Tải bản đầy đủ (.pdf) (4 trang)

Giải phẫu dây chằng vòng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (219.35 KB, 4 trang )

GIẢI PHẪU HỌC DÂY CHẰNG VÒNG VÀ TÁI TẠO DÂY CHẰNG VÒNG
TRONG ĐIỀU TRỊ GÃY CŨ MONTEGGIA Ở NGƯỜI LỚN
NGUYỄN VĂN THÁI
Khoa Chi Trờn BV. CTCH – TP HCM
TÓM TẮT
Tầm quan trọng về mặt giải phẫu học, lâm sàng
và chức năng của dây chằng vũng chưa được xác
định rừ ràng trong y văn chỉnh hỡnh trong khi những
cấu trỳc dõy chằng khỏc của khuỷu lại được đề cập
rất nhiều. Như chúng ta đó biết, dõy chằng vũng là
một thành phần của phức hợp dõy chằng bờn ngoài
của khuỷu. Đó là một dải vững chắc những mô có
nguyên ủy và bám tận là bờ trước và bờ sau khuyết
quay của xương trụ, giữ cho chỏm quay luôn tiếp xúc
với xương trụ trong mọi trạng thái. Để hiểu rừ hơn về
dây chằng vũng, một nghiờn cứu phẫu tớch trờn xỏc
đó được tiến hành ở cả 2 tay của 15 xác cũ (9 nam, 6
nữ) và 1 xác tươi (nam) với mục đích khảo sát những
đặc điểm giải phẫu học của dây chằng vũng và mối
liờn hệ với những cấu trỳc xung quanh, tầm quan
trọng về mặt lõm sàng, ghi lại chỉ số chiều cao, chiều
dài bề dày cùng sức căng của nó. Đồng thời lấy một
mảnh cân cơ duỗi chung các ngón trên xác tươi đo
sức căng và xác định sự lựa chọn nó để tái tạo dây
chằng vũng là đúng đắn trên 98 ca tái tạo dây chằng
vũng trong điều trị góy cũ Monteggia ở người lớn tại
khoa Chi Trên Bệnh viện Chấn thương Chỉnh hỡnh
thành phố Hồ Chớ Minh.
Từ khoỏ: Dõy chằng vũng, góy cũ Monteggia
SUMMARY
ANNULAR LIGAMENT: ANATOMY AND


RECONSTRUCTION FOR OLD MONTEGGIA
FRACTURE IN ADULT
Despite ligamentous documentations structures

of
the elbow, the anatomy as well as the clinical and
functional importance

of the annular ligament has not
been well defined

in the orthopaedic literature. As we
know the annular ligament is a component of the
lateral collateral ligament complex. It is a strong band
of fibers attaching to the anterior and posterior
margins of the ulna’s radial notch, retaining the radial
head in contact with the ulna in all situations. To
investigate the annular ligament and

its relationship
with neighboring structures, a study was performed
on both upper extremities

of 15 cadavers (9 males
and 6 females) and of a fresh cadaver (male). In this
study the length, the height and the thickness of the
annular ligament were documented. At the same
time, we also took the fascia of the extensor
digitorum of the fresh cadaver to examine its tension.
This approved the choice of this tendon for annular

ligament reconstruction of 98 cases diagnosed old
Monteggia fractures at the Upper Limb Surgery
Department of the hospital for Traumatology and
Orthopaedics in Ho Chi Minh city.
Từ khoỏ: annular, ligament, old monteggia
fractivies.
MỞ ĐẦU
Dõy chằng vũng là một thành phần trong phức
hợp dõy chằng bờn ngoài của khuỷu. Phức hợp dõy
chằng bờn ngoài bao gồm dõy chằng bờn quay, dõy
chằng trụ ngoài, dõy chằng phụ và dõy chằng vũng.
Về cấu trỳc giải phẫu thỡ đây là một dải vững chắc
những mô có nguyên ủy và bám tận vào bờ trước và
sau của khuyết quay trên xương trụ tạo nên dây
chằng vũng với chức năng giữ cho chỏm xương quay
tiếp xúc với xương trụ và cùng với phức hợp dây
chằng bên ngoài tham gia vào việc giữ vững khuỷu.
Một tổn thương làm trật chỏm xương quay thỡ dõy
chằng sẽ bị tổn thương có thể đứt, rách hay căng
dón. Như vậy với việc trật chỏm quay và tổn thương
dây chằng vũng sẽ ảnh hưởng đến sự toàn vẹn của
khớp cỏnh tay quay và hệ thống dõy chằng bờn
ngoài của khuỷu, làm khuỷu mất vững, mất sấp ngửa
cẳng tay, hạn chế gập duỗi.
Khi đó khâu nối hay tái tạo dây chằng vũng là điều
cần thiết. Để khảo sát những đặc điểm giải phẫu học
của dây chằng vũng và mối liên hệ của nó với những
cấu trúc xung quanh, bàn luận tầm quan trọng để
ứng dụng lâm sàng chúng tôi tiến hành phẫu tích một
số tử thi đo độ dài, chiều cao, bề dày cùng lực căng

của nó. Qua đó ứng dụng điều trị khâu nối, tái tạo
dây chằng vũng khi nú bị tổn thương riêng rẽ hay
phối hợp với tổn thương xương khớp.
TƯ LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP
Những đặc điểm giải phẫu học của dây chằng
vũng và mối liờn hệ của nú với những cấu trỳc xung
quanh được tiến hành khảo sát cả 2 chi trên 15 xác
cũ (9 nam, 6 nữ) và một xác tươi nam.
Mẫu được cố định trong formaldehyde 10%.
Giai đoạn đầu cắt bỏ cân cơ cánh tay và cân cơ
cánh tay trước. Nhờ vậy chỗ bám tận của cơ duỗi
quanh mỏm trên lồi cầu ngoài được bộc lộ. Cắt bỏ
các cơ duỗi nông để lại nguyên ủy ngắn của chúng ở
mỏm trên lồi cầu ngoài và vách gian cơ ngoài. Cơ
ngửa giữ nguyên để quan sát mối liên hệ của nó với
những cơ duỗi khác, gân cơ duỗi được cắt đi để
khảo sát mối liên hệ giữa dây chằng vũng, dõy chằng
bờn quay và xương trụ.
KẾT QUẢ PHẪU TÍCH
Cơ duỗi bắt đầu tại hoặc quanh mỏm trên lồi cầu
ngoài, nâng đỡ dây chằng bên quay. Những cơ này
được gắn vào một cấu trúc vững chắc, cấu trúc này
cùng nâng đỡ cổ xương quay và chỏm quay. Khi cắt
đi các gân duỗi nông thỡ thấy một cấu trỳc vững chắc
tạo nền trắng và búng của cơ ngửa.
Y HỌC THỰC HÀNH (644+645) - SỐ 2/2009
1
Sau khi cơ duỗi nông được cắt đi để lại phần
nguyên ủy ngắn của cơ ngửa cũn nguyờn vẹn đó là
một cấu trúc sợi và phần kéo dài của vách gian cơ

ngoài tiếp xuống cẳng tay. Cơ duỗi bắt đầu tại đây và
liên quan mật thiết với cấu trúc gân trên cơ ngửa.
Trong động tác sấp ngửa chúng di chuyển về phía
trong để hỗ trợ thụ động.
Hỡnh 1: bộc lộ dõy chằng
vũng
Cắt phần cơ ngửa ta
quan sát thấy có những sợi
cơ hoạt động chủ động
được gắn vào dây chằng
vũng. Cắt cơ ngửa bộc lộ
phần đính vào dây chằng
bên quay, dây chằng vũng
và xương trụ .(Hỡnh 1)
Hỡnh 2

Hỡnh 3: dõy chằng được
tách khỏi chỏm quay
Cắt dõy chằng vũng sẽ
thấy phần đính vào mào
trụ, nằm ở mặt sau ngoài
mào cơ ngửa. Một số sợi
của dây chằng trụ bên
ngoài hũa lẫn vào dõy
chằng bờn quay, một số
sợi kộo dài ngang qua
hỡnh chữ thập. Những sợi
bắt ngang dõy chằng vũng
hỡnh chữ thập kộo dài
xuống phớa dưới bám vào

xương trụ. (Hỡnh 2)
Tiếp tục cắt sẽ thấy
dõy chằng vũng đính vào
mặt dưới xương trụ bởi
một cấu trúc dày và duy
nhất .(Hỡnh 3)
Giai đoạn cuối cựng của quỏ trỡnh phẫu tớch,
dõy chằng vũng được cắt đi cùng bao khớp và phần
dày của bao khớp xung quanh khớp cánh tay quay.
Qua phẫu tích 15 trường cả 2 tay (15 xác cũ) có 9
nam, 6 nữ chúng tôi đó lấy dõy chằng vũng ra và tiến
hành đo đạc cụ thể như sau:
Bảng thống kờ
Số thứ
tự (Giới
tớnh)
Tay
(P/T)
Chiều
dài
(mm)
Chiều
cao
(mm)
Độ
dày
(mm)
Chu
vi
(mm)

Chu vi
cổ
xương
quay
1 (nam)
P 42,7 19,8 0,9 66,5 46,0
T 41,9 17,0 1,0 69,6 47,0
2 (nữ)
P 47,1 14,5 1,2 65,0 42,6
T 40,0 15,5 1,0 67,5 48,0
3 (nữ)
P 41,4 15,7 1,1 61,0 43,0
T 40,6 18,6 1,0 60,7 43,4
4 (nữ)
P 45,4 14,0 1,1 66,7 47,0
T 46,6 15,0 1,1 67,5 48,8
5 (nữ)
P 44,6 16,4 0,9 60,0 39,6
T 43,7 13,4 0,7 59,2 37,5
6 (nam)
P 50,4 19,2 0,9 74,7 50,2
T 51,5 16,6 0,8 75,0 49,6
7 (nữ)
P 45,4 16,5 0,8 69,2 44,5
T 49,3 16,7 1,2 68,2 46,3
8 (nam)
P 48,9 17,7 0,8 74,0 51,4
T 48,3 15,4 1,1 76,2 50,1
9 (nam)
P 50,1 21,0 1,2 70,2 50,0

T 46,8 19,2 0,8 72,3 46,4
10
(nam)
P 51,6 21,0 0,9 74,4 56,2
T 50,3 20,2 1,1 70,7 55,3
11
(nam)
P 50,2 18,4 1,1 69,3 50,0
T 38,6 18,7 1,2 68,0 43,7
12 (nữ)
P 41,7 18,2 0,9 62,1 44,6
T 54,0 17,6 0,9 71,6 48,0
13
(nam)
P 52,0 17,6 0,8 70,0 47,5
T 52,2 20,4 0,8 68,4 45,2
14
(nam)
P 56,0 18,6 0,9 76,4 53,0
T 52,2 20,4 0,8 76,0 52,7
15
(nam)
P 58,0 19,0 0,8 75,4 51,2
T 52,2 19,4 1,2 75,1 50,5
Đo độ căng của dây
chằng: Dùng một khung
kéo có gắn đồng hồ đo
lực tính bằng kg (khung
đo do Tiến sĩ Đỗ Phước
Hùng bộ môn chấn

thương chỉnh hỡnh Đại
học Y Dược TP Hồ Chí
Minh thiết kế). (Hỡnh 4)
Hỡnh 4
Dây chằng này được lấy từ xác tươi và kết quả là
dây chịu được lực kéo là 9 kg .
Trên lâm sàng để tái tạo dây chằng vũng khoa Chi
trờn bệnh viện Chấn thương Chỉnh hỡnh thường
dùng gân cơ duỗi chung các ngón làm vật liệu, vỡ thế
chỳng tụi lấy 1 đoạn cân cơ duỗi chung trên cùng xác
tươi này đo lực căng của nó. Kết quả với 8cm chiều
dài và 17mm chiều rộng miếng cân này chịu được
lực căng là 12kg.
BÀN LUẬN
Mặc dù y văn đó cú những nghiờn cứu sõu rộng
về giải phẫu học cỏc phức hợp dõy chằng của khớp
khuỷu như dây chằng bên trong, dây chằng bên trụ
ngoài hay dây chằng bên quay nhưng dây chằng
vũng dường như chưa được quan tâm nghiên cứu
giải phẫu của nó. Do vậy nhiều nghiên cứu về bản
chất cơ sinh học của độ vững bên ngoài khuỷu đó
được thực hiện. Trong nghiên cứu của Dunning và
cộng sự, ông đó chứng minh rằng khi dõy chằng
vũng cũn nguyờn vẹn thỡ cho dự dõy chằng bờn
quay hoặc dõy chằng trụ ngoài bị cắt thỡ khuỷu cũng
khụng bị mất vững theo hướng sau ngoài .
Hơn nữa trong một nghiên cứu cơ sinh học cắt
ngang Colhen và Hasting cho thấy dây chằng vũng là
một yếu tố quan trọng trong độ vững của khuỷu.
Những kết quả của họ cho rằng sự mất vững xoay

hướng sau ngoài sau chấn thương là hậu quả yếu
hoặc đứt, vừa dây chằng vừa nguyên ủy cơ từ phía
lồi cầu ngoài xương cánh tay. Tuy nhiên Bozentka tin
rằng những trường hợp khuỷu có tiếng click kín đáo
Y HỌC THỰC HÀNH (644+645) - SỐ 2/2009
2
là do dây chằng vũng.
Trong nghiờn cứu này qua phõn tớch 16 tử thi với
32 tay của 10 nam và 6 nữ chỳng tụi thấy dõy chằng
vũng cú những đặc điểm giải phẫu học như y văn và
các tác giả nghiên cứu về nó cùng xác định dây
chằng vũng là một thành phần quan trọng của khớp
quay trụ trên và khớp cánh tay quay, cũng như là một
thành phần quan trọng của dây chằng và cơ xung
quanh.
Dõy chằng vũng là một thành phần của phức hợp
dõy chằng bờn ngoài và hoạt động cùng với dây
chằng bên quay, dây chằng trụ ngoài, dây chằng phụ
bên ngoài và cùng có mối liên hệ với cơ ngửa. Trong
một số nghiên cứu gần đây người ta thấy phần nông
của cơ ngửa hũa lẫn vào dõy chằng vũng, dõy chằng
bờn quay và bao khớp. Qua phẫu tớch ta thấy một
dải vững chắc cỏc mụ có nguyên ủy và bám tận vào
bờ trước và sau của khuyết quay của xương trụ tạo
nên dây chằng vũng và giữ cho chỏm quay tiếp xỳc
với xương trụ. Đóng góp 4/5 sự tạo nên vũng sợi
xương.
Khi phẫu tích chúng tôi đó khảo sỏt chiều dài của
dõy chằng vũng, chiều cao, độ dày cùng với chu vi
của vành quay và cổ xương quay. Kết quả đó được

ghi nhận trên bảng tổng kết ở cả 2 tay của 15 xác cũ
với nhận xét như sau :
Trên cùng một cá thể chiều dài dây chằng 2 bên
hầu như không giống nhau và cũng không nhất thiết
tỉ lệ thuận với chu vi vành quay và cổ xương quay,
thậm chí nhiều ca cũn tỉ lệ nghịch với nhau, chiều dày
và chiều cao từng bờn cũng thế. Nghĩa là khụng cú
một quy tắc nào nhất định. Chúng tôi chỉ nghĩ rằng có
sự khác biệt này có thể là do tay thuận với tay không
thuận, sự sử dụng sấp ngửa cả hai tay trên một
người có sự khác nhau. Đây cũng chỉ là sự suy luận
vỡ tất cả mẫu nghiờn cứu đều là tử thi không thể
kiểm nghiệm. Tuy nhiên các chỉ số đo được kể trên
đều thấy ở nam lớn hơn nữ mặc dù không đáng kể.
Lực căng của dõy chằng vũng tuy chỉ cú một trường
hợp xác tươi được đo đạc thỡ lực căng là 9 kg.
Với cỏc chỉ số về dõy chằng vũng đo được trên
15 xác cả hai tay chúng tôi đó xử lý cỏc dữ kiện này
bằng ước lượng trung bỡnh trong toỏn học và cú kết
quả như sau:
Chiều dài trung bỡnh của một DCV là 47,77 ±
1,89 mm
Chiều rộng trung bỡnh là 15,59 ± 0,78 mm
Bề dày của dõy chằng là 0,97 ± 0,16 mm
Chu vi cổ xương quay là 47,64 ± 5,14 mm
Chu vi vành quay là 69,36 ± 5,14 mm
Kết quả trên chỉ là một tổng kết với số mẫu quá ít
chưa cú ý nghĩa thống kờ, nhưng chúng tôi cũng thấy
rằng đây là một gợi ý cho phộp ta chọn lựa cỏc cõn
cơ thay thế dây chằng vũng khi cần phải tỏi tạo nú.

ỨNG DỤNG LÂM SÀNG
Tại khoa chi trên bệnh viện chấn thương chỉnh
hỡnh từ thỏng 1994 đến nay để điều trị góy
Monteggia chúng tôi đó dựng cõn cơ duỗi chung các
ngón có cuống để tái tạo dây chằng vũng ở 98
trường hợp góy cũ. Góy Monteggia là loại góy gồm
nhiều tổn thương đó là góy xương trụ (có thể góy cả
xương quay trong phõn loại Bado IV). Trật chỏm quay
tức là trật khớp quay trụ trên và khớp cánh tay quay,
tổn thương dây chằng vũng (cú thể rỏch, dón, đứt) và
cuối cùng là rách màng liên xương. Với các tổn
thương này thỡ đây là loại góy rất khụng vững, nắn
xương cố định không tốt sẽ trật lại xương và trật lại
chỏm xương quay. Làm mất vững khuỷu làm hạn chế
sấp ngửa cẳng tay, gập duỗi khuỷu, biến dạng cẳng
tay, mất chức năng lao động. Điều trị loại góy này cần
phải nắn xương thật tốt, cố định xương vững chắc và
giữ sao cho chỏm xương quay không trật trở lại.
Thường thỡ bệnh nhõn góy Monteggia đến bệnh
viện sớm chúng tôi chỉ cần mổ kết hợp xương trụ
vững chắc nắn kín chỏm xương quay là đủ, đa số là
kết quả rất tốt. Tuy vậy cũng có các trường hợp góy
xương quá phức tạp không thể nắn kín chỏm xương
quay nên phải mổ để nắn, đa phần các trường hợp
này bị đứt rách nặng dây chằng vũng và bị bao khớp
chốn chiếm chỗ chỏm xương quay. Khi phẫu thuật
cắt lấy bao khớp chèn để nắn chỏm xương sẽ làm
tổn thương thêm dây chằng vũng đôi khi không may
lại được cần phải tái tạo nó và cân cơ duỗi chung sẽ
là một chọn lựa. Trong khi các trường hợp mới phải

tái tạo dây chằng vũng là rất ớt thỡ cũn lại đa số là
các trường hợp góy cũ đều phải tái tạo dây chằng
vũng.
Góy cũ ở đây là các trường hợp góy Monteggia
từ 1 thỏng trở lờn khụng được điều trị hay điều trị
không đúng cách như bó thuốc dân gian, bó bột
không vững bị trật lại hay phẫu thuật không đúng quy
cách làm trật chỏm xương quay sau mổ.
Để điều trị góy cũ tất cả đều phải mổ nắn chỏm
xương quay, với thời gian trật chỏm lâu như vậy mô
xơ sẽ mọc đầy chiếm chỗ của chỏm quay dưới lồi
cầu ngoài và che lấp khuyết quay trên xương trụ.
Muốn nắn được chỏm xương quay thỡ tất cả cỏc mụ
xơ đều phải lấy bỏ dọn chỗ cho chỏm xương trở lại vị
trí ban đầu. Trong quá trỡnh làm sạch mụ xơ thỡ dõy
chằng vũng cựng nằm trong chỗ mụ xơ đó và sẽ bị
cắt bỏ cùng với mô xơ. Sau khi nắn chỏm xương
quay và kết hợp xương trụ vững chắc chúng tôi đó
lấy một miếng cõn của cơ duỗi chung các ngón cùng
nằm trên đường mổ xương trụ dài 11cm rộng 2cm
chừa lại cuống chỗ nó hũa vào màng xương ở mặt
sau xương trụ ngay trên khuyết quay. Đầu tự do của
miếng cân được luồn quanh cổ xương quay và may
lại bằng chỉ không tiêu ngay chỗ cuống trên xương
trụ của nó với tư thế sấp cẳng tay tối đa (đây là tư thế
mà dây chằng vũng phải căng dài nhất).
Tham khảo các tài liệu ở nước ngoài có tác giả
dùng cân cơ 3 đầu để tái tạo dây chằng vũng, chỳng
tụi thấy lấy cõn cơ này cũng chừa lại cuống ở đầu
trên xương trụ nhưng phức tạp vỡ phải mổ đường

mổ lên thân xương cánh tay để lấy cân cơ. Có tác giả
lại dung nhiều mối chỉ vũng quanh cổ xương quay và
móc vào màng xương trụ. Có tác giả lại dùng cân cơ
thẳng đùi ở dưới lên quấn quanh xương trụ và xương
Y HỌC THỰC HÀNH (644+645) - SỐ 2/2009
3
quay, làm dây chằng rời. Kỹ thuật này cũng phải mổ
thêm đường mổ ở đùi rồi đem lên trên khuỷu thao tác
khó khăn vả lại là dây chằng rời.
Như vậy cân cơ duỗi chung các ngón là một chọn
lựa tốt nhất để tái tạo dây chằng vũng trong điều trị
góy Monteggia. Vỡ nú thuận tiện là cựng một đường
mổ không tốn thêm nhiều thời gian, có cuống trên
thân xương trụ, chiều dài rộng thỡ tựy ý cú thể lấy
nhiều được và đặc biệt là lực căng của nó là 12kg
lớn hơn lực căng của dây chằng vũng, lực căng của
dây chằng vũng là 9kg. Mặc dự chỉ cú một ca được
đo nhưng kết quả này củng cố thêm cho quyết định
chọn cân cơ duỗi chung ngón để tái tạo dây chằng
vũng là hợp lý.
Với 98 bệnh nhõn góy Monteggia được điều trị từ
năm 1994 đến năm 2008 cú kết quả rất tốt là
76,53% , 15,31% tốt và khỏ là 8,16% chứng tỏ đây là
một phương pháp điều trị tốt cho góy Monteggia đặc
biệt là góy Monteggia cũ ở người lớn.
KẾT LUẬN
Qua phân tích 15 tử thi, qua các kiến thức đó
được học và tham khảo các tài liệu về giải phẫu học
thỡ dõy chằng vũng cú nhiệm vụ giữ chỏm xương
quay tiếp xúc với xương trụ cả lúc tĩnh và động nó là

một trong những thành phần làm vững khuỷu đặc biệt
là giữ vững khớp cánh tay quay và quay trụ trên giữ
cho khuỷu không bị mất vững sau ngoài. Với các dữ
liệu đo được của dây chằng vũng trờn tử thi và sức
căng của nó so với cân cơ duỗi chung ngón thỡ sự
lựa chọn cõn cơ duỗi chung ngón có cuống để tái tạo
dây chằng vũng trong điều trị góy Monteggia là một
lựa chọn đúng đắn. Kết quả của 98 ca điều trị góy
Monteggia cú tỏi tạo dõy chằng vũng bằng cõn cơ
duỗi chung ngón từ 14 năm qua tại khoa Chi Trên
bệnh viện Chấn thương Chỉnh hỡnh là một thực tế
chứng minh.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bozentka DJ. “Subluxation of the annular
ligament as a cause of elbow clicking”. J
Shoulder elbow surg. 2000; 9:67-69. [CrossRef]
[ISI] [Medline] [Order article via Infotrieve]
2. Cohen M, Hastings H. “Rotatory instability of the
elbow: the atnatomy and role of the lateral
stabilizers”. J Bone Joint Surg Am. 1997;
79:225-233. [Abstract/Free Full Text]
3. Cohen MS, Bruno RJ. “The collateral ligaments
of the elbow: anatomy and clinical correlation
Clin Orthop”. 2001; 383:123-130. [Medline]
[Order artile via Infotrieve]
4. Dunning CE, Zarzour ZDS, Patterson SD,
Johnson JA, King GJW. “Ligamentous
stabilizers”
5. Hannouche Dm Begue T. “Functional anatomy
of the lateral collateral ligament complex of the

elbow”. Sur Radiol Anat. 1999; 21:187-191. [ISI]
[Medline][Order Article via Infotrieve]
6. Imatani J, Orgura T, Morito Y, Hashizume H,
Inoue H. “Anatomic and histologic studies of
lateral collateral ligament complex of the elbow
joint”. J Shoulder Elbow Sur. 1999; 8: 625-627.
[CrossRef] [ISI] [Medline] [Order Article via
Infotrieve]
7. King GJW, Morrey BF, An KN, “Stabilizers of the
elbow”. J Shoulder Elbow Surg. 1993; 3:165-174
8. Martin BF. “The annular ligament of the superior
radio-ulnar joint”. J Anat.. 1959; 52 : 473-482
Y HỌC THỰC HÀNH (644+645) - SỐ 2/2009
4

×