Tải bản đầy đủ (.docx) (10 trang)

Việc rút đơn khởi kiện của đương sự tại tòa án cấp sơ thẩm, phúc thẩm trong quá trình tòa án giải quyết vụ án dân sự và một số kiến nghị hoàn thiện ph

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (71.37 KB, 10 trang )

Bài tập lớn học kì, môn Luật tố tụng dân sự

MỤC LỤC
MỞ ĐẦU..........................................................................................................2
NỘI DUNG.......................................................................................................2
I. Quy định của pháp luật tố tụng dân sự về việc đương sự rút đơn
khởi kiện tại phiên tòa sơ thẩm và phúc thẩm
........................................................................................................................
2
1. Việc rút đơn khởi kiện của đương sự tại Tòa án cấp sơ thẩm.......................2
2. Việc rút đơn khởi kiện của đương sự tại Tòa án cấp phúc thẩm...................4
II. Hạn chế và giải pháp hoàn thiện...............................................................6
1. Việc rút đơn khởi kiện của đương sự tại Tòa án cấp sơ thẩm.......................6
2. Việc rút đơn khởi kiện của đương sự tại Tòa án cấp phúc thẩm...................7
KẾT LUẬN......................................................................................................9
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1


Bài tập lớn học kì, môn Luật tố tụng dân sự
MỞ ĐẦU
Nguyên tắc quyền tự định đoạt của đương sự là một trong các nguyên tắc
cơ bản và đặc trưng của Luật tố tụng dân sự Việt Nam. Một trong những nội
dung cơ bản của nguyên tắc này là việc đương sự có quyền quyết định khởi kiện
hoặc không khởi kiện vụ án dân sự. Sau khi khởi kiện vụ án dân sự, đương sự có
quyền khác trong quá trình tham gia tố tụng tại Tòa án như: quyền thay đổi, bổ
sung yêu cầu của mình hoặc thỏa thuận tự nguyện với nhau hoặc rút đơn khởi
kiện vụ án dân sự. Trong bài viết dưới đây, em xin trình bày một số quan điểm
liên quan đến việc rút đơn khởi kiện của đương sự tại Tòa án cấp sơ thẩm, phúc
thẩm trong quá trình Tòa án giải quyết vụ án dân sự và một số kiến nghị hoàn


thiện pháp luật tố tụng dân sự về vấn đề này.
NỘI DUNG
I. Quy định của pháp luật tố tụng dân sự về việc đương sự rút đơn khởi
kiện tại phiên tòa sơ thẩm và phúc thẩm.
1. Việc rút đơn khởi kiện của đương sự tại Tòa án cấp sơ thẩm.
Trong trường hợp các bên có tranh chấp về dân sự, hôn nhân gia đình, kinh
doanh, thương mại và lao động mà các bên không thể thỏa thuận được với nhau
về việc giải quyết thì một trong các bên có thể thực hiện việc khởi kiện đến Tòa
án có thẩm quyền để yêu cầu Tòa án giải quyết. Trên cơ sở đơn khởi kiện của
đương sự, Tòa án tiến hành thụ lý, làm phát sinh vụ án dân sự tại Tòa án, đồng
thời bắt đầu quá trình giải quyết vụ án dân sự. Sau khi Tòa đã thụ lý vụ án, trước
hoặc tại phiên tòa sơ thẩm, đương sự có quyền rút đơn khởi kiện vụ án dân sự.
Nếu trước hoặc tại phiên tòa sơ thẩm, nguyên đơn rút đơn khởi kiện mà
trong vụ án Tòa án chỉ phải giải quyết yêu cầu của nguyên đơn thì Tòa án ra quyết
định đình chỉ việc giải quyết vụ án (điểm c, khoản 1,Điều 192 BLTTDS). Tuy
nhiên, trong các trường hợp nguyên đơn rút đơn khởi kiện mà bị đơn có yêu cầu
phản tố, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập thì tùy từng
trường hợp để quyết định. Theo Nghị quyết 02/2006/NQ-HĐTP của Hội đồng
thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao ngày 12/05/2006 hướng dẫn thi hành các quy
2


Bài tập lớn học kì, môn Luật tố tụng dân sự
định trong phần thứ hai “Thủ tục giải quyết vụ án tại Tòa án cấp sơ thẩm” của Bộ
luật tố tụng dân sự, tại mục 10, Phần II và mục 7, Phần III có quy định:
- Trong trường hợp không có yêu cầu phản tố và yêu cầu độc lập, thì Tòa án
chấp nhận người khởi kiện rút đơn khởi kiện và căn cứ vào điểm c, khoản 1,
Điều 192 của BLTTDS ra quyết định đình chỉ việc giải quyết vụ án dân sự.
- Trong trường hợp có yêu cầu phản tố của bị đơn và yêu cầu độc lập của người
có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan thì tùy từng trường hợp mà giải quyết như sau:

+ Trường hợp nguyên đơn rút đơn khởi kiện, bị đơn rút yêu cầu phản tố;
người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập rút yêu cầu của mình
thì Tòa án ra quyết định đình chỉ việc giải quyết toàn bộ vụ án.
+ Trường hợp nguyên đơn rút đơn khởi kiện, nhưng bị đơn giữ nguyên yêu cầu
phản tố; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập vẫn giữ nguyên
yêu cầu của mình thì đình chỉ việc giải quyết vụ án với yêu cầu của nguyên đơn.
+ Trường hợp nguyên đơn rút đơn khởi kiện, bị đơn rút yêu cầu phản tố,
nhưng người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập vẫn giữ
nguyên yêu cầu của mình thì đình chỉ việc giải quyết vụ án với yêu cầu của
nguyên đơn và yêu cầu phản tố của bị đơn và người có quyền lợi và nghĩa vụ
liên quan có yêu cầu độc lập trở thành nguyên đơn, người có nghĩa vụ đối với
yêu cầu độc lập đó trở thành bị đơn.
+ Trường hợp nguyên đơn rút đơn khởi kiện, người có quyền lợi và nghĩa
vụ liên quan rút toàn bộ yêu cầu độc lập, nhưng bị đơn vẫn giữ nguyên yêu cầu
phản tố thì Tòa án đình chỉ việc giải quyết vụ án với yêu cầu của nguyên đơn và
yêu cầu độc lập của người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập
và bị đơn sẽ trở thành nguyên đơn, người có nghĩa vụ với yêu cầu phản tố của bị
đơn sẽ trở thành bị đơn.
Việc thay đổi địa vi tố tụng của đương sự phải được ghi vào biên bản phiên
tòa và bản án.
Theo Điều 193 BLTTDS và mục 11, Phần II Nghị quyết 02/2006 thì khi có
quyết định đình chỉ giải quyết vụ án dân sự, trong trường hợp đương sự rút đơn
khởi kiện có quyền khởi kiện yêu cầu Toà án giải quyết lại vụ án dân sự đó nếu
3


Bài tập lớn học kì, môn Luật tố tụng dân sự
còn thời hiệu khởi kiện mặc dù việc khởi kiện vụ án sau không có gì khác vụ án
trước về nguyên đơn, bị đơn và quan hệ pháp luật có tranh chấp. Trong trường
hợp Toà án ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án dân sự theo quy định tại

khoản 1 Điều 192 của Bộ luật này thì tiền tạm ứng án phí mà đương sự đã nộp
được sung vào công quỹ nhà nước.
2. Việc rút đơn khởi kiện của đương sự tại Tòa án cấp phúc thẩm.
Về nguyên tắc, khi bản án, quyết định của tòa sơ thẩm chưa có hiệu lực
pháp luật bị kháng cáo, kháng nghị thì Tòa án cấp phúc thẩm tiến hành việc xét
xử phúc thẩm vụ án. Trong quá trình giải quyết vụ án ở Tòa án cấp phúc thẩm,
đương sự cũng có quyền tự định đoạt như: quyền thay đổi, bổ sung kháng cáo,
rút kháng cáo; quyền rút đơn khởi kiện,… theo quy định tại Điều 269 BLTTDS
thì ở giai đoạn phúc thẩm nếu nguyên đơn rút đơn khởi kiện thì tùy trường hợp
giải quyết như sau:
“1. Trước khi mở phiên toà hoặc tại phiên toà phúc thẩm nguyên đơn rút
đơn khởi kiện thì Hội đồng xét xử phúc thẩm phải hỏi bị đơn có đồng ý hay
không và tuỳ từng trường hợp mà giải quyết như sau:
a) Bị đơn không đồng ý thì không chấp nhận việc rút đơn khởi kiện của
nguyên đơn;
b) Bị đơn đồng ý thì chấp nhận việc rút đơn khởi kiện của nguyên đơn. Hội
đồng xét xử phúc thẩm ra quyết định huỷ bản án sơ thẩm và đình chỉ giải quyết
vụ án. Trong trường hợp này, các đương sự vẫn phải chịu án phí sơ thẩm theo
quyết định của Toà án cấp sơ thẩm và phải chịu một nửa án phí phúc thẩm theo
quy định của pháp luật”.
Để áp dụng quy định tại Điều 269 BLTTDS, Mục 4 Phần III Nghị quyết số
05/2006/NQ-HĐTP của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao ngày
04/08/2006 có hướng dẫn thi hành một số quy định trong phần thứ ba “Thủ tục
giải quyết vụ án tại Tòa án cấp phúc thẩm” của Bộ luật tố tụng dân sự quy định:
- Việc rút đơn khởi kiện của nguyên đơn trước khi mở phiên toà phải được
làm thành văn bản. Việc rút đơn khởi kiện của nguyên đơn tại phiên toà không
phải làm thành văn bản, nhưng phải ghi vào biên bản phiên toà.
4



Bài tập lớn học kì, môn Luật tố tụng dân sự
- Trong thời hạn nguyên đơn có quyền kháng cáo, nếu nguyên đơn rút đơn
khởi kiện, thì Toà án cấp sơ thẩm cần phải giải thích cho họ biết hậu quả của việc
bị đơn không đồng ý để họ quyết định việc kháng cáo hoặc rút đơn khởi kiện.
Trường hợp nguyên đơn vẫn quyết định rút đơn khởi kiện thì Toà án cấp sơ
thẩm phải thông báo bằng văn bản cho bị đơn biết và yêu cầu bị đơn phải trả lời
bằng văn bản cho Toà án cấp sơ thẩm về việc họ có đồng ý hay không đồng ý
trong thời hạn năm ngày làm việc, kể từ ngày nhận được thông báo của Toà án.
Tuỳ thuộc vào kết quả trả lời của bị đơn mà giải quyết như sau:
+ Trường hợp Toà án cấp sơ thẩm nhận được văn bản trả lời của bị đơn
không đồng ý việc rút đơn khởi kiện của nguyên đơn và trong thời hạn kháng cáo,
kháng nghị không có đương sự nào kháng cáo, Viện kiểm sát không kháng nghị,
thì việc rút đơn khởi kiện của nguyên đơn đương nhiên không được chấp nhận.
Trong trường hợp này bản án sơ thẩm được coi là không bị kháng cáo, kháng nghị
và có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
+ Trường hợp Toà án cấp sơ thẩm nhận được văn bản trả lời của bị đơn
đồng ý việc rút đơn khởi kiện của nguyên đơn, thì không phân biệt trong thời
hạn kháng cáo, kháng nghị có đương sự nào kháng cáo hoặc Viện kiểm sát
kháng nghị hay không, Toà án cấp sơ thẩm đều phải gửi hồ sơ vụ án và kháng
cáo, kháng nghị, văn bản rút đơn khởi kiện cho Toà án cấp phúc thẩm để Toà án
cấp phúc thẩm căn cứ vào Điều 269 của BLTTDS mở phiên toà giải quyết vụ án
theo thủ tục chung.
Theo quy định tại Điều 269 và mục 4 Phần III Nghị quyết 05/2006 thì
trường hợp bị đơn đồng ý thì chấp nhận việc rút đơn khởi kiện của nguyên đơn.
Hội đồng xét xử phúc thẩm ra quyết định huỷ bản án sơ thẩm và đình chỉ giải
quyết vụ án. Trong trường hợp này, các đương sự vẫn phải chịu án phí sơ thẩm
theo quyết định của Toà án cấp sơ thẩm và phải chịu một nửa án phí phúc thẩm
theo quy định của pháp luật. Trong trường hợp Hội đồng xét xử phúc thẩm ra
quyết định đình chỉ giải quyết vụ án thì nguyên đơn có quyền khởi kiện lại vụ án
theo thủ tục do Bộ luật này quy định nếu thời hiệu khởi kiện vẫn còn.


5


Bài tập lớn học kì, môn Luật tố tụng dân sự
II. Hạn chế và giải pháp hoàn thiện
1. Việc rút đơn khởi kiện của đương sự tại Tòa án cấp sơ thẩm.
Như vậy, các đương sự có quyền bình đẳng trong việc đưa ra yêu cầu
(nguyên đơn đưa ra yêu cầu khởi kiện, bị đơn đưa ra yêu cầu phản tố, người có
quyền lợi và nghĩa vụ liên quan đưa ra yêu cầu độc lập) và Tòa án chỉ giải quyết
trong phạm vi yêu cầu của đương sự. Tuy nhiên, chúng ta thấy rằng việc các
đương sự đưa ra yêu cầu để Tòa án giải quyết thì đương sự phải chịu trách
nhiệm về yêu cầu của mình trước các đương sự khác. Vì vậy, để đảm bảo các
đương sự bình đẳng với nhau về quyền và nghĩa vụ, đồng thời đảm bảo đương
sự phải cân nhắc trong việc đưa ra yêu cầu của mình, pháp luật tố tụng dân sự
cần quy định khi đương sự đưa ra yêu cầu, nhưng sau đó lại rút lại yêu cầu của
mình thì Tòa án có chấp nhận cho đương sự đó rút đơn khởi kiện hay không cần
hỏi ý kiến các đương sự khác để quyết định chấp nhận cho đương sự đó rút yêu
cầu hay không, bởi những lí do sau:
- Khi mỗi đương sự đưa ra yêu cầu của mình vì cho rằng đương sự khác đã
xâm phạm đến quyền và lợi ích của mình thì đều dẫn đến việc đương sự phía
bên kia phải có công việc chuẩn bị để có ý kiến phản đối với yêu cầu của đương
sự khác đối với họ. Hoạt động chuẩn bị này đã dẫn đến việc đương sự phải đưa
ra ý kiến đó đã phải có những chi phí vật chất nhất định cho việc phải tham gia
tố tụng như thuê luật sư, các chi phí để chuẩn bị chứng cứ, tài liệu,… Vì vậy,
nếu đương sự này rút yêu cầu mà đương sự khác không đồng ý và yêu cầu Tòa
án phải giải quyết dứt điểm mối quan hệ này để xác định được quyền và nghĩa
vụ của các bên thì Tòa án không chấp nhận cho rút yêu cầu mà vẫn phải giải
quyết yêu cầu đó. Tuy nhiên, sự chấp thuận của bị đơn là không cần thiết khi bị
đơn chưa thực hiện việc bào chữa về nội dung tranh chấp hoặc về yêu cầu bác

đơn khởi kiện tại thời điểm nguyên đơn rút đơn.
- Khi đương sự đưa ra yêu cầu, họ phải chịu trách nhiệm về yêu cầu của mình.
Nguyên đơn đưa ra yêu cầu khởi kiện phải chịu trách nhiệm khi lạm dụng quyền
khởi kiện. Chẳng hạn, không phải vì mục đích bảo vệ quyền lợi chính đáng mà chỉ
do ác ý muốn thưa kiện để hãm hại bị đơn thì Tòa án có thể phạt và buộc phải bồi
6


Bài tập lớn học kì, môn Luật tố tụng dân sự
thường thiệt hại. Vì vậy, khi nguyên đơn rút đơn khởi kiện cần phải xem xét ý kiến
của bị đơn. Nếu bị đơn cho rằng cần phải giải quyết dứt điểm mối quan hệ giữa các
đương sự để xác định rõ trách nhiệm của việc nguyên đơn lạm dụng quyền khởi
kiện thì Tòa án vẫn phải giải quyết vụ án.
Vì vậy, BLTTDS cần quy định khi đương sự nộp đơn khởi kiện, nhưng sau
đó lại rút lại đơn khởi kiện của mình thì Tòa án có chấp nhận cho đương sự đó
rút đơn hay không cần hỏi ý kiến các đương sự khác để quyết định chấp nhận
cho đương sự đó rút yêu cầu.
2. Việc rút đơn khởi kiện của đương sự tại Tòa án cấp phúc thẩm.
Như vậy, Điều 269 BLTTDS và hướng dẫn tại Nghị quyết 05/2006 đã là cơ
sở pháp lý để Tòa án khi xét xử phúc thẩm thụ lý khi nguyên đơn rút đơn khởi
kiện ở trước hoặc tại phiên tòa phúc thẩm. Tuy nhiên qua nguyên cứu các quy
định trên, việc hiểu và áp dụng Điều 269 BLTTDS hiện có nhiều bất cập và có
một số vấn đề cần trao đổi như sau:
Thứ nhất, theo quy định tại Điều 269 BLTTDS, khi nguyên đơn rút đơn
khởi kiện, Tòa án cấp phúc thẩm có cho nguyên đơn rút hay không thì phải hỏi ý
kiến của bị đơn xem bị đơn có đồng ý cho nguyên đơn rút đơn hay không. Điều
này là nhằm “tránh những trường hợp đương sự lạm dụng việc thực hiện quyền
này gây khó khăn cho các đương sự khác trong việc tham gia tố tụng, bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của họ” (1). Tuy nhiên, vấn đề đặt ra là trong vụ án
không chỉ có nguyên đơn và bị đơn mà còn có sự tham gia của người có quyền

lợi và nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập mà nguyên đơn rút đơn khởi kiện,
bị đơn đồng ý cho nguyên đơn rút đơn khởi kiện, nhưng người có quyền lợi và
nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập vẫn giữ nguyên yêu cầu của mình thì Tòa
án cấp phúc thẩm phải giải quyết như thế nào? Điều này liệu có thể được hiểu là
nếu vụ án có người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập hoặc
bị đơn có yêu cầu phản tố mà người có quyền và lợi ích liên quan không rút lại
_____________________
(1)

Nguyễn Công Bình, Bảo đảm quyền bảo vệ của đương sự trong TTDSVN, Luận án tiến sĩ Luật học,

Hà Nội, 2006, tr 100.

7


Bài tập lớn học kì, môn Luật tố tụng dân sự
đơn yêu cầu độc lập, bị đơn không rút lại yêu cầu phản tố của mình thì phần bản
án giải quyết yêu cầu độc lập hoặc giải quyết yêu cầu phản tố của họ cũng bị
hủy hay không? Nếu áp dụng theo cách hiểu này là vi phạm đến quyền của bị
đơn và người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập được quy
định tại Điều 60, 61 BLTTDS, cũng như nguyên tắc bình đẳng về quyền và
nghĩa vụ giữa các đương sự. Vấn đề này BLTTDS không quy định và vẫn chưa
được hướng dẫn làm cơ sở cho việc giải quyết trong trường hợp này.
Vì vậy, Tòa án cấp phúc thẩm chấp nhận việc rút đơn của nguyên đơn và
quyết định hủy một phần của bản án sơ thẩm giải quyết mối quan hệ giữa nguyên
đơn và bị đơn, nhưng phần bản án giải quyết mối quan hệ giữa người có quyền lợi
và nghĩa vụ liên quan với nguyên đơn, bị đơn thì Tòa án vẫn phải giữ nguyên.
Thứ hai, theo hướng dẫn tại Nghị quyết số 05/2006 thì việc rút đơn khởi
kiện của nguyên đơn có thể xảy ra trong trường hợp khi vụ án không có kháng

cáo, kháng nghị. Khi đó, Tòa án cấp sơ thẩm yêu cầu bị đơn trả lời bằng văn bản
có đồng ý với việc rút đơn của nguyên đơn hay không? Nếu Tòa án cấp sơ thẩm
nhận được văn bản trả lời của bị đơn đồng ý việc rút đơn khởi kiện của nguyên
đơn, Tòa án cấp sơ thẩm phải gửi hồ sơ vụ án và văn bản rút đơn khởi kiện cho
Tòa án cấp phúc thẩm để Tòa án cấp phúc thẩm căn cứ vào Điều 269 BLTTDS
mở phiên tòa phúc thẩm để hủy bản án sơ thẩm và đình chỉ giải quyết vụ án.
Quy đnh này là chưa hợp lí, bởi vì:
- Về nguyên tắc, căn cứ để có thủ tục phúc thẩm là phải có kháng cáo, kháng
nghị của chủ thể có thẩm quyền theo quy định của pháp luật tố tụng đối với bản án,
quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật. Tuy nhiên, trong trường hợp trên
mặc dù không có kháng cáo, kháng nghị đối với bản án, quyết định mà Tòa án cấp
phúc thẩm vẫn tiến hành mở phiên tòa phúc thẩm là không có cơ sở.
- Theo quy định tại khoản 2, Điều 254 BLTTDS thì bản án, quyết định hoặc
phần bản án, quyết định sơ thẩm của Tòa án không bị kháng cáo, kháng nghị thì
có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị. Trong
trường hợp trên, hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị nhưng không có kháng cáo,
kháng nghị nên bản án, quyết định sơ thẩm đã phát sinh hiệu lực pháp luật. Do
8


Bài tập lớn học kì, môn Luật tố tụng dân sự
đó, nếu nguyên đơn rút đơn khởi kiện và được bị đơn đồng ý cho nguyên đơn rút
đơn khởi kiện thì Tòa án cấp phúc thẩm cũng không thể mở phiên tòa phúc thẩm
để hủy bản án, quyết định sơ thẩm và đình chỉ việc giải quyết vụ án.
- Để mở phiên tòa, Tòa án phải hướng dẫn cho đương sự kháng cáo toàn bộ
bản án sơ thẩm cùng với việc rút đơn khởi kiện. Đây là một việc làm không đơn
giản đối với các đương sự khó tính, họ không thể hiểu nổi tại sao chỉ mỗi yêu
cầu rút đơn khởi kiện mà phải làm nhiều thủ tục như vậy. Chưa kể đương sự
phải mất tiền tạm ứng án phí phúc thẩm đối với yêu cầu kháng cáo của mình mà
không phải lúc nào người dân cũng chấp nhận,đặc biệt là đối với những người

có hoàn cảnh khó khăn, đối tượng chính sách.
Vì vậy, chỉ nên đặt ra vấn đề rút đơn khởi kiện của nguyên đơn khi Tòa án cấp
sơ thẩm nhận được đơn kháng cáo hoặc quyết định kháng nghị của Viện kiểm sát.
Thứ ba, BLTTDS mới chỉ đề cập đến việc rút đơn khởi kiên của nguyên đơn
mà chưa có quy định về việc bị đơn, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan rút
lại đơn yêu cầu phản tố hoặc đơn yêu cầu độc lập của mình hoặc nguyên đơn chỉ
rút lại một phần yêu cầu của mình ở giai đoạn phúc thẩm. Theo nguyên tắc quyền
tự định đoạt của đương sự được quy định tại Điều 5 BLTTDS, dù họ là nguyên
đơn, bị đơn hay người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan khi đã đưa yêu cầu Tòa
án giải quyết thì đều có quyền rút lại yêu cầu của mình. Do đó, các đương sự rút lại
yêu cầu của mình ở giai đoạn phúc thẩm đều có thể được chấp nhận.
KẾT LUẬN
Rút đơn khởi kiện là một trong các quyền tự định đoạt của đương sự, nên ở
bất kỳ thời điểm nào của quá trình tố tụng, đương sự đều có thể rút yêu cầu của
mình. Khi việc rút yêu cầu của đương sự là tự nguyện, không trái pháp luật và
đạo đức xã hội thì Tòa án sẽ chấp nhận việc rút yêu cầu của các đương sự.
Tuy nhiên, việc hiểu và áp dụng các quy định có liên quan không thật sự
thống nhất, chính xác dẫn đến những khó khăn cho các đương sự và hoạt động
xét xử của Tòa án. Vì vậy, trong tương lai cần có những quy định và hướng dẫn
cụ thể và hợp lí hơn trong vấn đề này nhằm góp phần hoàn thiện pháp luật tố
tụng dân sự nói riêng và pháp luật Việt Nam nói chung./.
9


Bài tập lớn học kì, môn Luật tố tụng dân sự

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình luật tố tụng dân sự, Nxb.CAND, Hà
Nội, 2009;
2. Bộ luật tố tụng dân sự 2004;

3. Nghị quyết số 02/2006/NQ-HĐTP của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân
tối cao ngày 12/05/2006 hướng dẫn thi hành các quy định trong phần thứ hai
“Thủ tục giải quyết vụ án tại Tòa án cấp sơ thẩm” của Bộ luật tố tụng dân sự;
4. Nghị quyết số 05/2006/NQ-HĐTP của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân
tối cao ngày 04/08/2006 hướng dẫn thi hành một số quy định trong phần thứ
ba “Thủ tục giải quyết vụ án tại Tòa án cấp phúc thẩm” của Bộ luật tố tụng
dân sự
5. Nguyễn Triều Dương, “Việc rút đơn khởi kiện của đương sự trong tố tụng
dân sự”, Tạp chí Tòa án, số 22 (tháng 11/2009);
6. Nguyễn Thị Thu Hà, “Việc rút yêu cầu của đương sự ở giai đoạn phúc
thẩm”, Tạp chí nghiên cứu lập pháp, số 11/2010.

10



×