19. Ngày 19-01: "Mỗi viên đạn, mỗi khẩu súng là mồ hôi nước mắt của đồng bào
mình”(2)
Đó là lời của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong Bài nói tại Hội nghị tổng kết Chiến dịch Tây
Bắc, ngày 29 tháng 01 năm 1953; trong thời điểm cuộc kháng chiến toàn dân, toàn diện của
nhân dân ta giành được nhiều thắng lợi trên các mặt trận, tạo chuyển biến có lợi cho cách
mạng Việt Nam trên chiến trường Đông Dương; buộc thực dân Pháp triển khai gấp gáp kế
hoạch Na-Va - một kế hoạch chiến lược có quy mô rộng lớn, hòng cứu vãn tình thế, giành
giật, lấy lại thế chủ động trên chiến trường Đông Dương.
Bài nói của Người thay mặt cho Trung ương Đảng, Chính phủ khen ngợi các đơn vị
tham gia Chiến dịch Việt Bắc đã quán triệt thấm nhuần sâu sắc quyết tâm của Trung ương
Đảng; tất cả bộ đội tin tưởng ở Trung ương Đảng và Chính phủ, chịu đựng gian khổ, khắc
phục khó khăn, nhờ đó mà giành thắng lợi. Tuy nhiên, Bác cũng chân thành chỉ ra những
khuyết điểm cần phải khắc phục, để chiến thắng lần sau được trọn vẹn hơn, như: Đối với của
công, các chú chưa thấm nhuần chính sách. Mỗi viên đạn, mỗi khẩu súng là mồ hôi nước mắt
của đồng bào mình. Chính sách chiến lợi phẩm còn nhiều đơn vị làm chưa đúng, sử dụng còn
bừa bãi, không công bằng, dân chủ, để cho bộ đội thắc mắc, tị nạnh, ảnh hưởng xấu đến
đoàn kết.
Thấm nhuần lời của Người, các đơn vị quân đội tổ chức đợt sinh hoạt rút kinh
nghiệm; quán triệt lời huấn thị của Bác Hồ; thực hiện dân chủ, công khai, bình đẳng trong
đánh giá bình công chiến thắng; đồng thời nghiêm túc kiểm điểm, kiên quyết khắc phục
khuyết điểm, thiếu sót; coi trọng các biện pháp phòng, chống biểu hiện chủ quan, coi thường
địch; giáo dục nâng cao bản lĩnh, ý chí quyết tâm, rèn luyện khả năng chịu đựng mọi khó
khăn, gian khổ, không sợ hiểu nguy, sẵn sàng chiến đấu và chiến đấu giành thắng lợi.
Trong thời kỳ mới, lời huấn thị của Bác Hồ tiếp tục được Quân đội nhân dân Việt Nam
nghiên cứu, vận dụng, cụ thể hóa vào nội dung điều lệnh, điều lệ của Quân đội, chức trách
của quân nhân; ra sức giữ gìn vũ khí trang bị, nêu cao tinh thần bảo vệ của công; kiên quyết
đấu tranh chống mọi biểu hiện tham ô, lãng phí, phấn đấu hoàn thành tốt chức trách, nhiệm
vụ được giao, góp phần xây dựng đơn vị vững mạnh toàn diện, xây dựng Quân đội nhân dân
cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại; có chất lượng tổng hợp, sức mạnh
chiến đấu cao; thực sự là lực lượng chính trị, đội quân chiến đấu tin cậy, tuyệt đối trung
thành với Đảng, với Nhà nước và nhân dân.
20. Tháng 01-1947: "Khi thắng không kiêu, khi lui không nản! Các anh em quyết
kháng chiến cho đến thắng lợi"(3)
Đó là lời của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong bài "Gửi các chiến sĩ Vệ quốc đoàn, tự vệ và
dân quân toàn quốc", được viết vào tháng 01 năm 1947, trong thời điểm thực dân Pháp vừa
phong tỏa, lùng sục, vừa đẩy mạnh sử dụng lực lượng Việt gian chỉ điểm để đánh úp lực
lượng vũ trang ở các địa phương. Song các lực lượng Vệ quốc đoàn, tự vệ và dân quân trong
cả nước đã không ngại hiểm nguy, gian lao, ăn gió nằm sương, máu trôi, lửa cháy, mưa đạn
rừng bom; thi đua xung phong hãm trận, giết giặc lập công, "càng đánh càng mạnh, kinh
nghiệm càng nhiều".
Bài viết của Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định nhiệm vụ vẻ vang và thành tích oanh
liệt của các chiến sĩ Vệ quốc đoàn, tự vệ, dân quân toàn quốc trong năm đầu chống thực dân
Pháp xâm lược; Người chỉ rõ: "Khi thắng không kiêu, khi lui không nản! Các anh em quyết
kháng chiến cho đến thắng lợi. Mặc kệ tàu bay, thiết giáp, các anh cứ tiến lên, cứ xông vào!
Anh dũng thay! Lòng quyết thắng của anh em. Các chiến sĩ là đàn con anh hùng của Tổ
quốc. Các chiến sĩ quyết đem xương máu để giữ vững non nước Lạc Hồng!"
Lời của Hồ Chí Minh tạo khí thế hào hùng, tinh thần lạc quan, tin tưởng vào cuộc
kháng chiến sẽ giành thắng lợi. Dưới sự chỉ đạo của Thường vụ Trung ương Đảng, quân và
dân ta đã tổ chức nhiều trận chiến đấu anh dũng "cảm tử cho Tổ quốc quyết sinh", kìm chân
và tiêu hao lực lượng địch; đồng thời, tập trung phát triển chiến tranh du kích rộng khắp, với
lối đánh tiêu hao và tiêu diệt sinh lực địch, thực hiện phá hoại đường sá, cầu và nhà kiên cố,
làm vườn không nhà trống, nhằm cản bước tiến của địch và duy trì sức chiến đấu lâu dài của
quân và dân ta; tại điều kiện tổng di chuyển, ổn định nơi ở và làm việc của cơ quan lãnh đạo
kháng chiến lên An toàn khu ở Việt Bắc; làm cơ sở xây dựng lực lượng vũ trang hùng hậu
gồm ba thứ quân (quân chủ lực, bộ đội địa phương và dân quân du kích), động viên toàn dân
tham gia cuộc kháng chiến thắng lợi cuối cùng.
Lời của Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi các chiến sĩ Vệ quốc đoàn, tự vệ và dân quân toàn
quốc năm ấy, đã ghi sâu vào tiềm thức của mỗi cán bộ, chiến sĩ và đã trở thành một trong
những phẩm chất truyền thống tiêu biểu được kết thành 10 Lời thề danh dự của quân nhân;
là niềm tự hào, nguồn cổ vũ, động viên thôi thúc các thế hệ cán bộ, chiến sĩ Quân đội nhân
dân Việt Nam quyết tâm giữ vững, phát huy truyền thống yêu nước, anh hùng, kiên cường,
bất khuất, sẵn sàng chiến đấu và hy sinh để giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc. Hơn 70
năm đã trôi qua, nhưng phẩm chất tiêu biểu "… thắng không kiêu, bại không nản…" của cán
bộ, chiến sĩ Quân đội nhân dân Việt Nam tiếp tục được tỏa sáng trong mọi hoạt động chiến
đấu, công tác, lao động sản xuất, nghiên cứu khoa học… và sẽ vang vọng mãi mãi cho đến
mai sau.
24.
Tháng 01 : “Tết trồng cây chẳng những có ý nghĩa kinh tế mà còn có ý
nghĩa chính trị to lớn”(1).
Là lời trong Bài "Tết trồng cây" của Chủ tịch Hồ Chí Minh, đăng trên Báo Nhân Dân số
3228 ngày 27-01-1963; vào thời điểm, các địa phương trên cả nước đang sôi nổi chuẩn bị
Tết trồng cây, với khi thế tinh thần và trách nhiệm rất cao; trong đó nổi bật là Đoàn Thanh
niên Lao động ở 10 tỉnh, thành (Hà Nội, Hải Phòng, Hải Dương, Hưng Yên, Hà Tĩnh, v.v…) đã
quyết tâm nhận trách nhiệm làm đội quân chủ lực đi đầu trong phong trào Tết trồng cây.
Hồ Chủ tịch đã nêu rõ tác dụng của việc trồng cây "tốn kém ít mà ích lợi nhiều"; ghi
nhận, biểu dương công tác chuẩn bị Tết trồng cây của các địa phương trong ngày đầu năm
mới đã có nhiều tiến bộ so với những năm trước; đồng thời nhắc nhở, chỉ rõ cho cấp ủy,
chính quyền, các cấp, các ngành: Phải có kế hoạch thật chu đáo; cần động viên lực lượng
quần chúng rộng rãi tham gia trồng cây ở tất cả các nông trường, xí nghiệp, cơ quan, bộ đội,
trường học…; cần làm cho mọi người, nhất là làm cho các em nhi đồng biết bảo vệ tốt cây
xanh; quan tâm chăm sóc, sửa sang làm cho cây ngày càng tươi đẹp hơn; tăng cường kiểm
tra đánh giá cụ thể; thường xuyên phát huy tốt vai trò của các chi bộ và chi đoàn thanh niên
trong lãnh đạo, chỉ đạo, để Tết trồng cây chẳng những có ý nghĩa kinh tế mà còn có ý nghĩa
chính trị to lớn đối với nước nhà.
Thực hiện lời dạy của Người, để Tết trồng cây đi vào chiều sâu và có ý nghĩa thiết
thực, các địa phương, các cấp, các ngành đã đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục các
tầng lớp nhân dân hiểu sâu sắc mục đích, ý nghĩa của Tết trồng cây, vận động cán bộ, nhân
dân, bộ đội, thanh niên, học sinh hăng hái tham gia trồng cây, gây rừng, nhất là ở những nơi
đất trống, nơi công sở, trường học, doanh trại đơn vị quân đội, tạo thành phong trào tự giác,
sôi nổi, rộng khắp trong cả nước; trở thành truyền thống, nét đẹp văn hóa của dân tộc Việt
Nam trong xây dựng và bảo vệ tài nguyên rừng.
Trong giai đoạn hiện nay, lời căn dặn về "Tết trồng cây" của Bác Hồ càng trở nên có ý
nghĩa sâu sắc trong bối cảnh đất nước ta đang là một trong những quốc gia chịu ảnh hưởng
nhất của biến đổi khí hậu; hơn nữa hiện nay vẫn còn một số nơi chưa nhận thức đầy đủ ý
nghĩa, hiệu quả của "Tết trồng cây", đòi hỏi các cấp, các ngành, các địa phương tiếp tục
quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức tốt hơn nữa "Tết trồng cây" theo đúng tinh thần của
Chủ tịch Hồ Chí Minh, để càng làm sáng ngời nếp đẹp văn hóa truyền thống Việt Nam trong
sự nghiệp đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Thấm nhuần tinh thần "Tết trồng cây" của Chủ tịch Hồ Chí Minh, các đơn vị quân đội
luôn là lực lượng xung kích, đi đầu thực hiện có hiệu quả "Tết trồng cây", tham gia quản lý,
bảo vệ rừng phòng hộ; thực hiện trồng cây phủ xanh đồi trọc; đẩy mạnh thực hiện Cuộc vận
động xây dựng môi trường văn hóa tốt, lành mạnh, phong phú, gắn với Phong trào xây dựng
doanh trại quân đội xanh - sạch - đẹp và các phong trào, cuộc vận động khác, góp phần
nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho bộ đội, phấn đấu xứng danh Bộ đội Cụ Hồ trong
thời kỳ mới.
25.
Ngày 25-01: “Phải có một quân đội đánh giỏi và một hậu phương vững
chắc", “Mỗi một người công nhân, mỗi một người nông dân đều phải biết đánh
giặc”. “Tất cả cho tiền tuyến, tất cả để đánh thắng”(2).
Đó là lời của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong bài viết "Lê-nin dạy", đăng trên Báo Nhân
Dân số 161 từ ngày 21 đến ngày 25-01-1954. Đây là thời điểm quân và dân ta đang mở các
chiến dịch lớn tiến công địch trên các chiến trường toàn quốc; kế hoạch Nava của thực dân
Pháp đang trên đà phá sản; cuộc kháng chiến toàn dân, toàn diện của nhân dân ta tiến đến
giai đoạn quyết định, cần phải có sức mạnh tổng lực của lực lượng quân sự hùng mạnh và
nguồn hậu cần tiếp tế hùng hậu, để đáp ứng yêu cầu của cuộc quyết chiến chiến lược giành
thắng lợi.
Trong bài viết, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định lại cho mọi người thấy rõ quan điểm
lý luận của Lê-nin về tính tất yếu phải xây dựng một quân đội của giai cấp công nhân, cùng
với hậu phương vững chắc, đáp ứng yêu cầu của cuộc kháng chiến giải phóng dân tộc. Qua
đó, Người chủ trương tập trung củng cố, tăng cường sức mạnh cho quân đội; cả nước hợp
sức, dồn lực, xây dựng hậu phương vững chắc, “Tất cả cho tiền tuyến, tất cả để đánh
thắng".
Lời của Chủ tịch Hồ Chí Minh năm ấy đã trở thành định hướng chiến lược về xây dựng
sức mạnh lực lượng cách mạng; được toàn Đảng, toàn dân, toàn quân hưởng ứng tích cực;
khơi dậy lòng yêu nước nồng nàn, tinh thần đại đoàn kết toàn dân, ý chí quyết tâm giành
độc lập dân tộc, huy động sức mạnh tổng hợp tham gia xây dựng quân đội và bảo đảm hậu
phương cho tuyền tuyến, giành thắng lợi chiến dịch Điện Biên Phủ lừng lẫy năm châu, chấn
động địa cầu. Chủ trương đó, tiếp tục được Đảng, Nhà nước ta vận dụng sáng tạo trong lãnh
đạo, chỉ đạo xây dựng, phát triển Quân đội nhân dân Việt Nam, xây dựng miền Bắc thành
hậu phương lớn, cùng quân dân miền Nam thực hiện thắng lợi sự nghiệp giải phóng dân tộc,
thống nhất nước nhà.
Quán triệt sâu sắc quan điển của Lê-nin và tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về xây
dựng quân đội cách mạng, Đảng và Nhà nước ta thường xuyên chăm lo giáo dục, rèn luyện,
nâng cao sức mạnh tổng hợp, trình độ chiến đấu của quân đội, tăng cường bản chất giai cấp
công nhân, tính nhân dân, tính dân tộc của quân đội, làm cho quân đội ta luôn là lực lượng
chính trị, lực lượng chiến đấu trung thành và tin cậy của Đảng, Nhà nước và nhân dân, nền
quốc phòng toàn dân, xây dựng hậu phương vững chắc, tạo tiềm lực và thế trận quốc phòng
toàn dân vững chắc, gắn với thế trận an ninh nhân dân để bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội
chủ nghĩa trong thời kỳ mới.
dân ta trong các cuộc kháng chiến chống kẻ thù xâm lược đã thắp lên ngọn lửa khát vọng
của tuổi trẻ, là những tấm gương cao đẹp, là bài học có giá trị giáo dục bổ ích, thiết thực
nhất đối với thế hệ trẻ cả nước và cán bộ chiến sĩ Quân đội nhân dân Việt Nam hôm nay.
4.
Ngày 04/02: “Đoàn kết đã đưa Đảng ta và nhân dân ta từ thắng lợi này đến
thắng lợi khác. Cho nên chúng ta quý trọng và ra sức bảo vệ sự đoàn kết nhất trí
trong Đảng và trong nhân dân ta cũng như giữa các đảng và giữa các nước anh em
như giữ gìn con ngươi của mình”(4).
Là lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong bài viết "Mừng Đảng ta 33 tuổi”, ngày 04 tháng 02
năm 1963, nhân kỷ niệm 33 năm Ngày thành lập Đảng. Trong bài viết, Chủ tịch Hồ Chí Minh
đã đánh giá chặng đường phát triển đã đi qua và sự ủng hộ của các đảng anh em, đồng thời
khẳng định những công lao, đóng góp của Đảng đối với đất nước suốt hơn 33 năm.
Lời dạy trên thể hiện tầm quan trọng của đoàn kết, đó là nhân tố đã làm nên thắng lợi của
Đảng và nhân dân ta trong cách mạng giải phóng dân tộc cũng như trong sự nghiệp kháng
chiến, kiến quốc. Đặc biệt, trong thời kỳ cách mạng nước ta thực hiện cùng lúc hai nhiệm vụ
chiến lược là xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đấu tranh giải phóng miền Nam
thống nhất Tổ quốc. Sự nghiệp cách mạng đòi hỏi phải phát huy cao độ sức mạnh toàn dân
tộc và tranh thủ sự ủng hộ, giúp đỡ của quốc tế. Do vậy, theo Người, chúng ta cần phải quý
trọng và giữ gìn sự đoàn kết nhất trí từ trong Đảng, trong nhân dân, giữa Đảng, Nhà nước và
nhân dân ta với Đảng, Nhà nước và nhân dân các nước anh em như giữ gìn con ngươi của
mắt mình.
Lời dạy của Người không chỉ khẳng định vai trò của đoàn kết đối với thắng lợi của cách
mạng, mà còn nêu lên sự cần thiết và tầm quan trọng của việc giữ gìn đoàn kết. Đồng thời,
đây cũng là phương châm chỉ đạo cho đường lối đối nội và đối ngoại của Đảng ta, định
hướng cho việc hoạch định chính sách đối ngoại của cách mạng Việt Nam qua các thời kỳ.
Với Quân đội nhân dân Việt Nam, thực hiện lợi dạy trên của Người trước hết phải tăng cường
sự đoàn kết thống nhất trong nội bộ, đặc biệt là trong tổ chức đảng, sau đó là đoàn kết giữa
cấp trên với cấp dưới, giữa cán bộ với chiến sĩ và đoàn kết quân dân. Đồng thời, mỗi cán bộ,
chiến sỹ phải quán triệt sâu sắc đường lối đối ngoại của Đảng, phát huy vai trò của mình
trong việc xây dựng tình đoàn kết quốc tế, thể hiện được truyền thống tốt đẹp của quân đội
ta. Để giữ gìn sự đoàn kết, thống nhất trong quân đội, đòi hỏi mỗi quân nhân phải thực hiện
tốt việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, tuyệt đối trung
thành với Đảng, với Tổ quốc và nhân dân, luôn đặt lợi ích của Đảng, của dân tộc, của quân
đội lên trên lợi ích cá nhân, luôn phấn đấu xứng danh “Bộ đội Cụ Hồ”, gương mẫu trong lời
nói và hành động, chấp hành nghiêm kỷ luật dân vận, sẵn sàng nhận và hoàn thành nhiệm
vụ quốc tế khi được phân công.
5.
Ngày 05/02: “Nông dân lao động là một lực lượng rất to lớn của dân tộc,
một đồng minh rất chắc chắn của giai cấp công nhân. Muốn kháng chiến thắng lợi,
kiến quốc thành công ắt phải dựa vào quần chúng nông dân” (5).
Lời dạy trên được Chủ tịch Hồ Chí Minh viết trong Thư gửi Hội nghị nông vận và dân vận,
ngày 05/02/1953. Đây là thời điểm cuộc kháng chiến chống Pháp của dân tộc ta bước sang
giai đoạn phản công, đòi hỏi phải huy động cao độ sức mạnh của toàn dân tộc, trong đó
nông dân là một lực lượng đông đảo, cần phải phát huy cao độ mọi tiềm năng của họ và làm
cho họ hăng hái tham gia vào sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc.
Chủ tịch Hồ Chí Minh muốn khẳng định vai trò của nông dân là một lực lượng to lớn của dân
tộc, là đồng minh chắc chắn nhất của giai cấp công nhân. Do đó sự nghiệp kháng chiến, kiến
quốc muốn thắng lợi thì phải dựa chắc vào nông dân, chăm lo đến lợi ích, nguyện vọng, đời
sống của nông dân, khơi dậy và phát huy cao độ tinh thần cách mạng, chủ nghĩa yêu nước
và sức người, sức của của nông dân.
Lời dạy trên không chỉ là nền tảng tư tưởng để Đảng ta có các chủ trương, đường lối, chính
sách đúng đắn đối với nông dân, củng cố niềm tin của nông dân vào sự lãnh đạo của Đảng,
mà còn nhấn mạnh về đối tượng, yêu cầu, nhiệm vụ và cách thức tiến hành vận động nông
dân mà các chủ thể công tác vận động quần chúng cần chú ý. Mặt khác, lời dạy của Người
đã động viên, khích lệ nông dân đẩy mạnh tăng gia, sản xuất tích cực đóng góp sức người,
sức của vào sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc của dân tộc.
Thực hiện lời dạy trên của Chủ tịch Hồ Chí Minh, trải qua hơn 70 năm xây dựng, chiến đấu và
trưởng thành, Quân đội nhân dân Việt Nam luôn thực hiện tốt chức năng công tác, làm tốt
công tác dân vận, được nhân dân tin tưởng, giúp đỡ về mọi mặt. Trong giai đoạn hiện nay,
để phát huy vai trò của nhân dân nói chung, nông dân nói riêng cho sự nghiệp xây dựng
quân đội, củng cố quốc phòng, đòi hỏi mỗi quân nhân phải làm tốt vai trò của mình trong
việc đoàn kết, giúp đỡ nhân dân, nhất là nông dân, thực hiện có hiệu quả chương trình
“Quân đội chung tay xây dựng nông thôn mới”. Cùng với việc sẵn sàng chiến đấu để bảo vệ
nhân dân, phải biết tuyên truyền vận động, củng cố tình đoàn kết quân dân, củng cố khối
đại đoàn kết dân tộc. Mặt khác, phần lớn cán bộ, chiến sĩ trong quân đội xuất thân từ nông
dân, do đó cần thực hiện tốt mọi đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước
đối với nông dân, góp phần tạo tâm lý tích cực, sự hăng hái của mỗi quân nhân.
6.
Ngày 06/02: “Cách mạng rất cần trí thức và chính ra chỉ có cách mạng mới
biết trọng trí thức. Nhưng trọng trí thức như thế nào? Không phải tất cả đều là
trọng. Trí thức đáng trọng là trí thức hết lòng phục vụ cách mạng, phục vụ nhân
dân”(6).
Đây là lời nói của Chủ tịch Hồ Chí Minh trình bày trong buổi Khai mạc lớp chỉnh huấn cán bộ
Đảng, Dân, Chính ở cơ quan Trung ương, ngày 06-02-1953; là giai đoạn nước ta đang đẩy
mạnh cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp. Mặt khác, Hồ Chí Minh đã dự cảm về một giai
đoạn mới của cách mạng nước ta sau khi cuộc kháng chiến thắng lợi - giai đoạn kiến thiết và
xây dựng. Do vậy, rất cần phải củng cố sự đoàn kết, thống nhất và phát huy cao độ sức
mạnh của toàn dân tộc trong đó có đội ngũ trí thức. Tuy nhiên, lại có một bộ phận cán bộ,
đảng viên còn chưa nêu cao tính tiền phong, gương mẫu, chưa chấp hành đúng chủ trương,
đường lối của Đảng. Thậm chí, một bộ phận cán bộ, đảng viên có thành kiến, chưa nhìn
nhận, đánh giá đúng về trí thức, làm cho nhiều trí thức trong các cơ quan Nhà nước cho rằng
Đảng không coi trọng trí thức.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định vai trò to lớn của trí thức trong phát triển kinh tế, văn
hóa, khoa học kỹ thuật, chăm sóc sức khỏe nhân dân và mối quan hệ giữ trí thức với cách
mạng. Đồng thời cũng đưa ra tiêu chuẩn về người trí thức chân chính. Lời dạy của Người
không chỉ giúp chúng ta có nhận thức và thái độ đúng về trí thức, mà còn là một cơ sở để
Đảng ta hoạch định đường lối, chủ trương xây dựng đội ngũ trí thức cách mạng. Đồng thời,
đây cũng là phương hướng, mục tiêu phấn đấu của mỗi trí thức và là cơ sở để đấu tranh với
những nhận thức, quan điểm, tư tưởng sai trái về trí thức.
Thực hiện lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh, quân đội cần khẳng định vai trò quan trọng của
trí thức trong sự nghiệp xây dựng quân đội cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện
đại. Trên cơ sở đó, quán triệt, tổ chức thực hiện có hiệu quả các chủ trương, đường lối của
Đảng, của Quân ủy Trung ương về xây dựng, phát triển đội ngũ trí thức trong quân đội. Mặt
khác, không ngừng nâng cao chất lượng giáo dục, đào tạo tại các Học viện, nhà trường trong
toàn quân và có chính sách đúng, cách làm hợp lý để phát huy vai trò của đội ngũ trí thức
trong quân đội. Cùng với việc đào tạo đội ngũ trí thức về chuyên môn, nghiệp vụ, cần thường
xuyên bồi dưỡng đội ngũ trí thức về lập trường tư tưởng chính trị, đạo đức cách mạng, làm
cho đội ngũ trí thức tuyệt đối trung thành với mục tiêu, lý tưởng chính trị của Đảng. Kịp thời
phát hiện và đấu tranh với những trí thức suy thoái về tư tưởng chính trị, “tự diễn biến”, “tự
chuyển hóa”. Mọi cán bộ, đảng viên phải ra sức học tập, nâng cao trình độ, năng lực công
tác, làm chủ vũ khí, trang bị, góp phần phát triển nghệ thuật quân sự Việt Nam trong điều
kiện mới.
10.
Ngày 10/02: “Đảng không phải chỉ cần con số cho nhiều, tuy nhiều là tốt,
nhưng phải có cái chất của người đảng viên. Mỗi người đảng viên, mỗi người cán
bộ từ trên xuống dưới đều phải hiểu rằng: Mình vào Đảng để làm đày tớ cho nhân
dân… Làm đày tớ nhân dân chứ không phải làm “quan” nhân dân” (10).
Là lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong Bài nói với cán bộ tỉnh Hà Tây ngày 10-02-1967 và
đăng trên báo Nhân dân, số 4713, ngày 05-3-1967. Đây là lần Bác đến thăm và nói chuyện
với Hợp tác xã Tảo Dương, xã Hồng Dương, huyện Thanh Oai, tỉnh Hà Tây, nay thuộc thành
phố Hà Nội, nhằm rút kinh nghiệm làm điểm trong xây dựng hợp tác xã, trong đó có vấn đề
về xây dựng tổ chức đảng và đội ngũ cán bộ.
Lời dạy của Người đề cập đến mối quan hệ giữa số lượng với chất lượng trong xây dựng
đảng. Trong đó, Người nhấn mạnh đến cái chất, tức là phẩm chất cách mạng, năng lực công
tác, bản lĩnh chính trị và tính tiền phong, gương mẫu của người đảng viên. Do đó, phát triển
Đảng phải đặt trọng tâm vào chất lượng, coi trọng chất lượng, lấy chất lượng làm chính,
không chạy theo số lượng thuần túy. Mặt khác, Hồ Chí Minh cũng chỉ rõ trách nhiệm của
người cán bộ, đảng viên trong quan hệ với nhân dân.
Lời dạy của Người có ý nghĩa rất quan trọng, là kim chỉ nam trong công tác xây dựng Đảng.
Đồng thời là cơ sở để người đảng viên xác định tốt trách nhiệm, nghĩa vụ của mình đối với
Đảng, với nhân dân. Từ đó, góp phần khắc phục những khuyết điểm đang tồn tại trong một
bộ phận cán bộ, đảng viên. Thực hiện lời dạy của Người, đại bộ phận cán bộ, đảng viên của
Đảng tự giác tu dưỡng, rèn luyện về mọi mặt, luôn tiền phong, gương mẫu, thực sự tiêu biểu
về đạo đức cách mạng, hết lòng hết sức phục vụ nhân dân, phục vụ cách mạng.
Trong suốt thời qua, thực hiện lời dạy của Người, Đảng bộ quân đội luôn quan tâm sâu sắc
đến công tác xây dựng, chỉnh đốn đảng, bảo đảm đội ngũ cán bộ, đảng viên có chất lượng
tốt trên cơ sở số lượng phù hợp đáp ứng yêu cầu xây dựng, chiến đấu, trưởng thành của
quân đội, góp phần giữ vững sự lãnh đạo của Đảng đối với quân đội. Hiện nay, trong xây
dựng quân đội, nhất là trong phát triển đội ngũ đảng viên,
cấp ủy các cấp cần chú trọng cả chất lượng và số lượng, tuy nhiên phải đề cao chất lượng,
không nên chạy theo số lượng, theo chỉ tiêu đơn thuần mà xem nhẹ chất lượng đảng viên.
Đồng thời, qua đây mỗi đảng viên trong quân đội nhận thức rõ trách nhiệm của mình trong
công tác vận động, tin dân, hiểu dân, trọng dân, gần dân, gắn bó mật thiết với quần chúng;
quan tâm chăm lo đời sống vật chất, tinh thần của bộ đội; kiên quyết đấu tranh chống bệnh
quan liêu, thờ ơ vô cảm trước khó khăn của bộ đội và nhân dân; làm gương cho quần chúng,
cho cấp dưới về phẩm chất, năng lực, phương pháp và phong cách công tác, góp phần tích
cực vào kết quả thực hiện nhiệm vụ của đơn vị./.
13.
Ngày 13/02:“Tư tưởng bảo thủ là như những sợi dây cột chân cột tay người
ta, phải vất nó đi. Muốn tiến bộ thì phải có tinh thần mạnh dạn, dám nghĩ dám
làm”(3).
Là lời của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong Thư gửi đồng bào và cán bộ xã Nam Liên (nay là xã
Kim Liên, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An), ngày 13/02/1962 sau khi Người nhận được thư
chúc Tết của đồng bào xã Nam Liên. Đây là thời kỳ đẩy mạnh thực hiện kế hoạch 5 năm lần
thứ nhất (1961 - 1965) trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đấu tranh
giải phóng miền Nam. Miền Bắc xây dựng chủ nghĩa xã hội từ một nền kinh tế nghèo nàn,
lạc hậu. Do vậy, phát triển nông nghiệp trong bước đi ban đầu của thời kỳ quá độ là vấn đề
được Hồ Chí Minh rất quan tâm.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ tác hại của tư tưởng bảo thủ. Người ví nó như một sự trói
buộc, ngăn cản sự tiến bộ của con người. Mặt khác, Người đã cổ vũ tinh thần đổi mới, mạnh
dạn, dám nghĩ, dám làm trong phát triển sản xuất và xây dựng hợp tác xã. Hơn nữa, Chủ
tịch Hồ Chí Minh yêu cầu mọi người, nhất là cán bộ, đảng viên phải nêu gương cho quần
chúng trong việc chủ động, kiên quyết khắc phục tư tưởng bảo thủ, trì trệ, đường mòn lối cũ,
chậm đổi mới.
Lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh mặc dù được viết trong thư gửi một địa phương cụ thể,
nhưng đã toát lên được tư tưởng đổi mới, sáng tạo của Người. Nó có sức cổ vũ cán bộ và
nhân dân xã Nam Liên nói riêng và đồng bào cả nước nói chung tích cực phấn đấu, nêu cao
sáng kiến trong lao động, sản xuất, học tập, công tác cũng như chiến đấu. Lời dạy của Người
đã tạo nên phong trào thi đua phát huy sáng kiến, cải tiến kỹ thuật ở tất cả các cấp, các
ngành, các lĩnh vực, nhất là trong nông nghiệp và công nghiệp, góp phần quan trọng vào
quá trình hiện thực hóa mục tiêu, nhiệm vụ của kế hoạch 5 năm lần thứ nhất.
Thấm nhuần lời dạy của Người, trong quân đội đã dấy lên phong trào phát huy sáng kiến, cải
tiến vũ khí, trang bị kỹ thuật, góp phần quan trọng vào thắng lợi của cuộc kháng chiến
chống Mỹ cứu nước. Ngày nay, sự nghiệp xây dựng quân đội đáp ứng nhiệm vụ bảo vệ Tổ
quốc trong tình hình mới đặt ra yêu cầu ngày càng cao về tinh thần mạnh dạn đổi mới, dám
nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm để có được nhiều sáng kiến mới, cách làm hay trong
huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu và phát huy nhân tố con người trong quân đội. Do vậy, mỗi
quân nhân cần chủ động đổi mới cách nghĩ, cách làm, đề cao tự phê bình và phê bình để
khắc phục những tư tưởng bảo thủ, đường mòn lối cũ, nâng cao chất lượng thực hiện nhiệm
vụ huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu, góp phần bảo đảm cho đơn vị và toàn quân hoàn thành
xuất sắc mọi nhiệm vụ mà Đảng và nhân dân giao phó.
15.
Ngày 15/02: “Nhân dân Việt Nam chúng tôi rất thiết tha với độc lập, tự do
và hòa bình… Nhân dân Việt Nam quyết không khuất phục trước vũ lực và quyết
không nói chuyện trước sự đe dọa của bom đạn”(5).
Đây là quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh được thể hiện trong Thư trả lời Tổng thống Mỹ
Giônxơn, ngày 15/02/1967, đăng trên Báo Nhân Dân, số 4730, ngày 22/3/1967. Trước đó,
trong thư gửi Chủ tịch Hồ Chí Minh (ngày 08/02/1967), Tổng thống Mỹ L.B. Giônxơn đã đưa
ra những điều kiện vô lý cho việc chấm dứt ném bom bắn phá miền Bắc Việt Nam, chấm dứt
việc đưa quân viễn chinh Mỹ vào miền Nam Việt Nam. Đồng thời, ngày 14/02/1967, L.B.
Giônxơn lại ra lệnh ném bom trở lại miền Bắc. Để tiếp tục tỏ rõ thiện chí, nguyện vọng hoà
bình của Việt Nam, ngày 15/02/1967, Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn gửi L.B. Giônxơn bức thư trả
lời này.
Qua đây, Hồ Chí Minh khẳng định khát vọng được sống trong hòa bình, độc lập, tự do. Và vì
những điều đó mà nhân dân Việt Nam không bao giờ chịu khuất phục trước bom đạn, cường
quyền, sẽ quyết tâm đem hết tinh thần và lực lượng, tính mệnh và của cải để giữ vững
quyền tự do, độc lập ấy. Do đó, sẽ không có đàm phán nào được diễn ra nếu Mỹ không tôn
trọng Hiệp định Giơnevơ, rút quân khỏi miền Nam Việt Nam, chấm dứt sự đe dọa bằng bom
đạn vào miền Bắc và khẳng định, không thế lực nào có thể dùng bom đạn cường quyền để
ép nhân dân Việt Nam từ bỏ khát vọng chân chính của mình.
Là lời đáp trả đanh thép đó của Hồ Chí Minh đã tỏ rõ cho nhân dân Mỹ và toàn thế giới thấy
được khát vọng và quyết tâm bảo vệ độc lập, tự do của dân tộc Việt Nam. Mặt khác, đã động
viên toàn thể dân tộc đứng lên kháng chiến chống Mỹ đến thắng lợi cuối cùng với tinh thần
“Không có gì quý hơn độc lập, tự do”.
Quán triệt quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Quân đội nhân dân Việt Nam nói chung, các
lực lượng quân giải phóng miền Nam nói riêng kết hợp chặt chẽ với nhân dân miền Nam đã
đẩy mạnh đấu tranh quân sự trên cả ba vùng chiến lược làm xuất hiện nguy cơ sụp đổ hoàn
toàn không thể cứu vãn nổi của giặc Mỹ và tay sai, góp phần quan trọng vào thắng lợi hoàn
toàn của cuộc chống Mỹ cứu nước, giành độc lập dân tộc, thống nhất Tổ quốc. Ngày nay,
quân đội phải luôn quán triệt sâu sắc lời dạy trên của Chủ tịch Hồ Chí Minh, biến nhận thức
thành hành động cụ thể trong huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu. Quyết tâm hoàn thành tốt
nhiệm vụ bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân, và nền dân chủ xã hội chủ nghĩa mà chúng ta
đang xây dựng, xứng đáng là lực lượng nòng cốt trong sự nghiệp xây dựng nền quốc phòng
toàn dân bảo vệ Tổ quốc.
18.
Ngày 18/02: “Các cô, các chú phải trau dồi cả đức cả tài, không có đức thì
vô dụng, không có tài thì làm gì cũng khó” (8)
Là căn dặn của Chủ tịch Hồ với các sinh viên khi Người đến thăm khu Việt Nam học xá, trong
bối cảnh sau thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, miền Bắc bước
vào giai đoạn xây dựng chủ nghĩa xã hội, kiết thiết nước nhà, là hậu phương vững chắc cho
chiến trường miền Nam chống đế quốc Mỹ xâm lược.
Lời căn dặn trên không chỉ khẳng định giá trị cơ bản của một con người là tài và đức mà còn
đòi hỏi mỗi sinh viên Việt Nam, chủ nhân tương lai của nước nhà phải trau dồi cả đức, cả tài;
phải nhận thức sâu sắc mối quan hệ hữu cơ giữa đức và tài. Đức chính là đạo đức, là tư cách
tác phong, là lòng nhiệt tình, là những khát vọng chân thiện, mỹ… Tài chính là tài năng, là
kiến thức, là hiểu biết, là kỹ năng, kỹ xảo, là kinh nghiệm sống để con người có thể hoàn
thành công việc của mình một cách tốt nhất, đặc biệt là trong những hoàn cảnh khó khăn,
những tình huống phức tạp. Tài và đức là những phạm trù khác nhau nhưng gắn bó chặt chẽ
không thể tách rời. Đức và tài bổ sung, hỗ trợ cho nhau để con người trở thành toàn diện,
đạt hiệu quả cao trong quá trình làm việc và cống hiến. Đức được coi là hàng đầu, là cái gốc
của người cách mạng. Chính vì thế, thiếu đức con người trở thành vô dụng, thiếu tài người ta
làm việc gì cũng khó. Cách nói của Bác rất giản dị và cụ thể, giúp ta nhận thức đúng đắn hơn
về vai trò quan trọng của đức, của tài trong phẩm chất, năng lực của mỗi con người. Lời căn
dặn ấy, chính là động lực mạnh mẽ thôi thúc các sinh viên Việt Nam không ngừng phấn đấu
vươn lên rèn đức, luyện tài, vì ngày mai lập nghiệp, góp sức kiến thiết nước nhà, xây dựng
miền Bắc xã hội chủ nghĩa, đấu tranh giải phóng miền Nam thống nhất Tổ quốc.
Hiện nay, tình hình thế giới, khu vực và trong nước tuy có nhiều thuận lợi, nhưng khó khăn,
thách thức luôn đặt ra với sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội
chủ nghĩa. Lời căn dặn: “Các cô, các chú phải trau dồi cả đức cả tài, không có đức thì vô
dụng, không có tài thì làm gì cũng khó” vẫn còn giữ nguyên giá trị không chỉ với các sinh
viên Việt Nam mà còn có ý nghĩa sâu sắc đối với mỗi quân nhân trong quân đội. Thấm nhuần
sâu sắc lời dạy của Người, mỗi quân nhân trong Quân đội nhân dân Việt Nam luôn phát huy
bản chất “Bộ đội Cụ Hồ” tích cực học tập, rèn luyện cả đức và tài; tin tưởng tuyệt đối vào sự
lãnh đạo của Đảng; chấp hành nghiêm đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, pháp
luật của Nhà nước, kỷ luật quân đội; xây dựng bản lĩnh chính trị vững vàng, kiên định, rèn
luyện phẩm chất đạo đức, lối sống; không ngừng nâng cao trình độ, năng lực, phương pháp
tác phong công tác; nâng cao chất lượng huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu, làm chủ vũ khí
trang bị, hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ được giao, góp phần xây dựng Quân đội nhân
dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt
Nam xã hội chủ nghĩa trong tình hình mới.
19.
Ngày 19/02: “Muốn dạy cho trẻ em thành người tốt thì trước hết các cô, các
chú phải là người tốt”(9)
Là lời căn dặn sâu sắc của Chủ tịch Hồ Chí Minh khi nói chuyện tại Hội nghị cán bộ phụ trách
thiếu nhi toàn miền Bắc, ngày 19/02/1959. Đây là thời kỳ miền Bắc bước vào giai đoạn xây
dựng chủ nghĩa xã hội, kiết thiết đất nước đạt được nhiều thành tựu quan trọng trên tất cả
các lĩnh vực của đời sống xã hội; là hậu phương vững chắc, cung cấp sức người, sức của cho
đấu tranh giải phóng miền Nam thống nhất đất nước.
Lời dạy trên, có ý nghĩa vô cùng to lớn không chỉ thể hiện sự quan tâm đến việc giáo dục, bồi
dưỡng các em thiếu niên nhi đồng, thế hệ trẻ tương lai của đất nước mà còn nhắc nhở đội
ngũ cán bộ đào tạo mẫu giáo phải tự mình tu dưỡng, rèn luyện thực sự là người tốt, là tấm
gương mẫu mực, trong sáng cho trẻ em học tập và noi theo. Đồng thời, thể hiện tư tưởng chỉ
đạo đối với nền giáo dục nước nhà, biến quá trình đào tạo, giáo dục thành tự đào tạo, tự giáo
dục. Người đi giáo dục trước hết phải tự giáo dục; phải là người tốt, người có tâm, có đức,
yêu ngành, yêu nghề, thương yêu con trẻ như chính bản thân mình; dạy cho các em những
điều hay, lẽ phải, những đức tính tốt, truyền thống thương yêu giống nòi của dân tộc Việt
Nam.
Ngày nay, trước những diễn biến phức tạp của đời sống chính trị, xã hội trong nước và quốc
tế, trước những âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch đối với cách mạng
Việt Nam, trước yêu cầu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong tình
hình mới, lời căn dặn “Muốn dạy cho trẻ em thành người tốt thì trước hết các cô, các chú
phải là người tốt” vẫn còn vẹn nguyên giá trị. Tư tưởng đó, đã, đang và sẽ được toàn Đảng,
toàn dân, toàn quân ta phát huy mạnh mẽ, góp phần thực hiện thắng lợi đổi mới căn bản và
toàn diện giáo dục, đào tạo. Quân đội nhân dân Việt Nam là đội quân chiến đấu, đội quân
công tác, đội quân sản xuất, lời dạy của Bác là nguồn cổ vũ, động viên cho cán bộ, chiến sỹ
trong quân đội không ngừng nâng cao chất lượng giáo dục, đào tạo, huấn luyện và sẵn sàng
chiến đấu; ra sức học tập, trau dồi về phẩm chất đạo đức cách mạng, trình độ chuyên môn
nghiệp vụ, năng lực công tác; mỗi cán bộ, đảng viên phải là tấm gương tự giác đẩy mạnh
việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh gắn với thực hiện tốt
Cuộc vận động “Phát huy truyền thống, cống hiến tài năng, xứng danh Bộ đội Cụ Hồ; xây
dựng con người mới trong quân đội vừa “hồng”, vừa “chuyên” đáp ứng ngày càng tốt hơn
yêu cầu nhiệm vụ xây dựng quân đội cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại,
bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
20.
Ngày 20/02: “Cán bộ là cái dây chuyền của bộ máy. Nếu dây chuyền không
tốt, không chạy thì động cơ dù tốt, dù chạy toàn bộ máy cũng tê liệt” (10).
Là lời của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong bài nói chuyện với cán bộ tỉnh Thanh Hóa, ngày
20/02/1947, khi mà cuộc kháng chiến chống Pháp đang bước vào giai đoạn quyết liệt, mặc
dù phải chỉ đạo kháng chiến, nhưng Bác vẫn dành thời gian đi thăm và nói chuyện với cán bộ
tỉnh Thanh Hóa.
Lời căn dặn trên, có ý nghĩa vô cùng quan trọng không chỉ động viên, nhắc nhở đội ngũ cán
bộ nói chung, cán bộ tỉnh Thanh Hóa nói riêng phải là mắt xích quan trọng, là dây chuyền
của bộ máy, giúp cho bộ máy hoạt động có chất lượng, hiệu quả mà còn nhấn mạnh, khẳng
định vị trí, vai trò to lớn của người cán bộ, cán bộ là cái gốc của mọi công việc và cái gốc của
cán bộ chính là đạo đức cách mạng. Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, nhưng quần
chúng không được giáo dục, không được tập hợp thành một khối thống nhất thì cách mạng
cũng sẽ không đi đến thành công. Trách nhiệm của người cán bộ chính là người tuyên
truyền, vận động quần chúng nhân dân và tập hợp tổ chức quần chúng nhân dân thành một
khối thống nhất mới tạo ra sức mạnh tổng hợp và đưa cách mạng đến thành công. Cán bộ
còn là cầu nối Đảng với quần chúng, là dây chuyền của bộ máy, phải thực sự tận tâm, tận
lực với công việc, thực sự là tấm gương trước quần chúng nhân dân, thực sự là công bộc của
dân.
Ngày nay, trong sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa,
lời căn dặn “Cán bộ là cái dây chuyền của bộ máy. Nếu dây chuyền không tốt, không chạy
thì động cơ dù tốt, dù chạy toàn bộ máy cũng tê liệt”vẫn giữ nguyên giá trị, có ý nghĩa lớn
lao, là tư tưởng chỉ đạo trong công tác cán bộ của Đảng ta; đồng thời, là yêu cầu đòi hỏi đội
ngũ cán bộ nói chung, cán bộ trong quân đội nói riêng phải không ngừng học tập, tu dưỡng
về phẩm chất, năng lực, thực sự là hạt nhân đoàn kết, gương mẫu, tiêu biểu về mọi mặt, tận
tâm, tận lực với công việc, là tấm gương sáng trong từng đơn vị để cán bộ, chiến sỹ học tập,
noi theo, hoàn thành thắng lợi mọi nhiệm vụ được giao./.
25.
Ngày 25/02: “Quân đội ta là quân đội nhân dân. Chiến tranh của ta là chiến
tranh nhân dân. Quân đội phải gắn chặt với dân”(5).
Là lời của Chủ tịch Hồ Chí Minh căn dặn quân đội được thể hiện trong phiên bế mạc Hội nghị
Bộ Chính trị, ngày 25 tháng 02 năm 1960. Sau khi Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ III (1960)
đã thành công tốt đẹp; công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội của nhân dân ta ở miền Bắc đã
đạt được những thành tựu quan trọng, góp phần bảo đảm cho đấu tranh chống đế quốc Mỹ,
giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, trong đó có sự đóng góp đáng kể của quân đội
ta.
Lời căn dặn “Quân đội ta là quân đội nhân dân. Chiến tranh của ta là chiến tranh nhân dân.
Quân đội phải gắn chặt với dân” không chỉ khẳng định bản chất giai cấp, tính dân tộc, tính
nhân dân của quân đội ta mà còn thể hiện sâu sắc mối quan hệ gắn bó keo sơn giữa quân
đội với nhân dân. Đồng thời, khẳng định tính chất chiến tranh của ta là chiến tranh nhân
dân, chiến tranh chính nghĩa, bảo vệ Tổ quốc. Quân đội nhân dân Việt Nam do Đảng cộng
sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh trực tiếp tổ chức, lãnh đạo, giáo dục và rèn luyện, là
quân đội của dân, do dân, vì dân, sẵn sàng chiến đấu, hy sinh bảo vệ độc lập chủ quyền, chế
độ xã hội, bảo vệ Đảng, Nhà nước, bảo vệ thành quả cách mạng, bảo vệ tính mạng, tài sản
và quyền làm chủ của nhân dân. Thấm nhuần sâu sắc lời dạy của Bác, trải qua 73 năm xây
dựng, chiến đấu và trưởng thành, Quân đội nhân dân Việt Nam đã không ngừng lớn mạnh,
cùng toàn Đảng, toàn dân lập nên những chiến công vang dội, đánh thắng hai đế quốc đầu
sỏ xâm lược là thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc. Chính là
hiện thực hóa tư tưởng chỉ đạo “chiến tranh của ta là chiến tranh nhân dân” của Chủ tịch Hồ
Chí Minh.
Ngày nay, nước ta đang đứng trước những thời cơ và thách thức, những tác động tiêu cực
của mặt trái nền kinh tế thị trường; sự chống phá của các thế lực thù địch bằng chiến lược
“diễn biến hoà bình” với những thủ đoạn hết sức thâm độc nhằm chia rẽ quân đội với nhân
dân, song lời căn dặn “Quân đội ta là quân đội nhân dân. Chiến tranh của ta là chiến tranh
nhân dân. Quân đội phải gắn chặt với dân” vẫn còn nguyên giá trị. Nhận thức sâu sắc ý
nghĩa, giá trị lời dạy của Bác, mỗi cán bộ, chiến sỹ trong Quân đội nhân dân Việt Nam phải
luôn nêu cao tinh thần đoàn kết quân dân, kính trọng nhân dân, giúp đỡ nhân dân, phục vụ
nhân dân… là những việc làm thiết thực để củng cố, tăng cường mối quan hệ quân dân,
nhân tố quan trọng đảm bảo cho thắng lợi của sự nghiệp xây dựng quân đội nhân dân cách
mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội
chủ nghĩa trong giai đoạn mới.
29. Ngày 28/02: “Thẳng thắn tự phê bình và thật thà phê bình tức là đoàn kết mà
đấu tranh và do đấu tranh đó đã đi đến đoàn kết hơn trước”(9).
Là lời của Chủ tịch Hồ Chí Minh được trích ở bài Nói chuyện trong buổi bế mạc Đại hội Văn
nghệ toàn quốc lần thứ II, ngày 28 tháng 02 năm 1957. Đầu năm 1957, miền Bắc hòa bình,
xây dựng chủ nghĩa xã hội được hơn 2 năm, công tác văn nghệ cũng đã có bước phát triển
mới và thành tựu mới, đến dự với Đại hội Văn nghệ toàn quốc lần thứ 2 Bác đã phát
biểu: “Thẳng thắn tự phê bình và thật thà phê bình tức là đoàn kết mà đấu tranh và do đấu
tranh đó đã đi đến đoàn kết hơn trước”.
Lời dạy trên của Chủ tịch Hồ Chí Minh có ý nghĩa vô cùng to lớn không chỉ khẳng định tầm
quan trọng của tự phê bình, phê bình, của đấu tranh đối với đoàn kết, thống nhất trong mỗi
tổ chức mà còn nhắc nhở mỗi tổ chức, mỗi người nói chung, đội ngũ cán bộ, nghệ sĩ nói riêng
phải luôn đề cao ý thức phê bình, ý thức đấu tranh để xây dựng, củng cố khối đoàn kết,
thống nhất trong mỗi cơ quan, đơn vị, ngành mình. Đồng thời, phải nhận thức sâu sắc đấu
tranh, phê bình và tự phê bình chính là quy luật, động lực của sự phát triển. Đấu tranh, phê
bình phải thật thà, trung thực, không lợi dụng phê bình để trù dập lẫn nhau. Đấu tranh, phê
bình để đi đến thống nhất, đoàn kết hơn, cùng nhau phát triển, hoàn thành tốt nhiệm vụ
được giao.
Ngày nay, trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa để vững bước đi lên xây dựng chủ
nghĩa xã hội, lời dạy “Thẳng thắn tự phê bình và thật thà phê bình tức là đoàn kết mà đấu
tranh và do đấu tranh đó đã đi đến đoàn kết hơn trước”vẫn giữ nguyên giá trị, không những
là tư tưởng chỉ đạo mà còn là yêu cầu đòi hỏi các tổ chức đảng, đoàn thể cách mạng phải giữ
gìn sự đoàn kết thống nhất như giữ gìn con ngươi của mắt mình, phải tích cực đấu tranh, tự
phê bình và phê bình, tự phê bình và phê bình phải có tình thân ái, phải đúng người, đúng
việc, phải thật thà trung thực để đi đến đoàn kết và phát triển ngày càng tốt hơn.
Trong quân đội, mỗi cán bộ, chiến sỹ cần quán triệt và thực hiện nghiêm lời dạy của Bác; đẩy
mạnh việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh và Cuộc vận
động “Phát huy truyền thống, cống hiến tài năng, xứng danh Bộ đội Cụ Hồ”; chấp hành
nghiêm nguyên tắc tự phê bình và phê bình để đi đến đoàn kết, thống nhất trong từng đơn vị
chính là hiện thực hóa lời dạy của Bác; tránh lợi dụng đấu tranh, phê bình và tự phê bình để
chia rẽ đoàn kết nội bộ, trù dập lẫn nhau, làm ảnh hưởng đến uy tín, nhân phẩm của đồng
chí, đồng đội.
2.
Ngày 02/3:“Cán bộ lãnh đạo phải thật sự cần, kiệm, liêm, chính, chí
công vô tư”(2).
Ngày 02 tháng 3 năm 1962, Bác Hồ và đồng chí Dương Quốc Chính thay mặt Trung ương
Đảng và Chính phủ về thăm đồng bào, bộ đội và cán bộ tỉnh Vĩnh Phúc. Tại buổi gặp
mặt Bác khen ngợi xã viên các hợp tác xã, đồng bào miền núi, công nhân, bộ đội, cán
bộ, các cụ phụ lão, các cháu học sinh đã ra sức sản xuất và chống hạn. Nói chuyện với
cán bộ lãnh đạo tỉnh Bác căn dặn, muốn làm tốt mọi công việc thì từ Tỉnh ủy đến chi bộ
phải lãnh đạo tốt: Thực hiện đầy đủ các nghị quyết, chỉ thị của Đảng, biến quyết tâm và
sức mạnh của Đảng thành quyết tâm và sức mạnh của nhân dân; phải đi đúng đường lối
của Đảng về công tác quần chúng; đi sâu vào cơ sở, đi sát hợp tác xã, tổ chức tuyên
truyền, giáo dục cho mọi người thấm nhuần ý thức trách nhiệm, tinh thần làm chủ tập
thể, cần kiệm xây dựng hợp tác xã, xây dựng nước nhà; cán bộ lãnh đạo phải thật sự
cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư:
Cần tức là lao động cần cù, siêng năng; lao động có kế hoạch, sáng tạo, có năng suất
cao; lao động với tinh thần tự lực cánh sinh, không lười biếng, không ỷ lại, không dựa
dẫm.
Kiệm tức là tiết kiệm sức lao động, tiết kiệm thì giờ, tiền của, tài sản công của dân, của
nước, của bản thân mình; phải tiết kiệm từ cái to đến cái nhỏ, nhiều cái nhỏ cộng lại
thành cái to; "không xa xỉ, không hoang phí, không bừa bãi", không phô trương hình
thức, không liên hoan, chè chén lu bù.
Liêm tức là "luôn luôn tôn trọng giữ gìn của công và của dân", "không xâm phạm một
đồng xu, hạt thóc của Nhà nước, của nhân dân". Phải "trong sạch, không tham lam".
"Không tham địa vị, không tham tiền tài, không tham sung sướng, không ham người
tâng bốc mình”.
Chính "nghĩa là không tà, thẳng thắn, đứng đắn". Không tự cao, tự đại, luôn chịu khó học
tập cầu tiến bộ, luôn tự kiểm điểm phê bình để phát triển điều hay, sửa đổi điều dở của
bản thân mình. Không nịnh hót người trên, không xem khinh người dưới, luôn giữ thái độ
chân thành, khiêm tốn, đoàn kết thật thà, không dối trá, lừa lọc, để việc công lên trên,
lên trước việc tư, việc nhà.
Chí công vô tư, khi làm bất cứ việc gì cũng đừng nghĩ đến mình trước, khi hưởng thụ thì
mình nên đi sau, phải "lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ".
Tư tưởng của Người về cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư là sự kế thừa những giá trị
đạo đức truyền thống của dân tộc, đạo lý làm người của cha ông, là sự vận dụng sáng
tạo tư tưởng đạo đức của Chủ nghĩa Mác - Lênin vào thực tiễn cách mạng ở nước ta.
Người coi đó không phải chỉ là phẩm chất của cá nhân mà còn của cả tập thể, của cả
dân tộc. Người yêu cầu mọi cán bộ đều phải rèn luyện, tu dưỡng theo các phẩm chất
trên, đặc biệt là đội ngũ cán bộ, đảng viên có chức, có quyền. Trong công cuộc đổi mới
nước ta hiện nay việc tìm hiểu, học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ
Chí Minh nói chung và xây dựng đạo đức cách mạng cho người cán bộ Đảng, Nhà nước
nói riêng, đức tính "cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư" càng trở nên quan trọng và
cần thiết hơn bao giờ hết, trong bối cảnh một bộ phận của xã hội, có cả cán bộ, đảng
viên còn biểu hiện suy thoái đạo đức cách mạng, tham những, thoái hóa biến chất...
11.
Ngày 11/3: “Là chủ của tương lai, tha nh niên không thể không có lý tưởng
cao cả. Vì vậy thanh niên phải có cuộc sống chính trị tích cực và cách mạng” (1).
Câu trích trên là một phần nội dung trả lời phỏng vấn của Chủ tịch Hồ Chí Minh dành cho
Máccôm Samông (Malcolm Salmon) phóng viên Đông Nam Á của báo Australia Tribune và
báo Guardian. Khi được hỏi: “Những hoạt động của các chính khách ở nhiều nước thường
không cổ vũ gì lớp thanh niên muốn có một cuộc đời hoạt động chính trị. Xin Chủ tịch đặc
biệt cho những độc giả thanh niên của chúng tôi biết ý nghĩa và giá trị của một cuộc đời
hoạt động chính trị, cách mạng”, Người trả lời: “Tương lai thuộc về thanh niên. Tương lai là
cách mạng luôn luôn tiến lên. Là chủ của tương lai, thanh niên không thể không có lý tưởng
cao cả. Vì vậy thanh niên phải có cuộc sống chính trị tích cực và cách mạng”.
Qua câu hỏi và nội dung trả lời của Bác, chúng ta thấy Người nhìn nhận, đánh giá rất cao vai
trò, tiềm năng của thanh niên nói chung, thanh niên Việt Nam nói riêng, nhất là trong bối
cảnh đất nước đang có chiến tranh, bị chia cắt hai miền Nam - Bắc. Trong hoàn cảnh ấy,
tương lai của đất nước Việt Nam là phải thống nhất hòa bình và lý tưởng cao cả của thanh
niên là phải thấu hiểu nỗi đau non sông chia cắt, phải có hành động cách mạng thiết thực
đóng góp cho sự nghiệp xây dựng miền Bắc, giải phóng miền Nam.
Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, lớp lớp thanh niên trên cả hai miền Nam - Bắc
đi vào cuộc đấu tranh cách mạng dưới ngọn cờ lý tưởng của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh
với khí thế thấm đẫm tinh thần của sức trẻ “Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước,/ Mà lòng phơi
phới dậy tương lai”, thể hiện quyết tâm cao độ giải phóng miền Nam, bảo vệ miền Bắc,
thống nhất nước nhà. Một bộ phận đông đảo thanh niên trở thành “Bộ đội Cụ Hồ”, trực tiếp
chiến đấu với quân thù, lập những chiến công oanh liệt, “đánh cho Mỹ cút, đánh cho Ngụy
nhào”, góp phần cùng toàn Đảng, toàn dân hoàn thành sự nghiệp vẻ vang chống Mỹ, cứu
nước. Sau này, trong Di chúc Bác căn dặn: Đoàn viên và thanh niên ta nói chung là tốt, mọi
việc đều hăng hái xung phong, không ngại khó khăn, có chí tiến thủ. Đảng cần phải chăm lo
giáo dục đạo đức cách mạng cho họ, đào tạo họ thành những người thừa kế xây dựng chủ
nghĩa xã hội "vừa hồng", "vừa chuyên".
Hiện nay, câu nói của Hồ Chí Minh trên đây vẫn nguyên giá trị. Tuổi trẻ - thanh niên quân đội
cần phải tiếp tục gương mẫu học tập, “rèn đức, luyện tài”, nâng cao nhận thức chính trị, tư
tưởng, đạo đức cách mạng, kiên định mục tiêu, lý tưởng chiến đấu vì độc lập dân tộc và chủ
nghĩa xã hội, tuyệt đối trung thành với Đảng, với nhân dân, với Tổ quốc; luôn có tinh thần
cảnh giác cách mạng cao, làm chủ bản thân, làm chủ khoa học kỹ thuật, vũ khí trang bị,
quyết tâm bảo vệ vững chắc Tổ quốc, góp phần đưa sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước đi đến thắng lợi.
13.
Ngày 13/3: “Chủ nghĩa xã hội là làm cho mọi người dân được ấm no, hạnh
phúc và học hành tiến bộ”(3).
Câu nói trên của Chủ tịch Hồ Chí Minh được trích trong bài nói chuyện với đồng bào và cán
bộ tỉnh Thái Nguyên vào ngày 13 tháng 3 năm 1960, trong thời điểm miền Bắc đang tiến
hành khôi phục, cải tạo và bước đầu phát triển nền kinh tế, văn hóa xã hội chủ nghĩa, quân
và dân miền Nam đang đẩy mạnh đấu tranh chính trị, tiến tới phát động cao trào cách mạng
mới. Quan điểm trên đây của Người cùng với đường lối, chủ trương đề ra tại Đại hội đại biểu
toàn quốc lần thứ III của Đảng (9-1960) đã trở thành định hướng, phương châm, mục tiêu
hành động của các tầng lớp nhân dân trong công cuộc xây dựng miền Bắc theo con đường
cách mạng xã hội chủ nghĩa, củng cố, tăng cường sức mạnh của hậu phương lớn làm tròn
nghĩa vụ đối với tiền tuyến lớn miền Nam. Dưới ánh sáng của Đại hội III, quân và dân ta thực
hiện đồng thời hai chiến lược cách mạng: Cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc và cách
mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam, hướng tới mục tiêu giải phóng miền Nam, bảo
vệ miền Bắc, thống nhất đất nước. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, mục tiêu cao nhất của chủ
nghĩa xã hội là nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân; sự nghiệp đấu tranh
cách mạng để giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp và xây dựng chế độ xã hội mới, giàu
mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh xét đến cùng là vì hạnh phúc, vì sự phát triển toàn
diện của con người. Ngược lại, con người là lực lượng chính của sự nghiệp đấu tranh cách
mạng, là lực lượng sản xuất quan trọng nhất và là chủ thể sáng tạo nên những giá trị vật
chất và tinh thần của xã hội. Và 15 năm sau, quân và dân ta đã hoàn thành sự nghiệp kháng
chiến chống Mỹ, cứu nước (4-1975), mở ra kỷ nguyên mới của dân tộc - kỷ nguyên độc lập,
hòa bình, thống nhất cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội.
Trong bối cảnh quốc tế và khu vực hiện nay có nhiều chuyển biến mau chóng, phức
tạp, ý nghĩa của câu nói “Chủ nghĩa xã hội là làm cho mọi người dân được ấm no, hạnh phúc
và học hành tiến bộ” vẫn là mục tiêu lý tưởng của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta hướng tới.
Quân đội nhân dân Việt Nam là đội quân kiểu mới của giai cấp công nhân Việt Nam do Đảng
Cộng sản Việt Nam tổ chức, lãnh đạo luôn quán triệt tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh,
phấn đấu thực hiện mục tiêu, lý tưởng chiến đấu vì dân, sẵn sàng chiến đấu, hy sinh vì chủ
nghĩa xã hội, vì ấm no, hạnh phúc của nhân dân; phát huy tinh thần độc lập tự chủ, ý thức tự
lực, tự cường, cần kiệm xây dựng đất nước, xây dựng quân đội; đồng thời đẩy mạnh công tác
dân vận, chăm lo xây dựng cơ sở địa phương vững mạnh toàn diện, tham gia lao động sản
xuất, phát triển kinh tế xã hội, không ngừng nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân
dân, nhất là ở vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo.
21.
Ngày 21/3: “Cán bộ phải tuyệt đối tránh bệnh quan liêu, mệnh lệnh, phải
hết sức chống bệnh hình thức, chống lãng phí, tham ô”(1).
Lời nói trên, Bác Hồ nói trong buổi gặp gỡ đồng bào các dân tộc tỉnh Tuyên Quang, ngày
21/3/1961, trong hoàn cảnh miền Bắc nước ta đang bắt tay vào việc thực hiện kế hoạch 5
năm lần thứ nhất, vừa xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội, tiếp tục cải tạo
chủ nghĩa xã hội và củng cố quan hệ sản xuất, nâng cao đời sống nhân dân về mọi mặt;
đồng thời, tăng cường củng cố quốc phòng, an ninh giữ gìn trật tự an ninh bảo vệ sự nghiệp
xây dựng chủ nghĩa xã hội, góp phần thiết thực vào thực hiện sự nghiệp đấu tranh thống
nhất nước nhà. Bác mong muốn và nhắc nhở cán bộ dù ở cấp nào, ngành nào đều phải là
người đầy tớ trung thành của nhân dân, tất cả cán bộ phải một lòng, một dạ phục vụ nhân
dân; phải hết sức quan tâm đến đời sống nhân dân; thực hiện theo đúng chính sách của
Đảng; đồng thời, tuyệt đối tránh bệnh quan liêu, mệnh lệnh, phải hết sức chống bệnh hình
thức, chống lãng phí, tham ô. Do đó mà lãnh đạo phải dân chủ, thiết thực, cụ thể và toàn
diện. Phải tránh cách lãnh đạo đại khái, phiến diện chung chung. Trong mọi công việc, đảng
viên và đoàn viên, thanh niên phải làm gương mẫu, để lôi cuốn nhân dân cùng tiến bộ.
Hiện nay, tình hình thế giới và trong nước có nhiều diễn biến hết sức phức tạp, khó lường,
các thế lực thù địch đang ra sức lôi kéo, thực hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong đội
ngũ cán bộ, đảng viên; những tác động của mặt trái kinh tế thị trường đã làm thay đổi nấc
thang giá trị đạo đức cách mạng. Song giá trị lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh về “Cán bộ
phải tuyệt đối tránh bệnh quan liêu, mệnh lệnh, phải hết sức chống bệnh hình thức, chống
lãng phí, tham ô”, được Đảng ta quán triệt, thực hiện nghiêm túc và phát huy mạnh mẽ
trong công tác xây dựng và phát triển đội ngũ cán bộ ở tất cả các cấp, các ngành và cả
trong sự nghiệp phát triển công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Vì vậy, xây dựng và phát
triển đội ngũ cán bộ phải luôn coi trọng việc khắc phục những biểu hiện suy thoái về tư
tưởng chính trị, đạo đức lối sống, chú trọng đào tạo, bồi dưỡng phẩm chất đạo đức trong
sáng, kiến thức chuyên môn, trách nhiệm với công việc là vấn đề quan trọng và cấp thiết
hơn bao giờ hết.
Là một bộ phận cán bộ trọng yếu của Đảng trong quân đội, đội ngũ cán quân đội luôn thấm
nhuần lời dạy của Bác, dù trong điều kiện hoàn cảnh nào đội ngũ cán bộ trong quân đội đều
nhận thức rõ điều đó, luôn giữ vững lập trường quan điểm, phẩm chất đạo đức cách mạng,
kiên định mục tiêu lý tưởng chiến đấu, tích cực tự giác nâng cao ý thức trách nhiệm, hết
lòng, hết sức phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân, sẵn sàng nhận và hoàn thành xuất sắc
mọi nhiệm vụ được giao, là chỗ dựa tin cậy, vững chắc của Đảng, Nhà nước và nhân dân.
Việc làm đó, có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong công cuộc xây dựng và phát triển đất nước
giai đoạn hiện nay.
22.
Ngày 22/3: “Quốc hội ta do toàn dân tự do bầu cử, là đại biểu chân chính
của nhân dân cả nước từ Bắc đến Nam”(2).
Đây là lời của Chủ tịch Hồ Chí Minh, được Bác nói vào ngày 22/3/1955, khi Ngô Đình Diệm
được sự hậu thuẫn của Mỹ đang ra sức phá hoại việc thi hành Hiệp định Giơ-ne-vơ và lập nên
“Quốc hội lâm thời”, gồm 247 người chủ yếu không thông qua bầu cử ở miền Nam Việt Nam.
Từ đó, Bác đã làm rõ về Quốc hội ta, được thành lập trong những năm chiến tranh chống
xâm lược, do toàn dân tự do bầu cử, là đại biểu chân chính của nhân dân cả nước từ Bắc đến
Nam. Quốc hội ta đã sát cánh cùng với Chính phủ và nhân dân chịu đựng gian khổ, vượt mọi
khó khăn, dũng cảm hy sinh, đưa kháng chiến đến hoàn toàn thắng lợi. Nay trong hoàn cảnh
hòa bình, trước tình hình mới và nhiệm vụ mới, Quốc hội ta lại cùng nhân dân và Chính phủ
khắc phục những khó khăn, phát triển những thuận lợi mới, để củng cố hòa bình, thực hiện
thống nhất, hoàn thành độc lập và dân chủ trong cả nước.
Là đại biểu chân chính của nhân dân, Quốc hội thực hiện quyết định các vấn đề quan trọng
của đất nước và giám sát tối cao đối với hoạt động của Nhà nước, là cơ quan quyền lực nhà
nước cao nhất thực hiện quyền lực của nhân dân. Chỉ có Quốc hội mới có quyền thể chế ý
chí, nguyện vọng của nhân dân thành luật, thành các quy định chung mang tính bắt buộc
phải tuân thủ đối với mọi tầng lớp dân cư trong xã hội. Hiến pháp giao cho Quốc hội thực
hiện quyền lập hiến, lập pháp, quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước và giám
sát tối cao đối với hoạt động của Nhà nước.
Học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, trong những dịp toàn Đảng,
toàn dân và toàn quân đều hăng hái tích cực tham gia bầu cử, chọn lựa những người xứng
đáng vào cơ quan quyền lực Nhà nước và ngày bầu cử đại biểu Quốc hội, Hội đồng nhân dân
thật sự là ngày hội của toàn dân.
Là lực lượng chính trị, lực lượng chiến đấu trung thành của Đảng, Tổ quốc và nhân dân, Quân
đội nhân dân Việt Nam luôn ý thức rất rõ ý nghĩa tầm quan trọng về xây dựng Quốc hội và
thực hiện Cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội. Theo đó, Quân đội luôn chủ động quán triệt, thực
hiện nghiêm túc Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội và Hội đồng nhân dân, làm tốt công tác
tuyên truyền giáo dục nâng cao nhận thức cho cán bộ, chiến sĩ và nhân dân về mục đích, ý
nghĩa của cuộc Bầu cử đại biểu Quốc hội, phối hợp chặt chẽ với địa phương để tổ chức tốt
bầu cử, duy trì nghiêm chế độ trực sẵn sàng chiến đấu, tăng cường các biện pháp bảo vệ an
toàn cho bầu cử, chủ động làm thất bại âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch, cơ hội
chính trị phá hoại cuộc bầu cử, góp phần thành công của bầu cử Quốc hội và Hội đồng nhân
dân các cấp, đẩy mạnh sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong giai đoạn mới
của cách mạng.
29.
Ngày 29/3: “Muốn thi đua có kết quả tốt, thì đầu óc cần phải suy nghĩ tìm
tòi, cũng như tay chân phải cần cù nhanh nhẹn”(10).
Lời nói trên được Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu trong bài Một công nhân gương mẫu đăng trên
Báo Nhân Dân, số 392, ngày 29/3/1955, khi mà cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp của
chúng ta vừa kết thúc thắng lợi, nhưng cũng còn nhiều khó khăn, cùng một lúc phải thực
hiện hai nhiệm vụ cách mạng (cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc và cách mạng dân
tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam). Vì vậy, để hoàn thành được hai nhiệm vụ khó khăn trên,
cần phải có sự nỗ lực cố gắng của toàn thể nhân dân cho sự nghiệp cách mạng, muốn vậy
thì phải thi đua, Người khẳng định: “Thi đua là yêu nước, yêu nước thì phải thi đua và những
người thi đua là những người yêu nước nhất”. Bên cạnh đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng chỉ ra
rằng: Muốn thi đua đạt kết quả tốt thì đầu óc phải suy nghĩ, tìm tòi và phải có sáng kiến thì
mới thu được kết quả tốt, cũng như chân tay phải cần cù nhanh nhẹn, có như vậy kháng
chiến mới thắng lợi, kiến quốc mới thành công.
Trong giai đoạn hiện nay, sự nghiệp cách mạng nước ta tuy đã đạt được một số thành tựu
đáng kể sau 30 năm đổi mới, nhưng vần còn nhiều khó khăn, thách thức. Song lời dạy của
Người “Muốn thi đua có kết quả tốt, thì đầu óc cần phải suy nghĩ tìm tòi, cũng như tay chân
phải cần cù nhanh nhẹn” vẫn còn nguyên giá trị và tiếp tục được Đảng, Nhà nước, các ban,
ngành, các tổ chức chính trị xã hội, thiết thực phát động thành những phong trào thi đua sâu
rộng trong toàn thể nhân dân… Để thực hiện tốt nhiệm vụ của cách mạng trong giai đoạn
mới, đòi hỏi nội dung, hình thức, phương pháp thi đua phải sát với yêu cầu thực tiễn cụ thể
của các cấp, các ngành và toàn thể nhân dân, từ phong trào nhỏ, quy mô nhỏ, tiến tới phong
trào lớn và quy mô lớn cấp quốc gia.
Quân đội nhân dân Việt Nam thấm nhuần lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh “Muốn thi đua có
kết quả tốt, thì đầu óc cần phải suy nghĩ tìm tòi, cũng như tay chân phải cần cù nhanh
nhẹn”. Hiện nay, nhiệm vụ xây dựng Quân đội, bảo vệ Tổ quốc có sự phát triển, yêu cầu cao
trong điều kiện đan xen phức tạp cả thời cơ, thuận lợi, khó khăn và thách thức. Điều đó đặt
ra cho công tác thi đua phải tiếp tục đổi mới, tập trung nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt
động. Từ đó, làm cho phong trào thi đua thực sự là động lực thúc đẩy toàn quân hoàn thành
thắng lợi mọi nhiệm vụ được giao.
Ngày 01/5/1952
“Thi đua là yêu nước, yêu nước thì phải thi đua. Và những người thi đua là những người yêu
nước nhất”[1].
Là lời huấn thị của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong bài phát biểu khai mạc Đại hội các chiến sĩ thi đua và
cán bộ gương mẫu toàn quốc năm 1952.
Sau 4 năm phát động, từ năm 1948 đến năm 1952, phong trào thi đua ái quốc đã thu được nhiều kết
quả tốt đẹp. Để tiếp tục cổ vũ, tuyên dương và mở rộng phong trào thi đua, từ ngày 30 tháng 4 đến
ngày 06 tháng 5 năm 1952, tại Việt Bắc, Đại hội toàn quốc các chiến sĩ thi đua và cán bộ gương mẫu
đã được tổ chức. Đại hội vinh dự được đón Chủ tịch Hồ Chí Minh, người khởi xướng phong trào thi
đua ái quốc đến dự và phát biểu; Bác đặc biệt nhấn mạnh: “Thi đua là yêu nước, yêu nước thì phải
thi đua. Và những người thi đua là những người yêu nước nhất”.
Hưởng ứng lời kêu gọi của Bác, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta đã đoàn kết một lòng, đem hết
sức mình tham gia kháng chiến và kiến quốc thành công. Từ đó phong trào thi đua đã phát triển
ngày càng mạnh mẽ, sâu rộng qua các thời kỳ, trong các tầng lớp nhân dân và các lực lượng vũ trang,
với nhiều nội dung phong phú và hình thức sinh động, góp phần quan trọng vào việc động viên sức
mạnh to lớn của khối đại đoàn kết toàn dân, hoàn thành sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất
Tổ quốc và giành được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử trong công cuộc đổi mới, xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc.
Thực hiện lời Bác dạy, phong trào thi đua yêu nước đã được cụ thể hoá thành phong trào thi đua
Quyết thắng trong quân đội cổ vũ, động viên, khích lệ cán bộ, chiến sĩ toàn quân hưởng ứng góp
phần thực hiện tốt các khâu đột phá, khắc phục khâu yếu, mặt yếu, khơi dậy ý thức tự lực tự cường,
vượt qua khó khăn, thách thức, phát huy truyền thống “quyết chiến, quyết thắng” và phẩm chất cao
đẹp “Bộ đội Cụ Hồ” hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ được giao, bảo vệ vững chắc chủ quyền biên
giới, biển, đảo của Tổ quốc. Toàn quân xuất hiện ngày càng nhiều tập thể, cá nhân điển hình tiên
tiến, gương “người tốt, việc tốt” trên các lĩnh vực công tác, trực tiếp góp phần xây dựng quân đội
vững mạnh về chính trị, tổ chức đảng trong sạch vững mạnh; cơ quan, đơn vị vững mạnh toàn diện,
các tổ chức quần chúng vững mạnh xuất sắc; không ngừng nâng cao chất lượng tổng hợp và sức
mạnh chiến đấu, hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ được giao, xứng đáng với niềm tin yêu của
Đảng, Nhà nước và Nhân dân.
Ngày 06/5/1950
“Học ở trường, học ở sách vở, học lẫn nhau và học nhân dân, không học nhân dân là một
thiếu sót rất lớn”[6]
Đó là lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh tại Hội nghị toàn quốc lần thứ nhất về công tác huấn luyện và
học tập năm 1950.
Trong điều kiện vừa kháng chiến vừa kiến quốc, xây dựng chế độ xã hội mới, Chủ tịch Hồ Chí Minh
rất quan tâm đến công tác huấn luyện và học tập. Từ việc xác định mục đích của việc học tập, Người
đề ra yêu cầu, địa chỉ rõ ràng để mỗi người, nhất là cán bộ, đảng viên phấn đấu học tập, rèn luyện
thường xuyên, hướng tới mục tiêu phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân. Lời dạy của Người có ý
nghĩa thực tiễn sâu sắc, xác định rõ tầm quan trọng của việc học tập, nhất là học ở nhân dân, đó là
môi trường học tập rộng lớn nhất, toàn diện nhất và hiệu quả nhất. Nhân dân không chỉ là đối tượng
lãnh đạo, mà còn là người thầy lớn, giúp cho mỗi cán bộ, đảng viên tiếp cận những kiến thức bổ ích,
thiết thực trên mọi phương diện công tác và trong cuộc sống, vì “dân chúng biết giải quyết nhiều vấn
đề một cách giản đơn, mau chóng, đầy đủ, mà những người tài giỏi, những đoàn thể to lớn, nghĩ mãi
không ra”.
Trong thời đại công nghệ thông tin phát triển mạnh mẽ như hiện nay, khi mọi tri thức đều có thể
được số hóa, được cập nhật qua các phương tiện truyền thông hiện đại một cách nhanh chóng,
phong phú, đa dạng, thì lời Bác dạy vẫn còn nguyên giá trị đối với việc học tập, nhất là học ở nhân
dân. Trong xây dựng, hoạch định đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước, những ý kiến và trí
tuệ của nhân dân luôn được Đảng, Nhà nước ta coi trọng, gợi mở ra nhiều điều mới mẻ, sáng tạo
trong việc giải quyết các vấn đề quan trọng của đất nước, trên tinh thần “dân biết, dân bàn, dân làm,
dân kiểm tra, dân ủng hộ, dân giúp đỡ”.
Quân đội nhân dân Việt Nam, một đội quân “từ nhân dân mà ra, vì nhân dân mà chiến đấu”, càng
thấm nhuần hơn nữa lời dạy của Người trong nhiệm vụ học tập, nâng cao trình độ tư duy lý luận,
chuyên môn nghiệp vụ, khoa học kỹ thuật, làm chủ vũ khí, phương tiện, sẵn sàng chiến đấu và chiến
đấu thắng lợi. Cán bộ, chiến sĩ toàn quân càng phải gần gũi nhân dân, giúp đỡ nhân dân, dựa vào
nhân dân và học hỏi nhân dân, để xứng đáng với tình cảm, sự quý trọng của nhân dân giành cho “Bộ
đội Cụ Hồ”.
Đội ngũ cán bộ lãnh đạo, chỉ huy các cấp phải luôn gương mẫu đi đầu trong tự học, tự rèn, học tập
suốt đời; gần gũi với cấp dưới, với bộ đội, khiêm tốn, chân thành học hỏi cấp dưới, học hỏi nhân dân,
nhất là những điều còn thiếu; thật sự là hạt nhân lãnh đạo, đoàn kết, xây dựng quân đội cách mạng,
chính qui, tinh nhuệ, từng bước hiện đại.
Ngày 22/5/1950
“Học với hành phải đi đôi. Học mà không hành thì học vô ích.
Hành mà không học thì hành không trôi chảy”[22].
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn dành sự quan tâm đặc biệt đến việc huấn luyện học tập, tại Hội
nghị toàn quốc lần thứ nhất về công tác huấn luyện và học tập vào tháng 5 năm 1950, Người đến dự
và nói về mối quan hệ giữa học và hành. Theo Người, học phải luôn gắn bó hữu cơ, không tách rời
với hành, học để ứng dụng vào thực tiễn cuộc sống vốn đa dạng và phong phú. Học mà không hành,
không áp dụng vào thực tế khác nào chiếc hòm đựng đầy sách, hành mà không học thì hành không
trôi chảy. Muốn thực hành tốt đòi hỏi người học phải được trang bị những tri thức, kiến thức. Quan
điểm của Người đã trở thành bài học sâu sắc có tác dụng kêu gọi mọi người đem việc học gắn bó với
thực tiễn nước nhà, phục vụ cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Học đi đôi với hành cũng là
nguyên lý giáo dục cơ bản của Đảng và Nhà nước ta; phê phán lối học suông, học cốt lấy chữ nghĩa,
lấy mảnh bằng, lối học kinh viện, không nhằm mục đích phục vụ thực tiễn.
Thấm nhuần nguyên lý: “Học đi đôi với hành” của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng và Nhà nước ta chủ
trương nâng cao chất lượng dạy và học trong các hệ thống bậc học, cấp học, chung tay xây dựng một
xã hội học tập, xem học tập như là một nhu cầu tất yếu của cuộc sống và có thể học ở mọi nơi, mọi
lúc, học bằng nhiều cách. Học không chỉ là học văn hóa mà còn phải học các kiến thức khác để làm
việc, để sáng tạo, để làm người, để sống tốt hơn, thích ứng với sự thay đổi của xã hội. Nếu không,
người học chỉ cần đạt đến mục tiêu có bằng cấp, không còn động lực học tập để có tri thức, để làm
việc, để ứng dụng vào thực tiễn cuộc sống. Một nền giáo dục mà “cả nước là một xã hội học tập” sẽ
là động lực thúc đẩy mọi người có trách nhiệm học tập, học tập để không bị lạc hậu và theo kịp bước
tiến của khoa học, công nghệ, thời đại, để có điều kiện phụng sự Tổ quốc, phụng sự nhân dân và
phát triển bản thân.
Thực hiện Di huấn của Chủ tịch Hồ Chí Minh, công tác huấn luyện, giáo dục đào tạo trong quân đội
luôn được Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng, cấp ủy, chỉ huy các cấp trong toàn quân quan tâm
lãnh đạo, chỉ đạo với việc ban hành đồng bộ, hệ thống các nghị quyết chuyên đề, chỉ thị, mệnh lệnh
huấn luyện hằng năm để lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức tốt công tác huấn luyện, giáo dục đào tạo. Tư
tưởng chỉ đạo học đi đôi với hành đã được cụ thể hóa trong 3 quan điểm, 8 nguyên tắc, 6 mối kết
hợp trong huấn luyện, đã trực tiếp góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác huấn luyện, sẵn
sàng chiến đấu trong toàn quân những năm qua đáp ứng kịp thời phương hướng xây dựng quân đội
cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại.
Ngày 29/5/1944
“Du kích như cá, dân chúng như nước. Cá không có nước thì cá chết, du kích không có dân
chúng thì du kích chết”[29].
Là lời của Bác trong bài viết “Cách đánh du kích” Người viết tháng 5 năm 1944, gồm 13 chương. Đây
là tài liệu quan trọng thể hiện sự sáng tạo của Bác trong sử dụng từ ngữ quân sự và vận dụng tài
tình nghệ thuật đánh giặc của cha ông trong quá trình dựng nước và giữ nước để huấn luyện cho du
kích ta đánh giặc. Trong đó, Bác đã viết về mối quan hệ cá – nước giữa du kích và nhân dân rất mộc
mạc, nhưng dễ hiểu, dễ nhớ, dễ thực hiện. Mối quan hệ giữa du kích với nhân dân là mối quan hệ tự
thân, bởi du kích là cách đánh giặc của dân tộc bị áp bức chống đế quốc. Chiến tranh du kích là một
phương thức để phát động toàn dân, mà chủ yếu là nông dân tham gia kháng chiến, nó được sinh
sôi, nẩy nở giữa vùng địch chiếm đóng, tạo điều kiện thuận lợi để cho mọi người dân tham gia đánh
giặc giải phóng quê hương, đất nước. Với lực lượng tại chỗ, vũ khí tại chỗ, thông thuộc địa hình, địa
thế, thời tiết, khéo lợi dụng đêm tối, mưa nắng… với những lối đánh giặc chưa từng có trong từ điển
quân sự, thoắt ẩn, thoắt hiện, xuất quỷ, nhập thần… làm cho địch khiếp đảm, kinh hoàng đã góp
phần làm nên thắng lợi trong các cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc.
Từ mối quan hệ giữa du kích và nhân dân, được Bác nhân lên trong quan hệ giữa bộ đội với nhân
dân, Người khẳng định: “Không có dân thì không có bộ đội”. Quân đội nhân dân Việt Nam là quân
đội của dân, do dân và vì dân. Cội nguồn sức mạnh, sự trưởng thành và chiến thắng của “Bộ đội Cụ
Hồ” cũng đều bắt nguồn từ sức mạnh của nhân dân. Thông qua việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ
đội quân chiến đấu, đội quân công tác và đội quân lao động sản xuất, nhất là thông qua công tác
giáo dục, tuyên truyền, vận động quần chúng nhân dân, toàn quân đã xuất hiện ngày càng nhiều mô
hình dân vận khéo; tiêu biểu: “Tết Biên phòng ấm lòng dân bản”, “Tết quân dân”, “Nâng bước em tới
trường”, “Quân đội chung sức xây dựng nông thôn mới”… đã và đang góp phần xây dựng “thế trận
lòng dân” vững chắc, góp phần thực hiện thắng lợi sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam
xã hội chủ nghĩa trong tình hình mới.
10. Nước Việt Nam là một. Dân tộc Việt Nam là một. Sông có thể cạn, núi có thể
mòn, nhưng chân lý ấy không bao giờ thay đổi.
HƯỚNG DẪN
Mỗi quốc gia đều có độc lập chủ quyền bất khả xâm phạm, quyền ấy được luật pháp quốc tế công
nhận. Vì vậy mọi dân tộc trên thế giới đều ra sức bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ của mình “bằng mọi giá”.
Có lẽ đó cũng chính là thông điệp mà chủ tịch Hồ Chí Minh gửi đến chúng ta: “Nước Việt Nam la
một, dân tộc Việt Nam la một. Sông co thê cạn nui co thê mon, song chân ly ấy không bao giơ thay
đổi”.
Câu nói của chủ tịch Hồ Chí Minh thật giản dị nhưng lại giàu tính triết lý gói trọn cả niềm tự hào, cả
tự cương dân tộc. Đó là chân lý về độc lập tự do, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ. Ngươi đã mượn
những hình ảnh thiên nhiên “sông có thê cạn núi có thê mòn” đê khẳng định một cách chắc nịch:
“nước Việt Nam la một, dân tộc Việt Nam la một”, đó là chân lý bất di bất dịch.
Trước hết ta hiêu chân li ấy là sự khẳng định của Hồ Chủ Tịch về độc lập chủ quyền va toan vẹn
lanh thổ.
Độc lập dân tộc va toan vẹn lanh thổ la một trong những vấn đề hang đâu của đất nước, của dân
tộc. Tư thuơ cha rồng mẹ tiên sinh ra noi giống con ngươi Việt Nam, tư thuơ vua Hung dựng nước
cho tới ngay nay, trải qua hang vạn cuộc chiến tranh vệ quốc vi đại “Một nghin năm đô hộ giăc Tau,
một trăm năm đô hộ giăc Tây” ta vẫn giữ vững độc lập chủ quyền. Vì dân ta có lòng yêu nước nồng
nàn và có truyền thống chống giăc ngoại xâm. Mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng, lòng yêu nước nồng
nàn ấy lại cháy bùng lên mạnh mẽ. Chung ta đa đanh bại biết bao thế lực hung mạnh. Ta đập tan
âm mưu xâm lược của Trung Quốc: Pha quân Tống co chiến công của Ly Thương Kiệt trên phòng
tuyến sông Như Nguyệt, đê tư đo “Nam Quốc Sơn Ha” trơ thanh bản tuyên ngôn độc lập thứ nhất,
tuyên ngôn ấy cũng đã chỉ ra chân lý được ghi trong sách trơi:
“Sông nui nước Nam vua Nam ơ
Ranh ranh đa định tại sach trơi
Cớ sao lu giăc sang xâm phạm
Chung bay sẽ bị đanh tơi bơi”
Trận Bạch Đằng đa đi vao lịch sử với chiến công của Ngô Quyền chống quân Nam Han mơ ra một
kỷ nguyên độc lập mới cho dân tộc. Đến lượt đội quân Mông Nguyên hung hậu, tinh nhuệ, hiếu
chiến, chung chiếm cả nửa châu Âu, binh định Trung Quốc va nhiều nước châu A. Chung tự hao
rằng: Vo ngựa của quân Mông Nguyên đi tới đâu thi tất cả phải cui rạp đến đo. Nhưng trong thực tế
chung đa đại bại ơ Việt Nam đến ba lân dưới tài thao lược của Hưng đạo đại vương Trân Quốc
Tuấn va long yêu nước của nhân dân ta. Tiếp đo, Lê Lợi va Nguyên Trai đập tan âm mưu xâm lược
của quân Minh đê bản tuyên ngôn độc lập thứ hai được ra đơi “Binh Ngô đại cao”. Thêm một lân
nữa độc lập chủ quyền va toan vẹn lanh thổ lại được nhắc đến:
“Tư Triệu, Đinh, Ly, Trân bao đơi gây nền độc lập
Cung Han, Đương, Tống, Nguyên mỗi bên xứng đế một phương”
Đến thế kỉ XVIII, quân Thanh xâm lược Việt Nam, ngươi anh hung ao vải Quang Trung đa kiêu binh
tư Nam ra Bắc đê rồi cuối cung chiến thắng vang dội ơ Đống Đa – Ngọc Hồi. Thế kỷ XX nước ta đây
bóng giăc, nhưng Cach mạng thang Tam thanh công, tuyên ngôn độc lập của chủ tịch Hồ Chi Minh
đa ra đơi thêm một lân nữa khẳng định lại chân li muôn đơi đo “Nước Việt Nam có quyền được
hương tự do và độc lập và sự thật đã trơ thành một nước tự do độc lập”. Trận Điện Biên Phủ lưng
lẫy năm châu chấn động địa câu lam sup đổ hoan toan chủ nghia thực dân. Va ngay 30/04/1975 đất
nước chung ta sạch bong quân thu va hoa binh phat triên cho đến ngay nay.
Như vậy đê co được hoa binh va toan vẹn lanh thổ, đê co một nước Việt Nam, một dân tộc Việt
Nam, thi suốt bốn nghin năm dựng nước va giữ nước chung ta phải đương đâu với mọi ke thu (kê
cả thu trong giăc ngoai) đê bảo vệ vững chắc chủ quyền. Chung ta đa đổ xương đổ mau quyết
không bao giơ nhân nhượng với ke thu đê bảo vệ cho bằng được chủ quyền. Đung như lơi đại
tướng Vo Nguyên Giap tưng noi: “Chung tôi muốn hoa binh nhưng không phải hoa binh bằng bất cứ
gia nao” .
Mượn hinh ảnh sông cạn nui mon, Hồ Chi Minh lại thêm một lân nữa khẳng định “chân li ấy không
bao giơ thay đổi”
Nui va sông theo thơi gian sẽ bị bao mon đi va co thê không lấy lại được nhưng chân li thi mai mai
con, cung như độc lập chủ quyền va toan vẹn lanh thổ là bất di bất dịch. Vì thế ta kiên quyết bảo vệ
tới cung chủ quyền núi sông.
Tư việc phân tích ơ trên ta cân rút ra cho mình bài học nhận thức và hành động:
Chân lý của chủ tịch Hồ Chí Minh là chân lý đúng đắn của mọi thơi đại, chúng ta cân tự hào về dân
tộc, càng kiên quyết bảo vệ đến cùng chủ quyền ấy. Mỗi công dân đất nước săn sang xung phong
vao lực lượng gin giữ hoa binh khi tổ quốc kêu gọi. Tuy nhiên cũng cân tỉnh tao trước những âm
mưu của ke thu nhất la âm mưu kich động gây rối. Đấu tranh một cach ôn hoa tôn trọng luật phap
Việt Nam cung như luật phap quốc tế.
Cảnh giac trước những âm mưu của cac thế lực thu địch. Không nghe, không tin vao những luận
điệu xuyên tạc của ke thu, nhất la luận điệu xuyên tạc của một số trang mạng. Kiên định con đương
hoa binh đê bảo vệ độc lập dân tộc, toan vẹn lanh thổ.
Đung như chủ tịch Hồ Chi Minh noi: “Nước Việt Nam la một, dân tộc Việt Nam la một. Sông co thê
cạn nui co thê mon, song chân ly ấy không bao giơ thay đổi”. Vì vậy "Toan thê dân tộc Việt Nam
trên dưới một long đem tất cả tinh mạng, của cải đê giữ vững nền tự do, độc lập ấy” (Tuyên ngôn
độc lập 1945).
46. Trời có bốn mùa: Xuân, Hạ, Thu, Đông. Đất có bốn phương: Đông, Tây, Nam,
Bắc. Người có bốn đức: Cần, Kiệm, Liêm, Chính... Thiếu một đức, thì không thành
người.
(Cần, Kiệm, Liêm, Chính, tháng 6-1949, Hồ Chí Minh toàn tập, tập 5, NXB Chính trị Quốc gia,
tr. 631).
(thêm vài câu dẫn nhập đi)
Bác đã đề cập đến bốn chữ cân, kiệm, liêm, chính hàng ngàn lân, trong các bài nói và bài viết của Ngươi.
Điều đó, chứng tỏ sự quan tâm đăc biệt của Bác về giáo duc cân, kiệm, liêm, chính. Trong bài giảng đâu
tiên :“Tư cách người cách mạng” khi truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin vào Việt Nam Thanh niên cách mạng
(6-1925) Bác đã đề cập ngay đến cân, kiệm, liêm, chính và trong “Di chúc” đê lại cho toàn Đảng, toàn
quân và toàn dân ta trước lúc đi xa, Bác đã nhắc nhiều lân cum tư cân, kiệm, liêm, chính.
Vì sao Bác lại nhấn mạnh và nhắc dạy chúng ta nhiều lân như vậy? Bơi vì, đây là cốt lõi của đạo đức
nói chung, của đạo đức cách mạng nói riêng. Vì thế, cân, kiệm, liêm, chính đã được ghi lại, đã được
truyền khẩu thành quy phạm đạo đức tốt đẹp của mỗi con ngươi, mỗi tập thê và mỗi cộng đồng ngươi.
Bốn đức: cân, kiệm, liêm, chính là thước đo phẩm chất đạo đức của con ngươi. Những đức đó đã tồn tại
xuyên qua thơi gian, sống cùng lịch sử nhân loại nhiều ngàn năm qua.
Bác có nhiều bài viết về đạo đức nói chung, về bốn đức cân, kiệm, liêm, chính nói riêng. Ngươi phân
tích bốn đức này hết sức giản dị và dê hiêu, dê nhớ.
“Cần” là siêng năng, chăm chỉ, bền bỉ, cố gắng, deo dai. Khi đã cân thì việc gì dù khó mấy rồi cũng làm
được. “Cân” có nghĩa hẹp là cho mỗi cá nhân và có nghĩa rộng là cho mọi ngươi, cho cả nước.
“ Người siêng năng thì mau tiến bộ.
Cả nhà siêng năng thì chắc ấm no.
Cả làng siêng năng thì làng phồn thịnh.
Cả nước siêng năng thì nước giàu mạnh” (3)
Muốn “cần” có hiệu quả phải có kế hoạch và phải tính toán cẩn thận, chu đáo, rõ ràng. “Cần” là luôn cố
gắng, chăm chỉ, cả năm cả đơi, biết nuôi dưỡng tinh thân và lực lượng đê làm việc lâu dài.
“Kiệm” là tiết kiệm, không xa xỉ, không hoang phí, không bưa bãi nhưng cũng không bủn xỉn, keo
kiệt. “Cần” mà không “kiệm” thì “làm chưng nào xào chưng ấy”. Cũng như một cái thùng không đáy, nước
đổ vào chưng nào chảy hết ra chưng ấy, không lại hoàn không. “Kiệm” và “cần” phải đi đôi với nhau. Vì
vậy, phải chống xa xỉ, hoang phí, nhưng cũng phải chống bủn xỉn, keo kiệt. Xa xỉ, hoang phí trong lúc
đồng bào còn nghèo khó là có tội với Tổ quốc, với đồng bào.
“Liêm” là trong sạch, không tham lam, không “đuc khoét”, không lấy của công làm của tư, không đưa
bà con, dòng họ kém đức, bất tài vào giữ chức này, chức nọ trong cơ quan của Đảng và Chính phủ.
Ngươi muốn “liêm” phải “cần” và “kiệm”.
“Chính”, được Bác giải thích: nghĩa là không “tà”, nghĩa là trung thực, thẳng thắn, đứng đắn. “Chính” là
kết quả của “cần”, “kiệm”, “liêm”.
Cho nên “chính” là trung tâm, là cốt lõi của đức, của con ngươi. Con ngươi bất chính, tức bất liêm; mà
bất liêm tức không có đức cân và kiệm;
“Chí công, vô tư” là lo cho việc chung, việc dân, việc nước; là đăt lợi ích của Đảng, của Tổ quốc, của
nhân dân lên trên lợi ích cá nhân. Bác đăt vấn đề là chống chủ nghĩa cá nhân chứ không xâm phạm đến
lợi ích cá nhân. Lợi ích cá nhân là những quyền lợi chính đáng của cá nhân, những sơ thích cá nhân cân
phải được tôn trọng và bảo vệ.
Cân, kiệm, liêm, chính là bốn đức cân có của con ngươi, nhất là ngươi cán bộ, đảng viên. Bác dạy:
thiếu một đức, không thành ngươi. Chữ “người” được hiêu là con ngươi thật sự có nhân, có đức.
Bác không chỉ nói mà Ngươi là con ngươi hành động. Ngươi làm nhiều hơn nói. Ngươi là tấm gương
hết sức trong sáng về cân, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư. Những ngươi thân của Bác trong gia đình
như chị của Bác, bà Nguyên Thị Thanh, anh của Bác, ông Nguyên Sinh Khiêm; cả hai ngươi đều tham
gia hoạt động cứu nước, đều bị bắt, đều bị tù đày hơn mươi năm. Khi Bác là ngươi đứng đâu Nhà nước
sau Cách mạng Tháng Tám, bà Thanh và ông Khiêm không hề ngỏ lơi với em mình đê được hương bất
kỳ một lợi ích nào, dù nhỏ nhất. Hai ngươi về quê, tham gia kháng chiến, làm ăn nuôi nhau cho đến lúc đi
xa. Cả gia đình của Bác thanh khiết và đức độ đã tỏa vào non sông, đất nước, sống mãi cùng sự nghiệp
cách mạng của Đảng và của dân ta… Đôi dép cao su của Bác, in dấu chân Ngươi. Ngươi chưa đổi dép
mới, dù cũng chỉ là đôi dép đơn sơ. Bơi vì: Khi nào đồng bào đủ dép thì Bác đổi dép. Đôi dép của Bác đi
vào lịch sử, đôi dép thành thơ, thành bài ca, thành huyền thoại, bơi vì, chính đôi dép đã mang nghĩa tình
sâu năng với quê hương, với nhân dân, với đất nước, khi quê hương chưa giàu, nhân dân còn có nhiều
ngươi thiếu thốn.
Bác kính yêu đã cân, kiệm, liêm, chính suốt đơi và suốt đơi Bác đã dạy chúng ta cân, kiệm, liêm,
chính. Nếu ơ Bác “Đức” là gốc của con ngươi, của cộng đồng và của Đảng, thì cân, kiệm, liêm, chính là
cái cốt của “Đức”, đó là đức “cần”, đức “kiệm”, đức “liêm”, đức “chính”. Ngươi có “đức” trước hết phải rèn
luyện đê có bốn đức đó và nếu Thiếu một đức thì không thành ngươi.
4.
Ngày 04/02: “Đoàn kết đã đưa Đảng ta và nhân dân ta từ thắng lợi này đến
thắng lợi khác. Cho nên chúng ta quý trọng và ra sức bảo vệ sự đoàn kết nhất trí
trong Đảng và trong nhân dân ta cũng như giữa các đảng và giữa các nước anh em
như giữ gìn con ngươi của mình”(4).
Là lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong bài viết "Mừng Đảng ta 33 tuổi”, ngày 04 tháng 02
năm 1963, nhân kỷ niệm 33 năm Ngày thành lập Đảng. Trong bài viết, Chủ tịch Hồ Chí Minh
đã đánh giá chặng đường phát triển đã đi qua và sự ủng hộ của các đảng anh em, đồng thời
khẳng định những công lao, đóng góp của Đảng đối với đất nước suốt hơn 33 năm.
Lời dạy trên thể hiện tầm quan trọng của đoàn kết, đó là nhân tố đã làm nên thắng lợi của
Đảng và nhân dân ta trong cách mạng giải phóng dân tộc cũng như trong sự nghiệp kháng
chiến, kiến quốc. Đặc biệt, trong thời kỳ cách mạng nước ta thực hiện cùng lúc hai nhiệm vụ
chiến lược là xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đấu tranh giải phóng miền Nam
thống nhất Tổ quốc. Sự nghiệp cách mạng đòi hỏi phải phát huy cao độ sức mạnh toàn dân
tộc và tranh thủ sự ủng hộ, giúp đỡ của quốc tế. Do vậy, theo Người, chúng ta cần phải quý
trọng và giữ gìn sự đoàn kết nhất trí từ trong Đảng, trong nhân dân, giữa Đảng, Nhà nước và
nhân dân ta với Đảng, Nhà nước và nhân dân các nước anh em như giữ gìn con ngươi của
mắt mình.
Lời dạy của Người không chỉ khẳng định vai trò của đoàn kết đối với thắng lợi của cách
mạng, mà còn nêu lên sự cần thiết và tầm quan trọng của việc giữ gìn đoàn kết. Đồng thời,
đây cũng là phương châm chỉ đạo cho đường lối đối nội và đối ngoại của Đảng ta, định
hướng cho việc hoạch định chính sách đối ngoại của cách mạng Việt Nam qua các thời kỳ.
Với Quân đội nhân dân Việt Nam, thực hiện lợi dạy trên của Người trước hết phải tăng cường
sự đoàn kết thống nhất trong nội bộ, đặc biệt là trong tổ chức đảng, sau đó là đoàn kết giữa
cấp trên với cấp dưới, giữa cán bộ với chiến sĩ và đoàn kết quân dân. Đồng thời, mỗi cán bộ,
chiến sỹ phải quán triệt sâu sắc đường lối đối ngoại của Đảng, phát huy vai trò của mình
trong việc xây dựng tình đoàn kết quốc tế, thể hiện được truyền thống tốt đẹp của quân đội
ta. Để giữ gìn sự đoàn kết, thống nhất trong quân đội, đòi hỏi mỗi quân nhân phải thực hiện
tốt việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, tuyệt đối trung
thành với Đảng, với Tổ quốc và nhân dân, luôn đặt lợi ích của Đảng, của dân tộc, của quân
đội lên trên lợi ích cá nhân, luôn phấn đấu xứng danh “Bộ đội Cụ Hồ”, gương mẫu trong lời
nói và hành động, chấp hành nghiêm kỷ luật dân vận, sẵn sàng nhận và hoàn thành nhiệm
vụ quốc tế khi được phân công.
Nguyễn ái quốc đã nói
Caau1:
Mơ đâu Tuyên ngôn độc lập ngày 291945 tại quảng trương Ba Đình, Chủ tịch Hồ Chí Minh thay
măt Chính phủ ta, trịnh trọng tuyên bố trước toàn thê quốc dân đồng bào và bạn bè quốc tế rằng:
"Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có
thể xâm phạm được; trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu câu
hạnh phúc". Lơi nói bất hủ, mơ đâu cho Tuyên ngôn độc lập không chỉ là tư tương lớn về độc lập, tự
do của dân tộc, mà còn là tư tương cơ bản về quyền con ngươi của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng
ta.
Trong tư tương của Chủ tịch Hồ Chí Minh, giải phóng giai cấp, giải phóng dân tộc và giải phóng con
ngươi luôn hòa quyện với nhau và luôn nhất quán trong toàn bộ cuộc đơi và sự nghiệp đấu tranh
của Ngươi. Con đương cách mạng mà Ngươi đã chọn, cuộc cách mạng mà Ngươi lãnh đạo, những
chủ trương, chính sách mà Ngươi đề ra và cả những việc làm rất cu thê của Ngươi, tất thảy đều
nhằm bảo vệ con ngươi.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã sử dung hai câu kinh điên đó tư hai cuộc cách mạng tư sản của hai cương
quốc lớn là Mỹ và Pháp như một chân lý, không ai chối cãi được. Thông qua chân lý đó, Hồ Chủ
tịch muốn khẳng định rằng, nhân dân Việt Nam hoàn toàn tán đồng và có chung ý tương với nhân
loại về quyền bình đẳng, quyền sống và quyền mưu câu hạnh phúc của con ngươi; và lẽ dĩ nhiên,
nhân dân Việt Nam cũng có những quyền đó như nhân dân Mỹ và nhân dân Pháp.
Theo quan điêm của Chủ tịch Hồ Chí Minh, quyền con ngươi không thê tách rơi quyền của dân tộc.
Chính vì vậy mà Ngươi đã đi tư khẳng định quyền con ngươi đến quyền của dân tộc. "Tất cả các
dân tộc trên thế giới, đều sinh ra có quyền bình đẳng; dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung
sướng và quyền tự do".
Với cách suy luận biện chứng đó, quyền của mỗi con ngươi là lẽ tự nhiên thì quyền của mỗi dân tộc
cũng là lẽ tự nhiên. Tư đó, Ngươi chứng minh rõ việc các thế lực đế quốc xâm lược, áp bức bóc lột
dân tộc Việt Nam là trái với lẽ tự nhiên, là vi phạm trắng trợn quyền con ngươi mà cách mạng tư
sản Mỹ và cách mạng Pháp đã công nhận. Với việc nâng tâm quyền con ngươi thành quyền dân
tộc, không chỉ có ý nghĩa đối với dân tộc Việt Nam, mà còn có ý nghĩa đối với nhiều dân tộc bị áp
bức, bóc lột khác trên thế giới.
Đối với nước ta, khẳng định quyền bình đẳng giữa mọi ngươi và mọi dân tộc là lẽ tự nhiên, là chân
lý không thê nào phủ nhận được. Lôgic biện chứng của lập luận đó, về thực chất là Hồ Chí Minh đã
đi đến một điều khẳng định lớn lao hơn; nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đơi cũng hoàn toàn
hợp với lẽ tự nhiên, không ai có thê phủ nhận được. Thiên tài của Chủ tịch Hồ Chí Minh chính là ơ
chỗ đó.
Quyền con ngươi và quyền dân tộc trong tư tương Hồ Chí Minh bắt nguồn tư truyền thống dân tộc
Việt Nam qua bốn ngàn năm dựng nước và giữ nước. Sự gắn bó giữa cá nhân và cộng đồng dân
tộc trong đấu tranh chống thiên nhiên khắc nghiệt và chống ke thù xâm lược. Ngươi đã tưng khẳng
định, dân tộc ta có một lòng nồng nàn yêu nước. Mỗi khi đất nước bị xâm lăng thì tinh thân đó kết
thành một làn sóng vô cùng mạnh mẽ, nó lướt qua mọi thử thách gian nan, nó nhấn chìm tất cả bè
lũ bán nước và cướp nước.
Trong các cuộc đấu tranh chống thiên nhiên, chống giăc ngoại xâm, mỗi ngươi dân Việt Nam luôn
hòa quyện với cộng đồng dân tộc, tìm thấy giá trị của mình trong giá trị chung của quê hương, đất
nước. Măt khác, cũng xuất phát tư thực tế Tổ quốc đang bị thực dân đô hộ gân một thê kỷ, nên mọi
quyền lợi của nhân dân, của dân tộc cũng bị bọn đế quốc vùi dập.
Cho nên, giành lại quyền sống, quyền tự do độc lập, quyền làm ngươi tư tay bọn đế quốc là muc
tiêu chiến đấu của cả dân tộc Việt Nam. Và trên thực tế, Ngươi đã lãnh đạo nhân dân ta đứng lên
làm cách mạng Tháng Tám thành công, lập nên nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, Nhà nước công
nông đâu tiên ơ Đông Nam châu Á.
Tuyên ngôn độc lập của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa do Chủ tịch Hồ Chí Minh trịnh trọng đọc
trước toàn thê quốc dân đồng bào ngày 291945 đã vĩnh viên xóa bỏ mọi sự ràng buộc bất bình
đẳng giữa Việt Nam với Pháp. "Nước Việt Nam có quyền hương tự do và độc lập và thực sự đã trơ
thành một nước tự do, độc lập. Toàn thê dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thân và lực lượng,
tính mạng và của cải đê giữ vững quyền tự do, độc lập ấy".
Giữ vững lơi thề độc lập, ngay sau khi cuộc mít tinh kết thúc, ngày 391945, Chủ tịch Hồ Chí Minh
đã chủ trì cuộc họp của Chính phủ, đề ra những nhiệm vu cấp bách: Cứu đói, chống giăc dốt, xóa
bỏ những thứ thuế bất hợp lý do thực dân Pháp áp đăt, ban hành những quyền tự do dân chủ cho
nhân dân, chuẩn bị Tổng tuyên cử, thực hiện nam nữ bình đẳng, tự do tín ngưỡng, thực hiện nền
giáo duc nhân dân...
Đó là những việc làm rất cu thê của Ngươi và Chính phủ ta nhằm thực hiện quyền con ngươi. Đăc
biệt, sự ra đơi của bản Hiến pháp năm 1946, hiến pháp dân chủ đâu tiên của nước Việt Nam dân
chủ cộng hòa, đánh đấu một bước tiến quan trọng về thực hiện dân chủ và quyền con ngươi, quyền
công dân trên một đất nước đã hơn 80 năm bị thực dân, phong kiến đô hộ, mọi quyền tự do dân
chủ của con ngươi và của dân tộc bị chà đạp.
Tiếp theo đó là hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược, kéo dài 30