ảnh gia theo đó các nhiếp ảnh gia phải trả tiền để được chụp ảnh họ...
Thứ hai, cá nhân có quyền cho người khác sử dụng hình ảnh của mình.
Tại khoản 2 Điều 31 BLDS quy định “Việc sử dụng hình ảnh của cá nhân phải được
người đó đồng ý; trong trường hợp người đó đã chết, mất năng lực hành vi dân sự, chưa
đủ mười lăm tuổi thì phải được cha, mẹ, vợ, chồng, con đã thành niên hoặc người đại
diện của người đó đồng ý, trừ trường hợp vì lợi ích của Nhà nước, lợi ích công cộng
hoặc pháp luật có quy định khác”. Như vậy quyền định đoạt cho chủ thể khác sử dụng
hình ảnh của cá nhân được thể hiện ở việc chủ sở hữu hình ảnh “đồng ý”. Tuy nhiên
BLDS lại không quy định rõ như thế nào là “đồng ý”. Đồng ý theo điều luật trên ta có thể

hiểu đó là có sự thỏa thuận giữa người sử dụng hình ảnh của cá nhân đối với cá nhân có
hình ảnh đó hay chỉ cần việc sử dụng hình ảnh đó không có sự phản đối của người có
hình ảnh thì được hiểu là người đó đương nhiên đồng ý, tuy nhiên theo điều luật thì ta có
thể hiểu “sự đồng ý” phải được hiểu là việc sử dụng hình ảnh của cá nhân vào bất kỳ
mục đích gì mà không xin phép đều bị coi là xâm phạm quyền nhân thân về hình ảnh của
cá nhân dù việc sử dụng đó đem lại hậu quả tốt hay xấu cho người có hình ảnh.Tóm lại
quyền đối với hình ảnh của cá nhân là quyền tuyệt đối, được phép sử dụng và cho người
khác sử dụng hình ảnh của mình, mọi hành vi sử dụng hình ảnh nói chung đều phải đươc
sự đồng ý của cá nhân đó.
Thứ ba, quyền được bảo vệ đối với hình ảnh của cá nhân trước hành vi sử dụng trái
phép. Quyền nhân thân nói chung trong đó có quyền đối với hình ảnh là nhóm quyền
tuyệt đối, thể hiện sự ghi nhận của nhà nước đối với giá trị tinh thần của cá nhân, bất kỳ
hành vi xâm phạm quyền nhân thân nào cũng sẽ phải chịu trách nhiệm pháp lý. Hiện nay
pháp luật dân sự quy định các biện pháp bảo vệ và khôi phục các quyền nhân thân của
4


công dân. Theo đó người xâm phạm quyền nhân thân đối với hình ảnh của người khác thì
dù cố ý hay vô ý đều có nghĩa vụ phải chấm dứt hành vi vi phạm, xin lỗi, cải chính công
khai, nếu gây thiệt hại thì phải bồi thường thiệt hại.
2. Giới hạn quyền của cá nhân đối với hình ảnh.
II.1
Giới hạn quyền của cá nhân đối với hình ảnh trong mối quan hệ với quyền
được thông tin.
Quyền được thông tin có phạm vi rộng, liên quan mật thiết với quyền tự do ngôn
luận, tự do báo chí. Trong hoạt động báo chí, báo chí cung cấp rất nhiều thông tin, hình
ảnh về mọi mặt của đời sống. Các bản tin truyền hình tập trung chủ yếu vào hình ảnh.
Quyền tự do báo chí vì vậy rất dễ xung đột với quyền của cá nhân đối với hình ảnh, có
thể thấy quyền của cá nhân đối với hình ảnh đã bị giới hạn bởi quyên tự do báo chí. Tại
điều 5 khoản 3 Nghị định 51/2002/NĐ- CP ngày 26/4/2002 của chính phủ quy định

“Không được đăng, phát ảnh của cá nhân mà không có chú thích rõ ràng hoặc làm ảnh
hưởng đến uy tín, danh dự của cá nhân đó (trừ ảnh thông tin các buổi họp công khai,
sinh hoạt tập thể, các buổi lao động, biểu diễn nghệ thuật, thể dục thể thao, những người
có lệnh truy nã, các cuộc xét xử công khai của Tòa án, những người phạm tội trong các
vụ trọng án đã bị tuyên án)”.
Theo quy định này, báo chí có quyền đăng ảnh cá nhân mà không cần phải xin phép
nhưng phải có ghi chú thích hợp và không làm ảnh hưởng tới danh dự, nhân phẩm, uy tín
của người đó. Điều 5 khoản 3 Nghị định 51 đã loại bỏ sự đồng ý của chủ nhân hoặc
người được giao quyền sử dụng hình ảnh. Như vậy có thể thấy trong hoạt động báo chí,
quyền được thông tin của công chúng đã hạn chế quyền của cá nhân đối với hình ảnh của
mình, hình ảnh của cá nhân được sử dụng mà không cần phải sự đồng ý. Tuy nhiên mặc
dù quyền của cá nhân bị giới han trong trường hợp này nhưng sự giới hạn này đó là sự
tôn trọng quyền được biết thông tin của người dân trong sự cân đối với quyền bí mật đời
tư của cá nhân.
II.2

Giới hạn quyền của cá nhân đối với hình ảnh trong trường hợp xung đột với

quyền lợi chung, quyền của bên thứ ba hoặc trong trường hợp cá nhân từ bỏ quyền
của mình đối với hình ảnh.
Tại khoản 2 Điều 31 BLDS đã quy định rất rõ cho thấy về nguyên tắc thì mọi
trường hợp sử dụng ảnh của cá nhân đều cần phải xin phép, tuy nhiên trừ trường hợp “vì
5


lợi ích của nhà nước, lợi ích công cộng, hoặc pháp luật có quy định khác”. Quy định này
rất chung chung, nó quy định mở cho pháp luật, do vậy ta có thể xác định:
Thứ nhất giới hạn quyền đối với hình ảnh của cá nhân trong trường hợp xung đột
với quyền lợi chung. Quyền lợi chung ở đây là lợi ích của nhà nước, lợi ích công cộng,
theo đó quyền của cá nhân đối với hình ảnh được giới hạn trong những trường hợp: Đăng

hình tội phạm bị truy nã, việc gián ảnh cá nhân ở những nơi công cộng nhằm cảnh báo
cho mọi người biết để đề phòng trộm cắp...
Thứ hai giới hạn quyền của cá nhân trong trường hợp xung đột với quyền lợi của
bên thứ ba hoặc cá nhân từ bỏ quyền đối với hình ảnh của mình. Quyền đối với hình ảnh
của cá nhân chấm dứt khi đương sự bán hình ảnh của mình cho bên thứ ba: Điển hình là
trường hợp các diễn viên, người nổi tiếng kí hợp đồng quảng cáo, hợp đồng quay phim
về đời sống hằng ngày của mình. Ngoài ra quyền của cá nhân đối với hình ảnh còn bị
giới hạn bới quyền của bên thứ ba như báo chí như trình bày ở trên.
3. Các biện pháp bảo vệ quyền của cá nhân đối với hình ảnh.
Theo quy định tại Điều 25 BLDS năm 2005 thì cá nhân có quyền nhân thân đối với
hình ảnh nói riêng và quyền nhân thân nói chung bị xâm phạm có thể bảo vệ quyền nhân
thân của mình theo các phương thức khác nhau như tự mình bảo vệ, yêu cầu cơ quan, tổ
chức có thẩm quyền bảo vệ hoặc buộc người khác bảo vệ hoặc buộc người vi phạm bồi
thường thiệt hại.
3.1Tự mình bảo vệ.
Về biện pháp tự bảo vệ, đây là biện pháp tôn trọng quyền tự định đoạt của chủ thể
trong chừng mực nhất định, biện pháp này cũng nhanh chóng ngăn chặn, chấm dứt hành
vi vi phạm. các biện pháp cụ thể mà chủ thể bị xâm phạm quyền nhân thân có thể lựa
chọn áp dụng gồm : Yêu cầu cá nhân, tổ chức có hành vi xâm phạm phải xin lỗi, cải
chính công khai, yêu cầu người có hành vi xâm phạm phải bồi thường thiệt hại ..Cá nhân
bị xâm phạm quyền nhân thân với hình ảnh của mình có thể sử dụng các biện pháp này
bằng cách gọi trực tiếp gặp chủ thể có hành vi xâm phạm hoặc sử dụng các phương thức
khác nhau như: gọi điện thoại, gửi thư qua bưu điện, fax… Người bị xâm phạm quyền
nhân thân đối với hình ảnh có thể lựa chọn áp dụng một hoặc nhiều biện pháp khác nhau
để tự bảo về quyền của mình. Ngoài ra người bị xâm phạm có thể sử dụng biện pháp tự

6


mình cải chính bằng cách trực tiếp trình bày trước đám đông hoặc cải chính thông qua

các phương tiện thông tin đại chúng, báo chí...
3.2Yêu cầu người có hành vi vi phạm châm dứt hành vi xâm phạm hoặc yêu cầu cơ
quan, tổ chức có thẩm quyền buộc người vi phạm chấm dứt hành vi xâm phạm.
Yêu cầu người có hành vi vi phạm chấm dứt hành vi xâm phạm là biện pháp bảo vệ
quyền nhân thân đối với hình ảnh của cá nhân được áp dụng trong trường hợp quyền
nhân thân đối với hình ảnh bị xâm phạm. Khi một người biết được hình ảnh của mình sử
dụng mà không được xin phép, ví dụ như trên báo, website… Việc làm này hiện nay rất
phổ biến tuy nhiên trong nhiều trường hợp không thể tìm ra thủ phạm đểu yêu cầu chấm
dứt hành vi. Vì vậy cần áp dụng các biện pháp khác để bảo vệ quyền nhân thân đối với
hình ảnh của mình khi bị xâm phạm.
3.3Yêu cầu người có hành vi vi phạm bồi thường thiệt hại hoặc yêu cầu cơ quan, tổ
chức có thẩm quyền buộc người vi phạm bồi thường.
Trong các biện pháp bảo vệ quyền nhân thân nói chung và quyền của cá nhân đối
với hình ảnh nói riêng, đây là một trong những biện pháp quan trọng và được sử dụng
nhiều nhất trong quan hệ dân sự. Căn cứ vào quy định của pháp luật dân sự, trách nhiệm
bồi thường thiệt hại đối với hình ảnh của cá nhân gồm hai loại:
Một là bồi thường thiệt hại theo hợp đồng. Đây là hành vi vi phạm hợp đồng của
người có nghĩa vụ thực hiện đúng hợp đồng như đã cam kết, gây thiệt hại cho bên cùng
giao kết hợp đồng thì có nghĩa vụ phải bồi thường. Ví dụ hợp đồng kí kết thỏa thuận
công ty nhiếp ảnh A được quyền chụp ảnh cô B để đăng trên tạp chí Đẹp nhưng công ty
A đã đăng ảnh của cô B trên trang Web mang nội dung đồi trụy. Do đó công ty A phải
bồi thường thiệt hại cho cô B như điều khoản đã thỏa thuận.
Hai là bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng là trách nhiệm của người có hành vi vi
phạm gây thiệt hại tới quyền của cá nhân đối với hình ảnh mà trước đó người vi phạm và
người bị vi phạm không có giao kết hợp đồng hoặc giữa họ có nhưng hành vi xâm phạm
không thuộc hành vi vi phạm hợp đồng. Dựa trên những quy định của pháp luật về bồi
thường thiệt hại ngoài hợp đồng đối với thiệt hại do danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm
phạm phải có bốn điều kiện phát sinh trách nhiệm bồi thường đối với quyền nhân thân
của cá nhân đối với hình ảnh gồm: Có thiệt hại xảy ra, hành vi gây thiệt hại là trái pháp
luật, mối quan hệ nhân quả giữa hành vi vi phạm và thiệt hại và yếu tố lỗi.

7


III.

Một số nhận xét quy định của pháp luật về quyền đối với hình ảnh của

cá nhân và kiến nghị
Có thể nói hiện nay khi xã hội càng phát triển thì các quyền nhân thân của cá nhân
lại được pháp luật bảo vệ chặt chẽ hơn. Quyền của cá nhân đối với hình ảnh là một trong
những quyền được pháp luật quan tâm và đã có những quy định bảo vệ cho các chủ thể,
hạn chế các trường hợp xâm phạm quyền của cá nhân đối với hình ảnh. Tuy nhiên chúng
ta có thể thấy hiện nay quyền của cá nhân đối với hình ảnh vẫn còn bị xâm phậm. Chúng
ta có thể xem xét một số vụ việc sau, từ đó có thể đưa ra một số ý kiến nhận xét về quy
định của pháp luật như sau:
• Một số vụ việc về xâm phạm quyền của cá nhân đối với hình ảnh.
+ Vấn đề sử dụng hình ảnh với mục đích thương mại không được sự đồng ý của chủ
thể có hình ảnh: Ví dụ: Tháng 1/2008, người mẫu Nguyễn Kim Tiên tiến hành khởi kiện
công ty Organo về việc sử dụng hình ảnh của cô mà chưa được phép để quảng cáo thuốc
ngừa thai Mercilon.Cô yêu cầu công ty này phải ngưng việc quảng cáo trên, xin lỗi và
bồi thường thiệt hại cho cô. Như vậy hành vi xâm phạm chủ yếu trong lĩnh vực này là
những ngươi nổi tiếng: Người mẫu, diễn viên... Căn cứ theo điều 31 BLDS về quyền của
cá nhân đối với hình ảnh khi sử dụng khai thác vào mục đích kinh doanh thì đều phải xin
phép “người chủ” hình ảnh đó.
+ Phát tán hình ảnh của cá nhân xâm phạm tới danh dự, nhân phẩm, uy tín. Ví dụ:
Ngày 24/3/2008, BTV Đan Lê là người đã bị báo Nông nghiệp online đăng tin cô đóng
phim sex, trong khi đó người trong clip sex đó không phải là Đan Lê (sau một thời gian
đấu tranh Đan Lê đã tìm được sự thật). Tuy nhiên, mọi thứ trong cuộc đời cô gái trẻ đẹp
này đã dường như biến mất do vụ việc này.
+ Vấn đề liên quan đến nhiếp ảnh gia: Ví dụ : Năm 2004 công ty Điện toán và truyền

số liệu VDC ( Tổng công ty Bưu chính viễn thông Việt Nam) sử dụng mà không xin
phép ảnh “hai bà cháu” trên thẻ điện thoại 1717 mệnh giá 100.000 đồng. Đây là bức ảnh
của nghệ sỹ Mạnh Đan chụp năm 1982. Bức ảnh “hai bà cháu” là ảnh cụ Phạm Thị Tư
(đã qua đời năm 1996) đang ngồi trên võng quen thuộc nơi góc vườn, bé gái mặt tròn
đang ôm đầu võng là chị Đặng Thị Ngọc Thi. Nhưng việc sử dụng hình ảnh “Hai bà
cháu” không những đã không hỏi ý kiến của tác giả là nghệ sỹ Mạnh Đan mà còn chỉnh
sửa tác phẩm làm mất giá trị của tác phẩm. Bức ảnh “Hai bà cháu” đã bị cắt, cúp hết hơn
8


một nửa tấm ảnh nguyên gốc thể hiện một bà mẹ phúc hậu, ngồi trầm ngâm. Sau đó
VDC phối hợp với đơn vị đơn vị thiết kế mẫu đã đến gặp gia đình thân nhân người chụp
ảnh để xin lỗi và thỏa thuận bồi thường.
Hiện nay tình trạng các tác phẩm nhiếp ảnh sử dụng không xin phép tác giả, không
đề tên tác giả dưới tác phẩm hoặc ảnh bị chỉnh sửa đang diễn ra rất phổ biến.
Từ những vụ việc trên ta có thể đưa ra một số nhận xét về quy định của pháp luật về
quyền của cá nhân đối với hình ảnh và một số kiến nghị:
Một là: Theo quy định tại khoản 1 Điều 31 quy định “cá nhân có quyền đối với
hình ảnh của mình”. Quy định này dẫn đến cách hiểu là cá nhân hoàn toàn được phép
định đoạt những gì mình muốn với hình ảnh của mình, không một ai được ngăn cản hay
được phép xâm hại. Điều này cũng dẫn đến nhiều cá nhân có cách hành xử làm mất
chuẩn mực chung. Xã hội là một cộng đồng người, việc hành xử như thế nào cũng phải
nằm trong chuẩn mực xã hội. Chính vì vậy trong trường hợp này quyền của cá nhân theo
quy định tại khoản 1 Điều 31 cũng có giới hạn trong trường hợp xung đột với quyền lợi
chung. Nghĩa là quyền đối với hình ảnh có sự khác biệt về giá trị văn hóa, yếu tố xã hội
góp phần làm nảy sinh xung đột các quyền lợi chung của cộng đồng. Cá nhân không thể
viện dẫn quyền nhân thân đối với hình ảnh nếu họ chỉ có mặt trong một bức ảnh chụp
phong cảnh hoặc chụp ảnh các buổi tụ tập đông người nhưu mit tinh, biểu tình... ở đây
người chụp ảnh không nhằm ghi lại đương sự mà ghi hành các phong cảnh hay sự kiện
đang diễn ra. Tại Việt Nam không có quy định nào cụ thể phân biệt, làm rõ hình ảnh bắt

buộc phải xin phép cá nhân và hình ảnh được phép chụp hình. Vì vậy pháp luật cần có
những quy định cụ thể hơn về vấn đề này để có thể áp dụng vào giải quyết tình huống.
Hai là : Nhìn từ góc độ nhất định, pháp luật của ta bảo vệ quá chặt quyền của cá
nhân đối với hình ảnh, chưa thực sự phù hợp với điều kiện thực tế của đất nước ta. Điều
31 BLDS quy định việc “sử dụng hình ảnh nói chung đều cần sự đồng ý của người có
hình ảnh”. Điều này dẫn đến việc sử dụng hình ảnh của người khác, dù chỉ cho nhu cầu
bản thân, không phát tán cho người khác cũng phải xin phép người có hình ảnh. Về bẩn
chất hành vi này không ảnh hưởng tới quan hệ của người có hình ảnh với xã hội, không
cản trở việc người đó có hình thành và phát triển nhân cách của mình. Trên thực tế cũng
khó phát hiện các trường hợp này, vì hình ảnh không được phát tán, người có hình ảnh
cũng không biết được hình ảnh của mình đang bị xử dụng trái pháp luật. Trái ngược với
9


sự chặt chẽ nói trên BLDS không cấm việc quay phim, chụp hình trong không gian riêng
tư của cá nhân. Điều 31 BLDS không đề cập đến hành vi “ghi hình” mà chỉ đề cập đến
hành vi “ sử dụng” . Đây thực sự là khoảng trống đáng lo ngại trong pháp luật Việt Nam,
vì cá nhân bị xâm phạm vào những chi tiết riêng tư nhất.Ba
Ba là: Theo khoản 2 Điều 31 BLDS, trường hợp người có ảnh chết thì việc sử dụng
hình ảnh phải được thân nhân của người đó đồng ý. Trên thực tế chỉ bó hẹp thân nhân
bao gồm “cha, mẹ, vợ, chồng, con” nên yêu cầu xin phép sẽ chấm dứt khi những người
này qua đời. Quy định này dẫn tới hai tình huống cực đoan là hoặc phải xin phép trong
thời gian rất dài hoặc được tự do sử dụng hình ảnh ngay sau khi người có hình chết trong
trường hợp thân nhân của người của họ còng sống nhưng không thuộc diện cha, mẹ, vợ,
chồng, con.
Từ những nhân xét trên ta thấy rằng pháp luật cần có những quy định, hướng dẫn để
bảo đảm quyền và lợi ích cho các chủ thể khi quyền đối với hình ảnh bị xâm phạm. Hơn
nữa để nâng cao hiểu biết về quyền và nghĩa vụ của các chủ thể tránh tình trạng, quyền
của cá nhân đối với hình ảnh của mình bị xâm phạm nhưng do sự kém hiểu biết nên
không có những biện pháp bảo vệ khi cần thiết hay trường hợp không biết nghĩa vụ của

mình khi sử dụng hình ảnh của người khác phải xin phép nên đã vi phạm về quyền của
cá nhân đối với hình ảnh. Vì vậy cần có những biện pháp tuyên truyền, phổ biến để nâng
cao hiểu biết pháp luật đối với chủ thể trong quan hệ pháp luật.

Kết Luận
Quyền của cá nhân đối với hình ảnh, cũng như quyền nhân thân khác được nhà
nước tôn trọng và bảo vệ. Điều này thể hiện ở nỗ lực của Nhà nước trong việc hoàn thiện
pháp luật trong việc ký kết, tham gia các điều ước quốc tế về nhân quyền. Tuy nhiên đây
vẫn là vấn đề tường đối mới trong pháp luật Việt Nam, các cơ quan lập pháp, hành pháp,
tư pháp của ta chưa có kinh nghiệm trong việc bảo vệ quyền của cá nhân đối với hình
ảnh. Trong khi đó các hành vi xâm phạm ngày càng phức tạp và tinh vi, được hỗ trợ bởi
các thiết bị hiện đại và internet. Để đáp ứng đòi hỏi của tình hình mới, phù hợp với xu
thế của thế giới tăng cường bảo vệ các quyền bí mật đời tư của cá nhân mà cụ thể chính
là hình ảnh của cá nhân cần được thực hiện một cách nghiêm túc.

10



×