Tải bản đầy đủ (.docx) (34 trang)

Bài tập nhóm môn Bộ luật tố tụng hình sự

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (175.38 KB, 34 trang )

BÀI TẬP NHÓM: 9
Môn: Luật TTHS
Giảng viên: Hồ Trọng Hữu
Thứ 2 tiết: 1 2 (phòng học B3103)
Thứ 3 tiết: 1 2 (phòng học B3103
Câu hỏi thảo luận nhóm:
Câu 1: Nêu và phân tích những điểm mới trong thẩm quyền xét xử tòa án
được quy định trong bộ luật tố tụng hình sự 2015?

Câu 2: Nêu và phân tích những điểm mới về thẩm quyền điều tra được quy
định trong bộ luật tố tụng hình sự 2015?

Câu 3: Phân tích nguyên tắc suy đoán vô tội được quy định tại Điều 13 bộ
luật tố tụng hình sự?

Câu 4: Phân biệt người tham gia tố tụng vì ngĩa vụ pháp lý với tư cách
người làm chứng và người chứng kiến?

Câu 1: Nêu và phân tích những điểm mới trong thẩm quyền xét xử tòa
án được quy định trong bộ luật tố tụng hình sự 2015?
A.

MỞ ĐẦU.

1


Bộ luật tố tụng hình sự đã góp phần bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con
người, quyền công dân, bảo vệ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ quyền và lợi ích của
nhà nước, của cơ quan tổ chức, cá nhân, nhằm giáo dục mọi người nghiên
chỉnh, chấp hành pháp luật.


Chính vì vậy mà thẩm quyền xét xử của tòa án phải được xem xét ở một góc
độ khách quan nào đó, để thấy được những quy định của nhà nước một cách cụ
thể và cách kỹ lưỡng, nhưng do thẩm quyền xét xử của tòa án trong bộ luật tố
tụng 2003 vẫn còn nhiều vướng mắc và hạn chế, do vậy điều đó là bức cấp thiếp
cần phải sửa đổi và bổ sung thêm về thẩm quyền xét xử trong Bộ luật tố tụng
hình sự 2015.
Mục đích nhằm đảm bảo đúng cơ quan xét xử của tòa án về thẩm quyền, để
giải quyết tất cả các vụ việc liên quan đến thẩm quyền xét xử của tòa án, một
cách nhanh chóng, cụ thể và đạt hiệu quả cao trong quá trình xét xử tại phiên
tòa, thực hiện đúng người, đúng tội một cách chính xác, công minh và đúng
theo đúng quy định của pháp luật.
Xây dựng BLTTHS một cách khoa học, tiến bộ, có tính khả thi cao; là công
cụ pháp lý sắc bén để đấu tranh hữu hiệu với mọi loại tội phạm, tháo gỡ vướng
mắc, bất cập trong thực tiễn; tăng cường trách nhiệm của các cơ quan tố tụng
trong việc tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm quyền con người, quyền công dân đã
được Hiến định; góp phần quan trọng thực hiện mục tiêu: “Xây dựng nền tư
pháp trong sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh, bảo vệ công lý, từng bước
hiện đại, phục vụ nhân dân, phụng sự Tổ quốc Việt Nam XHCN”.

B.

NỘI DUNG.

1.

Cơ sở lý luận.
2


Qua hơn 10 năm thi hành, BLTTHS năm 2003 đã tạo cơ sở pháp lý hữu hiệu

cho các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng thực hiện chức năng,
nhiệm vụ theo quy định của pháp luật, hạn chế oan, sai và bỏ lọt tội phạm, bảo
đảm tốt hơn quyền và lợi ích hợp pháp của người tham gia tố tụng, đặc biệt là
người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, người bào chữa, bảo đảm tính
minh bạch, khách quan trong tố tụng hình sự. BLTTHS đã khẳng định vai trò
quan trọng trong công cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm, góp phần giữ
vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, bảo vệ cuộc sống bình yên của
nhân dân, tạo môi trường ổn định cho sự phát triển kinh tế xã hội, hội nhập quốc
tế, xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Ngày 27/11/2015, tại kỳ họp thứ 10, Quốc hội khóa XIII đã thông qua Bộ
luật Tố tụng hình sự (BLTTHS) năm. Bộ luật có nhiều quy định mới để thể chế
hóa quan điểm cải cách tư pháp của Đảng về nâng cao chất lượng tranh tụng tại
các phiên toà xét xử; cải cách thủ tục tố tụng theo hướng vừa kế thừa truyền
thống pháp lý Việt Nam vừa tiếp thu có chọn lọc những kinh nghiệm của nước
ngoài phù hợp với hoàn cảnh nước ta và yêu cầu chủ động hội nhập quốc tế;
đồng thời cụ thể hóa quy định của Hiến pháp năm 2013 và Luật Tổ chức Tòa án
nhân dân năm 2014 về thực hiện quyền tư pháp của Tòa án nhân dân.
1.

Về thẩm quyền xét xử theo cấp
Thẩm quyền xét xử theo cấp của Tòa án được quy định tại điều 268 Bộ luật
Tố tụng hình sự 2015.
1. Tòa án nhân dân cấp huyện và Tòa án quân sự khu vực xét xử sơ thẩm
những vụ án hình sự về tội phạm ít nghiêm trọng, tội phạm nghiêm trọng và tội
phạm rất nghiêm trọng, trừ những tội phạm:
a) Các tội xâm phạm an ninh quốc gia;
b) Các tội phá hoại hoà bình, chống loài người và tội phạm chiến tranh;
c) Các tội quy định tại các điều 123, 125, 126, 227, 277, 278, 279, 280, 282,
283, 284, 286, 287, 288, 337, 368, 369, 370, 371, 399 và 400 của Bộ luật hình
sự;

3


d) Các tội phạm được thực hiện ở ngoài lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam.
2. Tòa án nhân dân cấp tỉnh và Tòa án quân sự cấp quân khu xét xử sơ
thẩm những vụ án:
a) Vụ án hình sự về các tội phạm không thuộc thẩm quyền của Tòa án nhân
dân cấp huyện và Tòa án quân sự khu vực;
b) Vụ án hình sự có bị cáo, bị hại, đương sự ở nước ngoài hoặc tài sản có
liên quan đến vụ án ở nước ngoài;
c) Vụ án hình sự thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án nhân dân cấp huyện
và Tòa án quân sự khu vực nhưng có nhiều tình tiết phức tạp khó đánh giá,
thống nhất về tính chất vụ án hoặc liên quan đến nhiều cấp, nhiều ngành; vụ án
mà bị cáo là Thẩm phán, Kiểm sát viên, Điều tra viên, cán bộ lãnh đạo chủ chốt
ở huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh, thành phố thuộc thành phố trực
thuộc trung ương, người có chức sắc trong tôn giáo hoặc có uy tín cao trong
dân tộc ít người.
Như vậy, so với BLTTHS 2003, quy định của BLTTHS 2015 đã quy định cụ
thể, rõ ràng hơn về thẩm quyền xét xử các vụ án hình sự có yếu tố nước ngoài.
Theo đó, các vụ án hình sự có bị cáo, bị hại, đương sự ở nước ngoài hoặc tài sản
có liên quan đến vụ án ở nước ngoài thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án nhân
dân cấp tỉnh. Ngoài ra, BLTTHS 2015 cũng quy định một cách cụ thể hơn về
các vụ án thuộc thẩm quyền của Tòa án cấp huyện nhưng được Tòa án cấp tỉnh
lấy lên để xét xử đó là các vụ án có nhiều tình tiết phức tạp khó đánh giá, thống
nhất về tính chất vụ án hoặc liên quan đến nhiều cấp, nhiều ngành; vụ án mà bị
cáo là Thẩm phán, Kiểm sát viên, Điều tra viên, cán bộ lãnh đạo chủ chốt ở
huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh, thành phố thuộc thành phố trực thuộc
trung ương, người có chức sắc trong tôn giáo hoặc có uy tín cao trong dân tộc ít
người.

2.

Về thẩm quyền xét xử theo lãnh thổ

4


Thẩm quyền xét xử của Tòa án theo lãnh thổ được quy định tại điều 269
BLTTHS 2015.
Điểm mới đáng chú ý của BLTTHS 2015 là quy định “Bị cáo phạm tội ở
nước ngoài nếu xét xử ở Việt Nam thì Tòa án nhân dân cấp tỉnh nơi cư trú cuối
cùng của bị cáo ở trong nước xét xử. Nếu không xác định được nơi cư trú cuối
cùng ở trong nước của bị cáo thì tùy trường hợp, Chánh án Tòa án nhân dân tối
cao ra quyết định giao cho Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội hoặc Tòa án nhân
dân thành phố Hồ Chí Minh hoặc Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng xét xử”.
Như vậy, ngoài Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội và Tòa án nhân dân
thành phố Hồ Chí Minh, Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng cũng có thẩm
quyền giải quyết các vụ án hình sự mà bị cáo phạm tội ở nước ngoài nhưng xét
xử tại Việt Nam.
3.

Thẩm quyền xét xử của Tòa án quân sự
BLTTHS 2015 bổ sung quy định về thẩm quyền xét xử của Tòa án quân sự
tại điều 272:
“1. Tòa án quân sự có thẩm quyền xét xử:
a) Vụ án hình sự mà bị cáo là quân nhân tại ngũ, công chức, công nhân,
viên chức quốc phòng, quân nhân dự bị trong thời gian tập trung huấn luyện
hoặc kiểm tra tình trạng sẵn sàng chiến đấu; dân quân, tự vệ trong thời gian
tập trung huấn luyện hoặc phối thuộc với Quân đội nhân dân trong chiến đấu,
phục vụ chiến đấu; công dân được điều động, trưng tập hoặc hợp đồng vào

phục vụ trong Quân đội nhân dân;
b) Vụ án hình sự mà bị cáo không thuộc đối tượng quy định tại điểm a
khoản 1 Điều này liên quan đến bí mật quân sự hoặc gây thiệt hại đến tính
mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm của quân nhân tại ngũ, công chức, công
nhân, viên chức quốc phòng, quân nhân dự bị trong thời gian tập trung huấn
luyện hoặc kiểm tra tình trạng sẵn sàng chiến đấu hoặc gây thiệt hại đến tài
sản, danh dự, uy tín của Quân đội nhân dân hoặc phạm tội trong doanh trại
quân đội hoặc khu vực quân sự do Quân đội nhân dân quản lý, bảo vệ.
5


2. Tòa án quân sự có thẩm quyền xét xử tất cả tội phạm xảy ra trong địa
bàn thiết quân luật.”
4. Việc xét xử bị cáo phạm nhiều tội thuộc thẩm quyền của Tòa án nhân
dân và Tòa án quân sự
Vấn đề này được quy định tại điều 273 BLTTHS 2015.
“Khi vụ án vừa có bị cáo hoặc tội phạm thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án
quân sự, vừa có bị cáo hoặc tội phạm thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án nhân
dân thì thẩm quyền xét xử được thực hiện:
1. Trường hợp có thể tách vụ án thì Tòa án quân sự xét xử những bị cáo và
tội phạm thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án quân sự; Tòa án nhân dân xét xử
những bị cáo và tội phạm thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án nhân dân;
2. Trường hợp không thể tách vụ án thì Tòa án quân sự xét xử toàn bộ vụ
án.”
5. Chuyển vụ án để xét xử
Vấn đề chuyển vụ án để xét xử quy định trong BLTTHS 2015 rõ ràng và cụ
thể hơn trong BLTTHS 2003. Cụ thể:
“1. Khi vụ án không thuộc thẩm quyền xét xử của mình thì Tòa án trả hồ sơ
vụ án cho Viện kiểm sát đã truy tố để chuyển đến Viện kiểm sát có thẩm quyền
truy tố.

Trong thời hạn 03 ngày kể từ ngày nhận lại hồ sơ vụ án, Viện kiểm sát đã
truy tố phải ra quyết định chuyển hồ sơ vụ án đến Viện kiểm sát có thẩm quyền
truy tố để giải quyết theo thẩm quyền. Việc chuyển vụ án ra ngoài phạm vi tỉnh,
thành phố trực thuộc trung ương hoặc ngoài phạm vi quân khu thực hiện theo
quy định tại Điều 239 của Bộ luật này.
Khi xét thấy vụ án vẫn thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án đã trả hồ sơ thì
Viện kiểm sát chuyển lại hồ sơ vụ án đến Tòa án kèm theo văn bản nêu rõ lý do;
nếu Tòa án xét thấy vụ án vẫn không thuộc thẩm quyền xét xửử của mình thì
việc giải quyết tranh chấp thẩm quyền xét xử thực hiện theo Điều 275 của Bộ

6


luật này. Viện kiểm sát phải thực hiện theo quyết định của Tòa án có thẩm
quyền.
2.

Thời hạn truy tố và áp dụng biện pháp ngăn chặn được thực hiện theo quy định
tại Điều 240 và Điều 241 của Bộ luật này.”

6. Giải quyết tranh chấp về thẩm quyền xét xử
Giải quyết tranh chấp về thẩm quyền xét xử được quy định tại điều 275
BLTTHS.
“1. Việc giải quyết tranh chấp về thẩm quyền xét xử giữa các Tòa án nhân
dân cấp huyện trong cùng một tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, giữa các
Tòa án quân sự khu vực trong cùng một quân khu do Chánh án Tòa án nhân
dân cấp tỉnh, Chánh án Tòa án quân sự cấp quân khu quyết định.
2. Việc giải quyết tranh chấp về thẩm quyền xét xử giữa các Tòa án nhân
dân cấp huyện thuộc các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương khác nhau, giữa
các Tòa án quân sự khu vực thuộc các quân khu khác nhau do Chánh án Tòa

án nhân dân cấp tỉnh, Chánh án Tòa án quân sự cấp quân khu nơi kết thúc việc
điều tra quyết định.
3. Việc giải quyết tranh chấp về thẩm quyền xét xử giữa các Tòa án nhân
dân cấp tỉnh, giữa các Tòa án quân sự cấp quân khu do Chánh án Tòa án nhân
dân tối cao, Chánh án Tòa án quân sự trung ương quyết định.
4. Việc giải quyết tranh chấp về thẩm quyền xét xử giữa Tòa án nhân dân và
Tòa án quân sự do Chánh án Tòa án nhân dân tối cao quyết định.
Việc chuyển vụ án để xét xử theo thẩm quyền được thực hiện theo quy định
tại Điều 274 của Bộ luật này.”
Điều 275 BLTTHS quy định chi tiết, cụ thể hơn về các trường hợp tranh
chấp về thẩm quyền xét xử. Tuy nhiên, theo ý kiến cá nhân, việc quy định như
vậy vẫn chưa giải quyết được triệt để những vướng mắc về thẩm quyền xét xử.

7


3.
a.

Cơ sở thực tiễn.
Thuận lợi
So với BLTTHS 2003, quy định của BLTTHS 2015 đã quy định cụ thể, rõ
ràng hơn về thẩm quyền xét xử các vụ án hình sự có yếu tố nước ngoài. Các vụ
án hình sự có bị cáo, bị hại, đương sự ở nước ngoài hoặc tài sản có liên quan
đến vụ án ở nước ngoài thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án nhân dân cấp tỉnh.
Ngoài ra, BLTTHS 2015 cũng quy định một cách cụ thể hơn về các vụ án
thuộc thẩm quyền của Tòa án cấp huyện nhưng được Tòa án cấp tỉnh lấy lên để
xét xử, đó là các vụ án có nhiều tình tiết phức tạp khó đánh giá, thống nhất về
tính chất vụ án hoặc liên quan đến nhiều cấp, nhiều ngành, vụ án mà bị cáo là
Thẩm phán, Kiểm sát viên, Điều tra viên, cán bộ lãnh đạo chủ chốt ở huyện,

quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh, thành phố thuộc thành phố trực thuộc trung
ương, người có chức sắc trong tôn giáo hoặc có uy tín cao trong dân tộc ít
người.

b.

Khó khăn
Do một số thẩm quyền xét xử của tòa án được quy định trong Bộ luật tố
tụng hình sự 2015 mặc dù đã được ban hành nhưng vẫn chưa có hiệu lực để thi
hành nên đang mắc phải một số khó khăn trong việc áp dụng vào thực tiễn.

c.

Ý nghĩa
Xác định được đúng thẩm quyền giữa các Tòa án tránh được trường hợp
có tranh chấp thẩm quyền giữa các Tòa án cùng cấp với nhau. Bảo đảm cho Tòa
án phải thực hiện được chức năng, nhiệm vụ của mình.

Như vậy, các quy định về thẩm quyền của Tòa án là một bảo đảm cho việc
thực hiện quyền tiếp cận công lý của công dân.
-Tránh được sự chồng chéo nhiệm vụ, tạo điều kiện cho tòa án giải quyết
nhanh và đúng đắn các vụ việc.
8


-Tránh tình trạng giải quyết không đúng thẩm quyền hoặc đùn đẩy trách
nhiệm giữa các tòa án.
-Xác đinh những điều kiện chuyên môn nghiệp vụ cần thiết của đội ngũ cán
bộ.
-Tránh được vụ việc bị hủy dể xét xử lại gây mất thời gian tốn phí vật chất.

-Tạo điều kiện thuận lợi cho việc thi hành án.
- Tạo điều kiện thuận lợi cho các đương suwjtrong việc tham gia bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của mình trước nhà nước.
C.

KẾT LUẬN.
Tóm lại từ những phân tích trên chúng ta có thể thấy được những điểm mới
được quy định cụ thể tại Điều 268 Bộ luật tố tụng hình sự 2015 về thẩm quyền
xét xử của tòa án, so với quy định tại Điều 170 Bộ luật tố tụng hình sự năm
2003 quy định về thẩm quyền xét xử của tòa án các cấp thì đã có nhiều sửa đổi
bổ sung phù hợp với thực tiễn xã hội hiện nay và bên cạnh đó cũng đã khắp
phục được một mặt những hạn chế đang còn tồn tại trong bộ luật tố tụng hình sự
2003.

9


Câu 2: Nêu và phân tích những điểm mới về thẩm quyền điều tra được
quy định trong bộ luật tố tụng hình sự 2015?
A.

MỞ ĐẦU.
Điều tra vụ án là giai đoạn mà trong đó cơ quan điều tra tiến hành các biện
pháp cần thiết nhằm thu thật và củng cố các chứng cứ, nghiên cứu các tình tiết
của vụ án hình sự, phát hiện đầy đủ về tôi phạm, để nghiên cứu trách nhiệm
hình sự.
Điều tra góp phần qua trọng trong việc tìm ra những chứng cứ đúng người
đúng tội sẽ tránh được những oan sai. Vì vậy thẩm quyền điều tra phải được đặt
cho đúng cơ quan có đủ khả năng thực hiện việc điều tra. Điều tra vụ án là giai
đoạn mà trong đó cơ quan điều tra tiến hành các biệnn pháp cần thiết hành thu

thập và củng cố các chứng cứ, nghiên cứu các tình tiết của vụ án hình sự của
người phạm tội. Vì vậy việc quy định thẩm quyền điều tra hết sức quan trọng và
được quy định cụ thể chi tiết trong Bộ luật tố tụng hình sự 2015.
Do còn nhiều hạn chế theo quy định tại Điều 110 của bộ luật tố tụng hình sự
2003 quy định về thẩm quyền điều tra, so với quy định tại Điều 163 của bộ luật
tố tụng hình sự 2015 thì để dáp ứng được những mục tiêu đặt ra trong xã hội, thì
sau khi Bộ luật tố tụng hình sự 2015 ra đời, đã đáp ứng được những yêu cầu bức
thiết mà xã hội mong muốn.
Như vậy để hiểu rõ hơn về điểm mới của Bộ luật tố tụng hình sự 2015 quy
định như thế nào về thẩm quyền điều tra thì chúng ta cùng tìm hiểu ở phần nội
dung.

B.

NỘI DUNG.

1.

Cơ sở lý luận.
Thẩm quyền điều tra vụ án hình sự trong BLTTHS năm 2015 được quy định
tại Điều 163. Theo đó, thẩm quyền điều tra các vụ án hình sự của Cơ quan điều
10


tra căn cứ vào 03 nguyên tắc sau: Nguyên tắc thứ nhất là, thẩm quyền điều tra
tuân theo hệ thống tổ chức của Cơ quan điều tra gồm: Cơ quan điều tra của
Công an nhân dân; Cơ quan điều tra trong Quân đội nhân dân; Cơ quan điều tra
Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Cơ quan điều tra Viện kiểm sát quân sự trung
ương. Nguyên tắc thứ hai là, thẩm quyền điều tra tuân theo lãnh thổ. Nguyên tắc
thứ ba là, thẩm quyền điều tra tuân theo phân cấp của Cơ quan điều tra. Cụ thể

như sau:
Một là, về thẩm quyền điều tra các vụ án hình sự tuân theo nguyên tắc hệ
thống tổ chức Cơ quan điều tra được quy định như sau:
– Cơ quan điều tra của Công an nhân dân điều tra tất cả các tội phạm, trừ
những tội phạm thuộc thẩm quyền điều tra của Cơ quan điều tra trong Quân đội
nhân dân và Cơ quan điều tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao. (khoản 1 Điều
163)
– Cơ quan điều tra trong Quân đội nhân dân điều tra các tội phạm thuộc
thẩm quyền xét xử của Tòa án quân sự. (khoản 2 Điều 163)
– Cơ quan điều tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Cơ quan điều tra Viện
kiểm sát quân sự trung ương điều tra tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp, tội
phạm về tham nhũng, chức vụ quy định tại Chương XXIII và Chương XXIV
của Bộ luật Hình sự xảy ra trong hoạt động tư pháp mà người phạm tội là cán
bộ, công chức thuộc Cơ quan điều tra, Tòa án, Viện kiểm sát, cơ quan thi hành
án, người có thẩm quyền tiến hành hoạt động tư pháp. (khoản 3 Điều 163)
Hai là, về thẩm quyền điều tra vụ án hình sự tuân theo nguyên tắc lãnh thổ
được quy định như sau:
– Cơ quan điều tra có thẩm quyền điều tra những vụ án hình sự mà tội phạm
xảy ra trên địa phận của mình. (khoản 4 Điều 163)
– Trường hợp tội phạm được thực hiện tại nhiều nơi khác nhau hoặc không
xác định được địa điểm xảy ra tội phạm thì việc điều tra thuộc thẩm quyền của
Cơ quan điều tra nơi phát hiện tội phạm, nơi bị can cư trú hoặc bị bắt. (khoản 4
Điều 163)
11


Ba là, về thẩm quyền điều tra vụ án hình sự tuân theo nguyên tắc phân cấp
điều tra, được quy định như sau: Cơ quan điều tra cấp nào thì điều tra các vụ án
hình sự thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án nhân dân ngang cấp tương đương,
đồng thời các Cơ quan điều tra cấp trên còn có thể điều tra những vụ án hình sự

thuộc thẩm quyền điều tra của Cơ quan điều tra cấp dưới, nếu xét thấy cần thiết
và pháp luật có quy định; cụ thể:
– Cơ quan điều tra cấp huyện, Cơ quan điều tra quân sự khu vực điều tra vụ
án hình sự về những tội phạm thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án nhân dân cấp
huyện, Tòa án quân sự khu vực; (điểm a khoản 5 Điều 163 BLTTHS năm 2015)
– Cơ quan điều tra cấp tỉnh điều tra vụ án hình sự về những tội phạm thuộc
thẩm quyền xét xử của Tòa án nhân dân cấp tỉnh hoặc những vụ án thuộc thẩm
quyền điều tra của Cơ quan điều tra cấp huyện xảy ra trên địa bàn nhiều huyện,
quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh, thành phố thuộc thành phố trực thuộc trung
ương, phạm tội có tổ chức hoặc có yếu tố nước ngoài nếu xét thấy cần trực tiếp
điều tra; (điểm b khoản 5 Điều 163 BLTTHS năm 2015)
– Cơ quan điều tra quân sự cấp quân khu điều tra vụ án hình sự về những tội
phạm thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án quân sự cấp quân khu hoặc những vụ
án thuộc thẩm quyền điều tra của Cơ quan điều tra cấp khu vực nếu xét thấy cần
trực tiếp điều tra; (đoạn 2 điểm b khoản 5 Điều 163 BLTTHS năm 2015)
Đặc biệt, Cơ quan điều tra Bộ Công an, Cơ quan điều tra Bộ Quốc phòng
điều tra những vụ án hình sự về tội đặc biệt nghiêm trọng do Hội đồng Thẩm
phán Tòa án nhân dân tối cao hủy để điều tra lại; vụ án hình sự về tội phạm đặc
biệt nghiêm trọng, phức tạp liên quan đến nhiều tỉnh, thành phố trực thuộc trung
ương, vụ án hình sự về tội phạm đặc biệt nghiêm trọng, phức tạp liên quan đến
nhiều quốc gia nếu xét thấy cần trực tiếp điều tra. (điểm c khoản 5 Điều 163
BLTTHS năm 2015).
Như vậy, các Cơ quan điều tra chỉ được thực hiện việc điều tra khi thỏa mãn
đầy đủ cả ba tiêu chí nêu trên. Từ những quy định nói trên của BLTTHS năm
2015 cũng cho thấy, thẩm quyền điều tra của Cơ quan điều tra cấp tỉnh bị thu
12


hẹp lại, thể hiện rõ như sau: Theo quy định của BLTTHS năm 2003 thì bất kỳ
vụ án nào thuộc thẩm quyền điều tra của Cơ quan điều tra cấp dưới, nhưng nếu

xét thấy cần trực tiếp điều tra thì Cơ quan điều tra cấp tỉnh cũng đều có quyền
rút lên để tiến hành điều tra.
Tuy nhiên, BLTTHS năm 2015 đã quy định rõ ràng việc Cơ quan điều tra
cấp tỉnh chỉ có thể rút lên để tiến hành điều tra đối với những vụ án thuộc thẩm
quyền của Cơ quan điều tra cấp huyện xảy ra trên địa bàn nhiều huyện, quận, thị
xã, thành phố thuộc tỉnh, thành phố thuộc thành phố trực thuộc trung ương,
phạm tội có tổ chức hoặc có yếu tố nước ngoài nếu xét thấy cần trực tiếp điều
tra.
2.
a.

Cơ sở thực tiễn.
Thuận lợi
BLTTHS năm 2015 đã quy định rõ ràng việc Cơ quan điều tra cấp tỉnh chỉ
có thể rút lên để tiến hành điều tra đối với những vụ án thuộc thẩm quyền của
Cơ quan điều tra cấp huyện xảy ra trên địa bàn nhiều huyện, quận, thị xã, thành
phố thuộc tỉnh, thành phố thuộc thành phố trực thuộc trung ương, phạm tội có tổ
chức hoặc có yếu tố nước ngoài nếu xét thấy cần trực tiếp điều tra.

b.

Khó khăn
Thẩm quyền điều tra của Cơ quan điều tra cấp tỉnh bị thu hẹp lại, thể hiện
rõ như sau: Theo quy định của BLTTHS năm 2003 thì bất kỳ vụ án nào thuộc
thẩm quyền điều tra của Cơ quan điều tra cấp dưới, nhưng nếu xét thấy cần trực
tiếp điều tra thì Cơ quan điều tra cấp tỉnh cũng đều có quyền rút lên để tiến hành
điều tra. ở Bộ luật tố tụng 2015 thì cơ qua điều tra chỉ có thể lấy lên những vụ
án thuộc thẩm quyền của cơ quan điều tra cấp huyện, xảy ra trên nhiều huyện,
quận, thị xã trực thuộc trung ương hoặc trung ương phạm tội có tổ chức hoặc có
yếu tố nước ngoài nếu xét thấy cần thiết điều tra.


c.

Ý nghĩa

13


Thẩm quyền điều tra được quy định cụ thể rõ ràng cho các cấp do đó các vụ
án được điều tra rõ ràng hơn giảm bớt các vụ án oan sai hơn, các vụ án được
điều tra nhanh hơn.
3.

Nguyên nhân.
Việc thay đổi nhằm bảo đảm trong hoạt động điều tra hình sự, thể hiện chỉ
đạo chỉ huy tập trung thống nhất, hiệu quả, phân công cấp rành mạch và kiểm
soát chặt chẽ, kiểm tra nhanh chóng kịp thời, chính xác, khách quan, toàn diện
một cách đầy đủ, không bỏ lọt tội phạm và không xử oan sai người vô tội.

4.

Giải pháp.
Điều tra vụ án là giai đoạn mà trong đó cơ quan Điều tra tiến hành các biện
pháp cần thiết nhằm thu thập và củng cố các chứng cứ, nghiên cứu các tình tiết
của vụ án hình sự, phát hiện đầy đủ tội phạm, và người thực hiện tội phạm tội
để truy cứu trách nhiệm hình sự .Chính vì vậy các quy định của pháp luật về
thẩm quyền điều tra vụ án hình sự là một trong những quy định quan trọng ảnh
hưởng trực tiếp đến kết quả của vụ án, vì vậy cần đưa ra một số giải pháp sau
đây:
- Quy định đầy đủ, chi tiết hơn các điều luật tạo điều kiện thuận lợi cho các

cơ quan có thẩm quyền điều tra vụ án hình sự trong quá trình thực hiện áp dụng
pháp luật một cách chính xác và hiệu quả.
- Cần đưa ra các khái niệm cụ thể, rõ ràng hơn về thẩm quyền điều tra của
các cơ quan để tạo sự thống nhất trong việc hiểu cũng như áp dụng các khái
niệm vào thực tiễn của cơ quan thực hiện, tránh tình trạng đưa ra quy định pháp
luật chưa rõ ràng nên phải ban hành thêm các thông tư, văn bản hướng dẫn thi
hành.

C.

KẾT LUẬN.

14


Qua việc tìm hiểu về những điểm mới của Bộ luật tố tụng hình sự 2015 quy
định về thẩm quyền điều tra thì chúng ta đã thấy rõ được những điểm mới được
bổ sung trong bộ luật tố tụng 2015 là đúng với mục đích và nội dung mà chúng
ta đang hướng tới theo hướng đất nước đổi mới. Bộ luật tố tụng hình sự 2015
quy định cụ thể và rõ ràng hơn về thẩm quyền điều tra trong vụ án, đánh giá
được tính chất và mức độ của hành vi phạm tội một cách chính xác hơn.

Câu 3. Phân tích nguyên tắc suy đoán vô tội được quy định tại Điều 13
bộ luật tố tụng hình sự?
A.

MỞ ĐẦU.
Suy đoán vô tội là một trong những nguyên tắc cơ bản được ứng dụng rộng
rãi, trong nền khoa học pháp lí hiện đại. Hiện nay nguyên tắc suy đoán vô tội
được nhiều nhà nước coi là nguyên tắc của tố tụng hình sự, được đánh giá là

thành tựu vĩ đại về mặt pháp lý trong việc bảo vệ quyền con người.
Để tránh nhiều vụ án oan sai, nguyên tắc suy đoán vô tội của Bộ luật tố tụng
hình sự 2015 đã có nhiều điểm mới so với Bộ luật tố tụng hình sự 2003 nhằm
khắc phục những hạn chế nhất định trong việc buộc tội của tòa án. Để tìm hiểu
rõ hơn về những điểm mới đó chúng ta cùng nhau tìm hiểu về phần nội dung
của nguyên tắc suy đoán vô tội.

B.

NỘI DUNG.

1.

Cơ sở lý luận.
Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 đã kế thừa và phát triển một bước về
pháp luật tố tụng hình sự của Nhà nước ta, cụ thể hóa các quy định của Hiến
pháp năm 2013, chủ trương của Đảng về cải cách tư pháp; là công cụ pháp lý
quan trọng trong đấu tranh phòng chống tội phạm, đảm bảo lợi ích Nhà nước,

15


quyền con người, quyền công dân, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức và cá
nhân.
Nguyên tắc suy đoán vô tội thể hiện ở các nội dung sau:
1. Không ai bị coi là có tội khi chưa có bản án kết tội của Tòa án có hiệu
lực pháp luật.
Nguyên tắc suy đoán vô tội đòi hỏi bất cứ tội phạm nào cũng phải được
chứng minh theo trình tự, thủ tục do pháp luật tố tụng hình sự quy định. Quá
trình chứng minh tội phạm được thực hiện từ khi nhận được tố giác, tin báo về

tội phạm, kiến nghị khởi tố của các cơ quan, tổ chức và được thực hiện thông
qua các thủ tục khởi tố vụ án, khởi tố bị can, tiến hành các hoạt động điều tra,
kết thúc điều tra đề nghị truy tố, truy tố bằng bản cáo trạng và tiến hành xét xử,
điều tra công khai tại phiên tòa. Nếu có căn cứ để kết tội thì Tòa án sẽ ra bản án
kết tội. Trong trường hợp Bản án kết tội không bị kháng cáo, kháng nghị thì bản
án đó có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Trong trường hợp bản án kết tội có kháng cáo hoặc kháng nghị thì bản án đó
chưa có hiệu lực pháp luật và vụ án bắt buộc phải được xét xử theo thủ tục phúc
thẩm. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày Hội đồng xét xử tuyên
án.
Một người chỉ bị coi là có tội khi có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực
pháp luật. Cần lưu ý thuật ngữ người “Bị coi là có tội” khác với thuật ngữ
“Người phạm tội”. Trong pháp luật hình sự thuật ngữ “Người phạm tội” dùng
để chỉ người đã thực hiện hành vi được luật hình sự quy định là tội phạm, hành
vi của người đó đã cấu thành tội phạm. Thuật ngữ “Người phạm tội” chỉ một
thực tế khách quan là một người đã thực hiện tội phạm chứ không tùy thuộc vào
nhận định chủ quan của các cơ quan áp dụng pháp luật.
Các cơ quan áp dụng pháp luật có thể nhận định đúng thực tế khách quan,
tức là nhận thức đúng người phạm tội, tiến hành khởi tố, truy tố và kết án người
phạm tội, nhưng cũng có thể nhận định không đúng thực tế khách quan đó, dẫn
đến tình trạng bỏ lọt tội, tuyên bố một người phạm tội là người vô tội v.v…Với
16


cách hiểu thuật ngữ “Người phạm tội” như vậy chúng ta mới có thể lý giải tinh
thần các quy phạm khác có liên quan.
Ví dụ: Việc miễn trách nhiệm hình sự (Điều 25 BLHS) chỉ có thể áp dụng
đối với người phạm tội khi có những điều kiện nhất định. Khi quyết định miễn
trách nhiệm hình sự đối với một người cụ thể, các cơ quan có thẩm quyền đã
phải chứng minh được người được miễn trách nhiệm hình sự là người phạm tội.

Người phạm tội có thể không bị kết án bằng bản án kết tội của Tòa án nếu thời
điểm phát hiện ra tội phạm đã hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc
họ được miễn trách nhiệm hình sự.
Trong những trường hợp đó, người phạm tội không bị coi là có tội. Trong
trường hợp người phạm tội bị Tòa án kết tội bằng một bản án và bản án đó có
hiệu lực pháp luật thì người phạm tội là người “Bị coi là có tội”. Thuật ngữ
“Người phạm tội” và “Người bị coi là có tội” là hai thuật ngữ khác nhau. Người
phạm tội là người thực hiện một hành vi được luật hình sự quy định là tội phạm,
còn người bị coi là có tội là người bị Tòa án kết tội bằng một bản án và bản án
đó đã có hiệu lực pháp luật. Như vậy, người phạm tội có thể không phải chịu
trách nhiệm hình sự, không bị coi là có tội, còn người bị coi là có tội tức là
người phạm tội đã phải chịu một hậu quả pháp lý trước Nhà nước về việc thực
hiện hành vi phạm tội của mình, chịu sự lên án của Nhà nước mà Tòa án là
người đại diện, thông qua việc áp dụng luật hình sự, kết tội người phạm tội.
Vấn đề đặt ra là Điều 72 Hiến pháp và Điều 9 BLTTHS nước ta đều quy
định: “Không ai bị coi là có tội và phải chịu hình phạt khi chưa có bản án kết tội
của Toà án đã có hiệu lực pháp luật.” Theo chúng tôi, quy định này cần được
xem xét lại. Bởi vì, một người bị coi là có tội thì có thể phải chịu hình phạt nếu
bản án kết tội của Tòa án đối với người đó có quyết định hình phạt, nhưng một
người bị coi là có tội cũng có thể không phải chịu hình phạt nếu bản án kết tội
của Tòa án có tuyên miễn hình phạt đối với người đó. Như vậy, suy đoán vô tội
chỉ bao hàm nội dung suy đoán một người không bị coi là có tội khi chưa có bản
án kết tội của Tòa án có hiệu lực pháp luật chứ không cần phải có thêm việc suy
17


đoán một người không phải chịu hình phạt khi chưa có bản án kết tội của Tòa án
đã có hiệu lực pháp luật. Hình phạt là do Tòa án quyết định.
Một người sẽ không phải chịu hình phạt nếu trong bản án kết tội của Tòa án
đối với người đó tuyên miễn hình phạt chứ không phải là đối với người đó

không có bản án kết tội. Nếu muốn khẳng định bản án kết tội của Tòa án có hiệu
lực pháp luật là cơ sở để Tòa án quyết định hình phạt 9 điều này không thuộc
nội dung suy đoán vô tội) thì tại Điều 72 của Hiến pháp và Điều 9 của BLTTHS
cần được sửa đổi theo hứng: “Không ai có thể bị coi là có tội cũng như phải
chịu hình phạt khi chưa có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật”.
2. Người bị tình nghi, bị can, bị cáo không có nghĩa vụ chứng minh sự vô
tội của mình. Nghĩa vụ chứng minh tội phạm thuộc trách nhiệm của các cơ
quan tiến hành tố tụng.
Tại Điều 10 BLTTHS quy định về nguyên tắc xác định sự thật của vụ án
như sau: “Trách nhiệm chứng minh tội phạm thuộc về các cơ quan tiến hành tố
tụng. Bị can, bị cáo có quyền nhưng không buộc phải chứng minh là mình vô
tội”.
Theo chúng tôi, thực chất, quy định trên không thuộc nội dung nguyên tắc
xác định sự thật của vụ án mà thuộc về nội dung của nguyên tắc suy đoán vô tội.
Bởi vì, cùng với việc khẳng định một người không thể bị coi là có tội khi chưa
có bản án kết tội của Tòa án có hiệu lực pháp luật thì cũng có nghĩa thừa nhận
người bị buộc tội không có nghĩa vụ phải chứng minh sự vô tội của mình.
Để xác định một người là người phạm tội, trên cơ sở đó tiến hành truy cứu,
áp dụng trách nhiệm hình sự đối với người đó, các cơ quan tiến hành tố tụng
(Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án) phải chứng minh được người đó là
người thực hiện hành vi bị luật hình sự coi là tội phạm. Nếu không chứng minh
được một người đã thực hiện tội phạm thì không thể kết tội người đó.
Trên thực tế, có thể một người đã thực hiện tội phạm. Về khách quan, họ là
người phạm tội, nhưng nếu không chứng minh được người đó đã thực hiện hành
vi được luật hình sự coi là tội phạm, thì các cơ quan tiến hành tố tụng cũng
18


không thể truy cứu, áp dụng trách nhiệm hình sự đối với người đó. Chứng minh
tội phạm là một quá trình. Quá trình đó diễn ra ở cả giai đoạn điều tra, giai đoạn

truy tố và giai đoạn xét xử. Quyền và trách nhiệm chứng minh tội phạm không
chỉ thuộc về Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát mà còn thuộc về Tòa án.
Hiện nay, có ý kiến cho rằng trách nhiệm chứng minh tội phạm chỉ thuộc về
Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát, còn Tòa án với chức năng xét xử thì không
có trách nhiệm chứng minh. Chúng tôi cho rằng quan điểm này không phù hợp.
Đúng là Tòa án có chức năng xét xử, nhưng khác với các nước theo mô hình tố
tụng tranh tụng, trong đó bên buộc tội và gỡ tội tranh tụng về những vấn đề liên
quan để chứng minh hay bác bỏ tội phạm của phía bên kia, trong đó Tòa án
không tham gia vào việc thẩm vấn cùng với bên buộc tội hay bên gỡ tội mà
đứng trung gian như người trọng tài phân xử.
Ở Việt Nam, mô hình tố tụng là mô hình thẩm vấn. Tại phiên tòa, Tòa án
tham gia vào việc thẩm vấn bị cáo và những người tham gia tố tụng, áp dụng
các biện pháp do pháp luật quy định để chứng minh làm rõ bị cáo phạm tội hay
không phạm tội; nếu phạm tội thì phạm tội gì, theo điều khoản nào của Bộ luật
hình sự. Trên cơ sở đó mới ra phán quyết, kết tội, quyết định hình phạt đối với
họ. Như vậy, theo pháp luật tố tụng hình sự nước ta, Tòa án cũng có tham gia
vào việc chứng minh tội phạm.
Người bị tình nghi (bị bắt giữ trước khi khởi tố bị can), bị can, bị cáo có
quyền nhưng không có nghĩa vụ chứng minh sự vô tội của mình. Điều này có
nghĩa, người bị bắt giữ, bị can, bị cáo có quyền đưa ra các chứng cứ để chứng
minh mình không phạm tội.
Ví dụ: Chứng minh mình vô tội bằng việc đưa ra chứng cứ về thời gian xảy
ra vụ việc mình không ở đó và không thể thực hiện hành vi phạm tội hoặc đưa
ra chứng cứ chứng minh có người khác, chứ không phải mình, đã thực hiện tội
phạm… Song, vì lý do nào đó, người bị bắt giữ, bị can, bị cáo cũng có thể từ
chối chứng minh sự vô tội của mình thì các cơ quan tiến hành tố tụng cũng
không thể coi họ là người phạm tội.
19



Hiện nay, pháp luật tố tụng hình sự nước ta không quy định cụ thể nhưng đã
mặc nhiên thừa nhận quyền im lặng của người bị bắt, bị tạm giữ, bị can, bị cáo.
Bởi lẽ, theo các quy định của pháp luật hình sự, việc người bị bắt, bị tạm giữ, bị
can, bị cáo không khai nhận hành vi phạm tội của mình thì cũng không phải
chịu trách nhiệm hình sự về tội từ chối khai báo theo quy định tại Điều 308
BLHS và cũng không bị coi là có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự theo
quy định tại Điều 48 BLHS. Trong trường hợp bị can, bị cáo thành khẩn khai
báo thì lại được coi là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, thậm chí trong
giai đoạn điều tra họ không khai báo hoặc khai báo gian dối nhưng tại phiên tòa
lại thành khẩn khai báo thì họ vẫn được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm
hình sự là “thành khẩn khai báo” theo quy định tại điểm p khoản 1 Điều 46
BLHS. Trường hợp bị cáo khai báo gian dối thì họ cũng không phải chịu trách
nhiệm hình sự về tội khai báo gian dối theo quy định tại Điều 307 BLHS.
Mặc dù với những quy định trên, có thể thấy rằng pháp luật tố tụng hình sự
nước ta đã thừa nhận quyền im lặng của người bị tình nghi, bị can, bị cáo. Song,
một trong những bảo đảm để bảo vệ quyền con người trong tố tụng hình sự là
các quy định của pháp luật tố tụng càng đơn giản, dễ hiểu và được thông tin đến
người dân đầy đủ bao nhiêu càng tốt bấy nhiêu để tránh sự lạm dụng của những
người có thẩm quyền tiến hành tố tụng. Bởi vậy, chúng tôi cho rằng BLTTHS
cũng cần được sửa đổi theo hướng quy định cụ thể về quyền im lặng của người
bị bắt giữ, bị can, bị cáo và nghĩa vụ của người có thẩm quyền bắt giữ, khởi tố
bị can trong việc giải thích cho người bị bắt giữ, bị khởi tố bị can về quyền im
lặng của họ.
3. Mọi nghi ngờ trong quá trình chứng minh tội phạm của người bị tình
nghi, bị can, bị cáo nếu không được loại trừ theo trình tự, thủ tục do Bộ luật
tố tụng hình sự quy định thì phải được giải thích có lợi cho người bị tình
nghi, bị can, bị cáo.
Nguyên tắc suy đoán vô tội đòi hỏi sự buộc tội phải dựa trên những chứng
cứ xác thực không còn nghi ngờ. Mọi sự nghi ngờ đối với người bị bắt giữ, bị
20



can, bị cáo đều phải được kiểm tra, chứng minh làm rõ. Nếu không chứng minh
làm rõ được sự nghi ngờ thì sự nghi ngờ đối với người bị bắt giữ, bị can, bị cáo
phải được giải thích để áp dụng pháp luật theo hướng có lợi cho họ. Ví dụ, nghi
ngờ một người là người phạm tội nhưng không chứng minh được họ phạm tội
thì phải coi họ là người vô tội; nghi ngờ một người phạm tội nặng nhưng không
chứng minh được họ phạm tội nặng mà chỉ có cơ sở xác định họ hành vi của họ
thỏa mãn dấu hiệu của cấu thành tội phạm nhẹ hơn thì phải coi là họ phạm tội
nhẹ hơn…
Mục đích của tố tụng hình sự là tội phạm phải được phát hiện và xử lý theo
quy định của pháp luật, không làm oan người vô tội, không bỏ lọt tọi phạm và
người phạm tội. Tuy nhiên, trong thực tế, có thể xảy ra tình huống các chứng cứ
buộc tội yếu, cả hai khả năng oan và lọt cùng song song tồn tại mặc dù các cơ
quan tiến hành tố tụng đã áp dụng tất cả các biện pháp cần thiết mà pháp luật
quy định. Trong trường hợp này, nguyên tắc suy đoán vô tội đòi hỏi phải thực
hiện theo hướng “Thà bỏ lọt tội phạm còn hơn làm oan người vô tội”.
Tóm lại, với những phân tích trên, chúng tôi đề xuất sửa đổi, bổ sung Điều 9
BLTTHS hiện hành theo hướng sửa tiêu đề của nguyên tắc “Không ai bị coi là
có tội khi chưa có bản án kết tội của Toà án đã có hiệu lực pháp luật” thành
nguyên tắc “Suy đoán vô tội” với nội dung như sau:
“1. Không ai bị coi là có tội khi chưa có bản án kết tội của Tòa án có hiệu
lực pháp luật.
2. Người bị tình nghi, bị can, bị cáo không có nghĩa vụ chứng minh sự vô
tội của mình. Nghĩa vụ chứng minh tội phạm thuộc trách nhiệm của các cơ
quan tiến hành tố tụng.
3. Mọi nghi ngờ trong quá trình chứng minh tội phạm của người bị tình
nghi, bị can, bị cáo nếu không được loại trừ theo trình tự, thủ tục do Bộ luật tố
tụng hình sự quy định thì phải được giải thích có lợi cho người bị tình nghi, bị
can, bị cáo”.


21


2.

Cơ sở thực tiễn.
Theo quy định của BLTTHS, thời kỳ buộc tội và thời kỳ kết tội là hai giai
đoạn tố tụng khác nhau. Buộc tội thuộc giai đoạn “Truy tố”, quy định tại
Chương XVIII, còn kết tội là giai đoạn “Xét xử vụ án hình sự” quy định tại
Chương XX của BLTTHS.
BLTTHS năm 2015 có 27 nguyên tắc cơ bản, trong đó Điều 13 quy định:
“Nguyên tắc suy đoán vô tội” với nội dung: “Người bị buộc tội được coi là
không có tội cho đến khi được chứng minh theo trình tự, thủ tục do Bộ luật này
quy định và có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật. Khi không đủ
và không thể làm sáng tỏ căn cứ để buộc tội, kết tội theo trình tự, thủ tục do Bộ
luật này quy định thì cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải kết
luận người bị buộc tội không có tội”.
Theo quy định tại Điều 13 nêu trên, nhóm chúng tôi nhận thấy có một số
vấn đề cần quan tâm. Trước hết, điều luật có cụm từ “buộc tội” và cụm từ “kết
tội” với ý nghĩa khác nhau. “Buộc tội” nói chung là hoạt động của cơ quan Nhà
nước, của người có thẩm quyền theo quy định của pháp luật kết luận người đã
thực hiện hành vi mà BLHS quy định là tội phạm. Trong hoạt động tố tụng hình
sự thì VKSND, VKSQS là cơ quan buộc tội bằng cách ghi trong bản cáo trạng
để truy tố người bị buộc tội (bị can) ra trước Tòa án và Viện kiểm sát tham gia
phiên tòa xét xử người bị buộc tội để bảo vệ cáo trạng. Còn “kết tội” được hiểu
theo Từ điển Tiếng Việt là Tòa án ra bản án tuyên bố người bị buộc tội là phạm
tội theo quy định của BLHS.
Theo quy định của BLTTHS, thời kỳ buộc tội và thời kỳ kết tội là hai giai
đoạn tố tụng khác nhau. Buộc tội thuộc giai đoạn “Truy tố”, quy định tại

Chương XVIII, còn kết tội là giai đoạn “Xét xử vụ án hình sự” quy định tại
Chương XX của BLTTHS.
Trong thực tế hoạt động tố tụng hình sự có nhiều người bị buộc tội, bị truy
tố trước Tòa án nhưng Tòa án không kết tội, bản án của Tòa án đã tuyên bố
người bị buộc tội không phạm tội như cáo trạng đã truy tố. Theo Báo cáo tổng
22


kết công tác Tòa án hàng năm của TANDTC thì năm 2013, Tòa án trong cả
nước tuyên án 21 người không phạm tội và năm 2015 đã tuyên án 22 người
không phạm tội. Kết quả này cho thấy, không phải người buộc tội nào cũng là
người bị kết tội.
Trong một số phiên tòa hình sự
Theo như Điều 13 của BLTTHS năm 2015 có quy định: “Người bị buộc tội
được coi là không có tội cho đến khi được chứng minh theo trình tự, thủ tục do
Bộ luật này quy định và có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật…
Quy định này được hiểu là trường hợp người bị buộc tội và có bản cáo trạng
truy tố trước Tòa án nhưng chưa có bản án có hiệu lực pháp luật thì người bị
buộc tội được suy đoán là không có tội. Nói cách khác, thời gian suy đoán vô tội
của người bị buộc tội là từ thời điểm Viện kiểm sát buộc tội đến thời điểm bản
án kết tội của Tòa án có hiệu lực pháp luật. Bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu
lực pháp luật có thể là bản án sơ thẩm hoặc bản án phúc thẩm.
Tuy nhiên, trong thực tế có người bị buộc tội đã có bản án có hiệu lực pháp
luật nhưng người bị kết án đó vẫn được quyền suy đoán là mình vô tội, đó là khi
họ bị kết án oan.
Ví dụ 1: Ông Nguyễn Thanh Tuy ở Hà Nội bị kết tội trốn thuế theo Bản án
hình sự phúc thẩm số 706/2014/HSPT ngày 9/9/2014 của TAND TP. Hà Nội,
với hành vi trốn thuế môn bài, thuế VAT và thuế thu nhập doanh nghiệp. Nhưng
sự thật là ông Tuy không kinh doanh, không sản xuất buôn bán, không phải là
đối tượng nộp ba loại thuế trên. Sự thật ông Tuy là người hưu trí, kinh tế khó

khăn nên bớt một phần diện tích nhà ở là 21m2 để cho thuê lấy tiền phụ thêm để
bảo đảm cuộc sống. Vì thế, ông Tuy vẫn kêu oan.
VÍ dụ 2: Ông Huỳnh Văn Nén ở Bình Thuận bị kết án tù chung thân về tội
giết người, cướp tài sản từ ngày 31/8/2000, đến ngày 10/10/2015, kẻ giết bà
Bông và cướp tài sản là Nguyễn Thọ mới bị phát hiện và bắt giữ. Trong thời
gian bị Tòa kết án và bản án có hiệu lực pháp luật, ông Nén và người biết sự
việc là ông Nguyễn Thận luôn cho rằng, ông Nén bị kết tội oan và kiên trì kêu
23


oan. Suy đoán vô tội của ông Nén và ông Thận là đúng nên ông Huỳnh Văn Nén
đã được minh oan.
Thông qua hai ví dụ trên nhóm chúng em mong rằng, các cơ quan tiến hành
tố tụng có thẩm quyền khẩn trương giải quyết các đơn kêu oan, theo đúng
nguyên tắc “Suy đoán vô tội” để nguyên tắc này đi vào cuộc sống một cách hiệu
quả.
Có thể nhận định rằng, suy đoán vô tội là một nguyên tắc tiến bộ. Nguyên
tắc này bảo vệ chính sách nhân đạo của pháp luật hình sự và lợi ích của người bị
truy cứu trách nhiệm hình sự là khi cơ quan tiến hành tố tụng không chứng
minh được hành vi phạm tội thì phải suy đoán theo hướng ngược lại. Ngoài ra,
nguyên tắc suy đoán vô tội cũng đặt ra yêu cầu cao hơn cho những người tiến
hành tố tụng trong việc chứng minh tội phạm: Họ không thể làm sai mà vẫn áp
đặt ý chí chủ quan để kết tội nghi can. Hơn nữa, nguyên tắc này đảm bảo tính
pháp chế trong Bộ luật TTHS.
*Ý nghĩa của nguyên tắc suy đoán vô tội trong Bộ luật tố tụng hình sự
năm 2015
Thứ nhất, nguyên tắc suy đoán vô tội đáp ứng yêu cầu chứng minh
Chứng minh trong tố tụng hình sự là hoạt động cực kỳ phức tạp, không
chỉ là những hành vi khách quan, những hậu quả thực tế mà còn cả những yếu
tố tâm lý của người phạm tội. Mọi sai lầm trong chứng minh nhiều khi có thể

phải trả giá bằng sinh mệnh của con người.
Do đó, nếu chỉ chứng minh theo hướng suy đoán có tội thì rất dễ dẫn đến
việc coi tố tụng hình sự chỉ đơn thuần là việc bắt người và ra bản án kết tội kèm
theo những hình phạt cụ thể. Việc định kiến người bị tình nghi, bị can, bị cáo là
người có tội kéo theo đó là việc áp dụng các biện pháp cưỡng chế tố tụng tràn
lan, thiếu căn cứ, chà đạp lên quyền con người mà nhiều trường hợp khi vụ án
được xem xét lại thì họ hoàn toàn vô tội. Lúc đó, có bồi thường oan sai đi chăng
nữa thì hậu quả đối với họ không thể nói là đã bù đắp được toàn bộ.

24


Thứ hai, nguyên tắc suy đoán vô tội còn bảo vệ được quyền của người
bị tình nghi, bị can, bị cáo.
Hoạt động tố tụng hình sự bao gồm hai nhiệm vụ: Bảo vệ xã hội chống
lại hành vi xâm hại từ phía tội phạm và bảo vệ cá nhân người bị buộc tội chống
lại sự xâm hại quyền con người từ phía công quyền.
Suy đoán vô tội còn đem đến sự cân bằng trong hoạt động tố tụng hình
sự giữa một bên là Nhà nước với bộ máy điều tra, truy tố, xét xử hùng mạnh
được hậu thuẫn bằng quyền lực Nhà nước với một bên yếu thế hơn là người bị
tình nghi, bị can, bị cáo. Như vậy, không chỉ là quyền của người bị buộc tội,
nghĩa vụ của bên buộc tội, thể hiện giá trị của văn minh nhân loại trong việc bảo
vệ quyền con người, suy đoán vô tội còn phù hợp với quy luật của nhận thức
trong tố tụng hình sự.
Giảm bớt tình trạng kéo dài thời gian giải quyết vụ án do phải điều tra bổ
sung theo yêu cầu của Viện kiểm sát hoặc Tòa án, nên hồ sơ vụ án phải trả đi trả
lại nhiều lần, theo quy định tại khoản 2 Điều 174; điểm b khoản 1 Điều 240 và
Điều 280 BLTTHS năm 2015. Bảo vệ được quyền của người bị tình nghi, bị
can, bị cáo
3.


Nguyên nhân.
- Trước đây nguyên tắc suy đoán vô tội tuy chưa được quy định thành 1
điều luật cụ thể nhưng đã được ghi nhận trong một số quy đinh trong một số văn
bản pháp lí, văn bản hướng dẫn áp dụng pháp luật thừa nhận ở nhiều mức độ
khác nhau như Điều 72 Hiến pháp 1992, Điều 31 Hiến pháp 2013, BLTTHS
2003, …
- Ngoài ra, việc Hiến pháp 2013 có những quy định liên quan đến nguyên
tắc suy đoán vô tội như Hiến pháp năm 2013 (Điều 31) đã thể hiện rõ hơn về
chủ thể của nguyên tắc suy đoán vô tội là người bị buộc tội được coi là không
có tội cho đến khi được chứng minh theo trình tự luật định và có bản án kết tội
của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật. Vì vậy để phù hợp hơn với quy định của

25


×