Tải bản đầy đủ (.docx) (10 trang)

Mối quan hệ giữa chủ tịch nước với các cơ quan nhà nước ở trung ương theo pháp luật hiện hành

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (85.61 KB, 10 trang )

MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU...........................................................................................................1
NỘI DUNG...............................................................................................................1
I. Khái quát về chủ tịch nước............................................................................1
II.

Mối quan hệ giữa Chủ tịch nước với các cơ quan nhà nước ở trung

ương theo pháp luật hiện hành............................................................................2
1.

Quan hệ giữa Chủ tịch nước với Quốc hội và Ủy ban thường vụ Quốc

hội…....................................................................................................................3
2.

Quan hệ giữa Chủ tịch nước với Chính phủ...........................................5

3.

Quan hệ giữa Chủ tịch nước với Tòa án nhân dân tối cao và Viện kiểm

sát nhân dân tối cao...........................................................................................6
4.

Đánh giá mối quan hệ giữa Chủ tịch nước với các cơ quan nhà nước ở

trung ương theo pháp luật hiện hành...............................................................8
KẾT LUẬN...............................................................................................................8
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO................................................................9


0


LỜI MỞ ĐẦU
Bộ máy nhà nước ta là một hệ thống các cơ quan có mối quan hệ mật thiết
với nhau theo nguyên tắc quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công và
phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành
pháp, tư pháp. Do vậy, Chủ tịch nước - một trong những cơ quan quan trọng hàng
đầu trong bộ máy nhà nướcmuốn hoàn thành tốt vai trò, trách nhiệm của mình thì
phải gắn bó chặt chẽ với các cơ quan nhà nước khác, đặc biệt là với các cơ quan
nhà nước ở trung ương. Để hiểu rõ hơn về vấn đề này, em xin chọn đề tài: “Mối
quan hệ giữa Chủ tịch nước với các cơ quan nhà nước ở trung ương theo pháp luật
hiện hành” cho bài tập lớn của mình.

NỘI DUNG
I. Khái quát về chủ tịch nước
Trong hệ thống bộ máy nhà nước của các nước hiện đại hầu như đều có một
thiết chế đặc biệt với những tên gọi khác nhau như: Vua, Hoàng đế, Tổng thống,
Đoàn chủ tịch, Hội đồng liên bang, Hội đồng nhà nước, Chủ tịch nước. Những cơ
cấu này cũng có vị trí rất khác nhau trong bộ máy nhà nước ở từng nước nhưng đều
có một quy định chung là Nguyên thủ Quốc gia – Người đứng đầu Nhà nước, đại
diện nhà nước về đối nội và đối ngoại.
Trong cơ chế nhà nước ta, thiết chế nguyên thủ quốc gia được tổ chức khác nhau
qua các bản Hiến pháp. Ở Hiến pháp năm 1946 và 1959 là Chủ tịch nước. Đến
Hiến pháp năm 1980 là Hội đồng nhà nước, và hiện nay,tại Hiến pháp năm 1992 trở
lại hình thức Chủ tịch nước. Sự hiện diện trở lại thiết chế Chủ tịch nước cá nhân
vừa tiếp thu những ưu điểm của mô hình lần trước, vừa giữ được sự gắn bó giữa
1



Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội và Chủ tịch nước trong việc thực hiện các
chức năng Nguyên thủ quốc gia vừa đảm bảo sự phân công và phối hợp chặt chẽ
giữa các cơ cấu trong bộ máy nhà nước.
Tại Điều 101 Hiến pháp năm 1992 đã khẳng định vị trí, tính chất của Chủ tịch
nước: “Chủ tịch nước là người đứng đầu nhà nước, thay mặt nước Cộng hòa xã
hội chủ nghĩa Việt Nam về đối nội và đối ngoại”.
Về trật tự hình thành: Chủ tịch nước do Quốc hội bầu trong số đại biểu Quốc
hội. Nhiệm kỳ của Chủ tịch nước theo nhiệm kỳ của Quốc hội là 5 năm, khi Quốc
hội hết nhiệm kỳ, Chủ tịch nước tiếp tục làm nhiệm vụ cho đến khi Quốc hội khóa
mới bầu Chủ tịch nước mới.
Chủ tịch nước được trao quyền hạn rộng lớn trong cả ba lĩnh vực lập pháp, hành
pháp và tư pháp. Xét trên nhiều phương diện, Chủ tịch nước là cơ quan có vị trí đặc
biệt và giữ vai trò quan trọng trong việc đảm bảo sự phối hợp thống nhất giữa các
cơ quan nhà nước trong bộ máy nhà nước.
II. Mối quan hệ giữa Chủ tịch nước với các cơ quan nhà nước ở trung ương
theo pháp luật hiện hành
Về tổ chức bộ máy Nhà nước trong Hiến pháp năm 1992, quan điểm cơ bản đã
được khẳng định là: Toàn bộ quyền lực Nhà nước tập trung thống nhất vào Quốc
hội, và có sự phân công phân nhiệm giữa Quốc hội, Chính phủ, Tòa án nhân dân tối
cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao để mỗi cơ quan thi hành có hiệu lực chức năng,
quyền hạn của mình với sự phối hợp chặt chẽ tạo nên sức mạnh tổng hợp của quyền
lực Nhà nước. Cùng với quy định “Chủ tịch nước là người đứng đầu Nhà nước”
(Điều 101 Hiến pháp năm 1992), các quy định khác về mối quan hệ giữa Chủ tịch
nước với Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chính phủ, Toàn án nhân tối cao,
Viện kiểm sát nhân dân tối cao thể hiện rõ quan điểm đó, cụ thể là:
1. Quan hệ giữa Chủ tịch nước với Quốc hội và Ủy ban thường vụ Quốc hội
2


Theo điều 83 Hiến pháp năm 1992: “Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của

nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam”. Mà “Chủ tịch nước là người đứng đầu Nhà nước, thay mặt cho
nhà nước về đối nội và đối ngoại” (Điều 101 Hiến pháp năm 1992). Cho nên, để
thực hiện tốt các chức năng là người đứng đầu của mình, giữa Chủ tịch nước và
Quốc hội có mối quan hệ đặc biệt, gắn bó chặt chẽ với nhau, biểu hiệu cụ thể như
sau:
Chủ tịch nước do Quốc hội bầu ra trong số đại biểu Quốc hội theo sự giới thiệu
của Ủy ban thường vụ Quốc hội, với nhiệm kỳ như nhiệm kỳ của Quốc hội; chịu
trách nhiệm và báo cáo công tác trước Quốc hội (Điều 102 Hiến pháp năm 1992).
Quy định này nhằm đảm bảo sự gắn bó và tính trách nhiệm của Chủ tịch nước
trước Quốc hội.
Quốc hội bầu ra Chủ tịch nước thì cũng có quyền miễn nhiệm, bãi nhiệm, bỏ
phiếu tín nhiệmChủ tịch nước (Khoản 7 Điều 84 Hiến pháp năm 1992, sửa đổi bổ
sung năm 2001). Điều này được áp dụng khi Chủ tịch nước mắc sai phạm, có lỗi
thiếu trách nhiệm gây ra ảnh hưởng lớn đến quốc gia, hoặc vì lý do sức khỏe…
Quốc hội quy định tổ chức và hoạt động của Chủ tịch nước (Khoản 6 Điều 84
Hiến pháp năm 1992), đồng thời có quyền bãi bỏ các văn bản của Chủ tịch nước
trái với Hiến pháp, luật, Nghị quyết của Quốc hội (Khoản 9 Điều 84 Hiến Pháp
1992).
Quốc hội phê chuẩn đề nghị của Chủ tịch nước về danh sách thành viên hội
đồng quốc phòng và an ninh (Khoản 7 Điều 84 Hiến pháp năm 1992, sửa đổi bổ
sung năm 2001).
Chủ tịch nước có quyền đề nghị Quốc hội bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm Phó Chủ
tịch nước, Thủ tướng Chính phủ, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng
Viện kiểm sát nhân dân tối cao (Khoản 3 Điều 103 Hiến pháp năm 1992).
3


Trên cơ sở đề nghị của Thủ tướng Chính phủ được phê chuẩn bởi Quốc hội, Chủ
tịch nước bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức các Phó Thủ tướng, Bộ trưởng và các

thành viên khác của Chính phủ (Khoản 4 Điều 103 Hiến pháp năm 1994).
Chủ tịch nước có quyền trình dự án luật ra trước Quốc hội, kiến nghị về luật
thông qua việc kiến nghị ban hành luật mới hoặc sửa đổi, bổ sung luật hiện hành.
Chủ tịch nước công bố Hiến pháp, luật, pháp lệnh (Khoản 1 Điều 103 Hiến pháp
năm 1992).
Ví dụ: Ngày 12/12/3013, văn phòng Chủ tịch nước tổ chức họp báo công bố 8
Luật và 1 pháp lệnh (Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật thi đua, khen
thưởng; Luật việc làm; Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật phòng cháy và
chữa cháy; Luật bảo vệ và kiểm dịch thực vật; Luật tiếp công dân; Luật đấu thầu;
Luật thực hành tiết kiệm, chống lãng phí và Luật đất đai; Pháp lệnh sửa đổi, bổ
sung một số điều của Pháp lệnh quản lý, sử dụng vũ khí, vật liệu nổ và công cụ hỗ
trợ) vừa được Quốc hội và Ủy ban thường vụ Quốc hội thông qua.
Ngoài ra, theo quy định của Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật thì Chủ
tịch nước còn công bố nghị quyết của Quốc hội, nghị quyết của Ủy ban thường vụ
Quốc hội. Hiện tại, quyền này của Chủ tịch nước chưa được quy định trong Hiến
pháp mà chi được quy định tại Điều 57 Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật
năm 2008.
Ví dụ: Ngày 9/12/2013, Văn phòng Chủ tịch nước tổ chức họp báo công bố
Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Nghị quyết của Quốc hội
quy định một số điểm thi hành Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam Việt Nam đã được Quốc hội khóa XIII, kỳ họp thứ 6 thông qua ngày 28/11.
Chủ tịch nước căn cứ vào nghị quyết của Quốc hội hoặc của Uỷ ban thường vụ
Quốc hộiđể công bốquyết định tuyên bố tình trạng chiến tranh, công bố quyết định
đại xá; căn cứ vào nghị quyết của Uỷ ban thường vụ Quốc hội ralệnh tổng động

4


viên hoặc động viên cục bộ, ban bố tình trạng khẩn cấp trong cả nước hoặc ở từng
địa phương (Khoản 5, Khoản 6 Điều 103 Hiến pháp năm 1992).

Đại biểu Quốc hội có quyền chất vấn Chủ tịch nước, Chủ tịch nước phải trả lời
trước Quốc hội tại kỳ họp, trong trường hợp cần điểu tra thì Quốc hội có thể quyết
định cho trả lời trước Ủy ban thường vụ Quốc hội hoặc tại kỳ họp sau của Quốc hội
hoặc cho trả lời bằng văn bản (Điểu 98 Hiến pháp năm 1992).
Theo Điều 105 Hiến pháp năm 1992: “Chủ tịch nước có quyền tham dự các
phiên họp của Ủy ban thường vụ Quốc hội”. Quy định này nhằm mục đích tạo điều
kiện để Chủ tịch nước theo sát được ý kiến của tập thể Ủy ban thường vụ Quốc hội
khi thảo luật và quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước.
Khoản 7 Điều 103 Hiến pháp năm 1992, sửa đổi bổ sung năm 2001 quy định:
Chủ tịch nước có quyền “Đề nghị Ủy ban thường vụ Quốc hội xem xét lại pháp
lệnh trong thời hạn 10 ngày từ ngày pháp lệnh đó được thông qua; nếu pháp lệnh
đó vẫn không nhất trí, thì Chủ tịch nước trình Quốc hội quyết định tại kỳ họp gần
nhất”.
Những quy định trên cho thấy tính phái sinh gắn bó giữa Chủ tịch nước với
Quốc hội và Ủy ban thường vụ Quốc hội. Tuy hiện nay Chủ tịch nước được tách
thành một thiết chế riêng nhưng vẫn nghiêng về phía Quốc hội, gắn bó chặt chẽ với
Quốc hội.
2. Quan hệ giữa Chủ tịch nước với Chính phủ
Theo Điều 109 Hiến pháp năm 1992: “Chính phủ là cơ quan chấp hành của
Quốc hội, là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam”. Cho nên với chức năng đại diện cho nhà nước, Chủ tịch nước
phải có mối quan hệ mật thiết với Chính phủ, góp phần tạo nên sự thống nhất và
phân công giữa các cơ quan với nhau. Điều này được thể hiện như sau:
Tại Điều 103 Hiến pháp năm 1992 quy định như sau:
5


- Chủ tịch nước đề nghị Quốc hội bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm Thủ tướng
Chính phủ (Khoản 3).
- Chủ tịch nước căn cứ vào nghị quyết của Quốc hội bổ nhiệm, miễn nhiệm,

cách chức Phó Thủ tướng, Bộ trưởng và các thành viên khác của Chính phủ (Khoản
4, sửa đổi bổ sung năm 2001). Trong thời gian Quốc hội không họp Thủ tướng
Chính phủ trình Chủ tịch nước quyết định tạm đình chỉ công tác của Phó Thủ
tướng, Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ (Khoản 3 Điều 20 Luật tổ chức
Chính phủ).
Chính phủ chịu trách nhiệm trước Chủ tịch nước (Điều 109 Hiến pháp năm
1992).Hàng quý, sáu tháng, Chính phủ gửi báo cáo công tác của Chính phủ đến
Chủ tịch nước (Điều 38 Luật tổ chức Chính phủ năm 2001).
Chính phủ mời Chủ tịch nước tham dự phiên họp của Chính phủ; trình Chủ
tịch nước quyết định các vấn đề thuộc thẩm quyền của Chủ tịch nước; (Điều 38
Luật tổ chức Chính phủ năm 2001). Khi xét thấy cần thiết, Chủ tịch nước có quyền
tham dự các phiên họp của Chính phủ (Điều 105 Hiến pháp năm 1992).
Thủ tướng Chính phủ đôn đốc, kiểm tra việc thực hiện những quyết định của
Chủ tịch nước (Khoản 1 Điểu 20 Luật tổ chức Chính phủ năm 2001).
Nhìn chung, mối quan hệ giữa Chủ tịch nước với Chính phủ đã thể hiện rõ sự
tăng cường vai trò của Chủ tịch nước đối với bộ máy hành pháp, đồng thời thấy
được sự phối hợp gắn bó giữa Quốc hội, Chủ tịch nước và Chính phủ.
3. Quan hệ giữa Chủ tịch nước với Tòa án nhân dân tối cao và Viện kiểm sát
nhân dân tối cao
Theo Hiến pháp năm 1992, tại Điều 134 quy định: “Tòa án nhân dân tối cao
là cơ quan xét xử cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.Tòa án
nhân dân tối cao giám đốc việc xét xử của các Tòa án nhân dân địa phương và các
Tòa án quân sự. Tòa án nhân dân tối cao giám đốc việc xét xử của Tòa án đặc biệt
6


và các tòa án khác… ”; Điều 137: “Viện kiểm sát nhân dân tối cao kiểm sát việc
tuân theo pháp luật của các Bộ, các cơ quan ngang Bộ, các cơ quan khác thuộc
chính phủ, các cơ quan chính quyền địa phương, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội,
đơn vị vũ trang nhân dân và công dân, thực hành quyền công tố, đảm bảo cho

pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất”. Quan hệ giữa Chủ tịch
nước với hai cơ quan trên cũng là mối quan hệ quan trọng. Theo các quy định của
pháp luật hiện hành, mối quan hệ đó biểu hiện như sau:
Điều 103 Hiến pháp năm 1992 quy định:
- Chủ tịch nước đề nghị Quốc hội bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm Chánh án Tòa
án nhân dân tối cao, Viện trưởng viện kiểm sát nhân dân tối cao (Khoản 3).
- Chủ tịch nước bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Phó Chánh án, Thẩm phán
Tòa án nhân dân tối cao, Phó viện trưởng, Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân tối
cao (Khoản 8).
Trong thời gian Quốc hội không họp, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao chịu
trách nhiệm và báo cáo công tác trước Chủ tịch nước (Điều 16, Luật tổ chức Tòa án
nhân dân năm 2002); Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao chịu trách nhiệm
và báo cáo công tác trước Chủ tịch nước (Điều 9 Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân
dân năm 2002).
Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao cũng như Chánh án Tòa án nhân
dân tối cao có quyền trình Chủ tịch nước ý kiến của mình về những trường hợp
người bị kết án xin ân giảm án tử hình (Khoản 6 Điều 33 Luật tổ chức Viện kiểm
sát nhân dân năm 2002; Khoản 4 Điều 25 Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 2002).
Chủ tịch nước bằng quyết định của mình, thành lập Hội đồng đặc xá để tham mưu,
tư vấn giúp Chủ tịch nước trong việc xem xét quyết định đặc xá. Hội đồng đó có sự
tham gia của các cấp lãnh đạo của cơ quan tư pháp, cơ quan bảo vệ pháp luật.
Ví dụ: Theo quy định số 697/2010/QĐ-CTN của Chủ tịch nước, Tòa án nhân
dân tối cao có nhiệm vụ chỉ đạo, hướng dẫn và tập hợp hồ sơ, danh sách người
7


đang được hoãn, đình chỉ chấp hành hình phạt tù được đề nghị đặc xá nhằm thực
hiện chủ trương “đặc xá rộng rãi vì 1000 năm Thăng Long – Hà Nội”.
Như vậy, pháp luật hiện hành quy định mối quan hệ giữa Chủ tịch nước với
Tòa án nhân dân tối cao và Viện kiểm sát nhân dân tối cao, đã góp phần đảm bảo

cho Chủ tịch nước liên kiết, phối hợp với tất cả các cơ quan trong cơ chế nhà nước.
4. Đánh giá mối quan hệ giữa Chủ tịch nước với các cơ quan nhà nước ở
trung ương theo pháp luật hiện hành
Từ sự phân tích trên ta có thể thấy Chủ tịch nước ta hiện nay nghiêng về cơ
quan lập pháp hơn hành pháp, tư pháp, hay nói cách khác, Chủ tịch nước nghiêng
về phía Quốc hội, gắn bó mật thiết với Quốc hội. Nhìn chung, vị trí, vai trò, thẩm
quyền và mối quan hệ giữa Chủ tịch nước với các cơ quan nhà nước ở trung ương
theo pháp luật hiện hành về cơ bản là phù hợp.

KẾT LUẬN
Qua sự phân tích trên đây, ta thấy được tầm quan trọng của Chủ tịch nước
Việt Nam trong bộ máy nhà nước cũng như mối quan hệ mật thiết, gắn bó máu thịt
không thể tách rời giữa Chủ tịch nước với các cơ quan nhà nước ở trung ương. Vì
vậy, để củng cố bộ máy nhà nước và đạt hiệu quả cao trong công việc quản lý nhà
nước cần phải làm cho thể chế Chủ tịch nước ngày càng phát huy được vai trò,
chức năng quan trọng đối với đất nước; đặc biệt cần thiết chặt hơn nữa mối quan hệ
giữa Chủ tịch nước với các cơ quan nhà nước ở trung ương.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình Luật hiến pháp Việt Nam, Trường Đại học Luật Hà Nội, Nxb Công
an nhân dân, Hà Nội (2013).
8


2. Giáo trình Luật hiến pháp Việt Nam, Khoa Luật – Trường Đại học quốc gia
Hà Nội, nxb Đại học quốc gia Hà Nội (2006).
3. Đổi mới, hoàn thiện bộ máy nhà nước trong giai đoạn hiện nay, Bùi Xuân
Đức, Nxb Tư pháp Hà Nội (2004).
4. Chế định Chủ tịch nước theo Hiến pháp hiện hành – Thực trạng và phương
hướng thực hiện, Lê Thị Hoa, Hà Nội (2012).

5. Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992, sửa đổi, bổ
sung năm 2001.
6. Luật tổ chức Chính phủ năm 2001.
7. Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 2002.
8. Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2002.
9.
10. />11.
12.
13. />
9



×