Tải bản đầy đủ (.doc) (10 trang)

bài dự thi em yêu lịch sử

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (104.63 KB, 10 trang )

Câu 1: Trong cuốn Việt Nam thi văn hợp tuyển của Dương Quảng Hàm
ghi lại bài ca dao về 36 phố Hà Nội, có câu như sau :
“Rủ nhau đi khắp Long Thành
Ba mươi sáu phố rành rành chẳng sai…”
Đóng vai một hướng dẫn viên du lịch em hãy giới thiệu (khoảng 2 đến 3
trang A4) về Lịch sử 36 phố phường của Thăng Long - Hà Nội.
TRẢ LỜI
Nói đến quá trình lịch sử phát triển của “Thăng Long - Hà Nội” thì không
thể không nhắc đến khu phố cổ Hà nội. Phố cổ Hà nội là một di sản kiến trúc quí
báu mang đậm bản sắc truyền thống văn hoá của dân tộc, là niềm tự hào và xứng
đáng tượng trưng cho cốt cách linh hồn của Thủ đô ngàn năm văn hiến. Người
Việt quen gọi Hà Nội xưa là Hà Nội 36 phố phường. Cách gọi ước lệ 36 phố
phường với những cái tên mộc mạc như Hàng Gạo, Hàng Đường, Hàng Muối…
đại diện cho những mặt hàng được buôn bán nơi đây đã đi vào lòng người Việt
như là một hình ảnh đại diện cho Hà Nội xưa, rêu phong và cổ kính.
Nằm ngay cạnh hồ Hoàn Kiếm với tổng diện tích khoảng 100ha, khu phố
cổ Hà Nội bao gồm 76 tuyến phố thuộc 10 phường: phường Hàng Đào, Hàng
Bạc, Hàng Buồm, Hàng Bồ, Hàng Bông, Hàng Gai, Hàng Mã, Đồng Xuân, Cửa
Đông, Lý Thái Tổ. Được xác định bởi: phía bắc là phố Hàng Đậu; phía tây là
phố Phùng Hưng; phía nam là các phố Hàng Bông, Hàng Gai, Cầu Gỗ và Hàng
Thùng; phía đông là đường Trần Quang Khải và Trần Nhật Duật.
Mặc dù các phố cổ của Hà Nội còn nằm cả bên ngoài khu vực này, nhưng do
đây là khu vực tập trung phố cổ nhiều nhất và còn giữ được những đặc trưng nên
chỉ khu vực theo quy định trên được gìn giữ, bảo tồn là khu phố cổ.
Sau đây, mời các bạn cùng tôi tìm hiểu về lịch sử 36 phố phường của Thăng
Long – Hà Nội.
Các bạn than mến! Khu dân cư sinh hoạt và buôn bán sầm uất này đã được
hình thành từ thời Lý - Trần, nằm ở phía đông của hoàng thành Thăng Long ra
đến sát sông Hồng. Đầu đời Lê, trong sách Dư Địa Chí, Nguyễn Trãi cũng đã đề
cập đến tên một số phường nghề tại đây. Dưới thời Lê, đặt phủ Phụng Thiên
gồm hai huyện là Vĩnh Thuận và Thọ Xương, thì khu này nằm gọn trong bốn


tổng Túc của huyện Thọ Xương là Tiền Túc, Hậu Túc, Tả Túc, Hữu Túc. Bên
ngoài khu vực là vòng thành Đại La có trổ các cửa ô.
Thời Lê, giữa khu này có một số đầm hồ, lớn nhất là hồ Thái Cực. Sông Tô
Lịch nối với hào thành, các đầm hồ, thông với hồ Hoàn Kiếm và sông Hồng
cũng ở khu vực này. Đến cuối thế kỉ 19 thì các sông hồ đó hoàn toàn bị lấp,
nhưng vẫn còn để lại dấu tích qua các địa danh: Hà Khẩu, Giang Khẩu, Cầu Gỗ,
Cầu Đông.
Thời Lý - Trần, dân cư từ các làng quanh đồng bằng Bắc Bộ tụ tập về khu
vực này sinh sống, tạo thành khu phố đông đúc nhất kinh thành. Đến đời Lê, dần
dần đã có một số Hoa kiều buôn bán ở đây, hình thành nên các khu phố Tàu.
Thời Pháp thuộc, sau khi lấp toàn bộ các đầm hồ, khu phố được chỉnh trang,
người Ấn, người Pháp cũng đến đây buôn bán. Hai chợ nhỏ được giải tỏa để lập
1


chợ Đồng Xuân, Đường ray xe điện Bờ hồ - Thụy Khuê cũng chạy xuyên qua
đây.
Đặc trưng nổi tiếng nhất của khu phố cổ là các phố nghề. Thợ thủ công từ
các làng nghề quanh Thăng Long xưa tụ tập về đây, tập trung theo từng khu vực
chuyên làm nghề của mình. Các thuyền buôn có thể vào giữa phố để buôn bán
trao đổi, khiến các phố nghề càng phát triển. Và chính sản phẩm được buôn bán
trở thành tên phố, với chữ "Hàng" đằng trước, mỗi phố chuyên môn buôn bán
một loại mặt hàng. Chúng ta cùng nhau tìm hiểu về một số phố đó nhé !
Phố Hàng Mắm xưa. Đó vốn là con đường dân vạn chài gánh các loại
mắm từ bên sông Hồng vào phố Hàng Bạc và tỏa đi bán trong khu 36 phố
phường. Do mặt hàng này tỏa mùi khó chịu nên sau này, những người gánh
dừng lại bán cố định và hình thành nên con phố chuyên bán loại đặc sản này.
Trước năm 1900, phố Hàng Mắm chỉ gồm các cửa hàng bán mắm, đồ ướp và cá
khô. Đến những năm 1930, nơi đây xuất hiện thêm các cửa hàng bán vại sành,
tiểu sành, bia đá, đá mài... Ngày nay, người bán mắm đã chuyển hết vào chợ

Hàng Bè, phố Hàng Mắm giữ nguyên tên nhưng chỉ còn những cửa hàng bán
mặt hàng sành đá.
Phố Hàng Chiếu, còn được gọi là Đông Hà. Sách Đại Nam Nhất thống chí
chép: "Phố Đông Hà bán chiếu trơn". Nó giống như một đồn lũy hơn là một khu
dân cư hay thương mại. Người Hà Nội còn gọi phố này là Phố Mới do nhà cửa
đều được xây mới sau trận hỏa hoạn năm 1888. Hàng Chiếu nằm giữa Đồng
Xuân và bến sông Hồng nên luôn luôn sầm uất.
Toàn cảnh phố Chợ Gạo xưa. Gạo là nông phẩm quan trọng nhất mà
người nông dân sản xuất và cũng đáp ứng như cầu thiết yếu của toàn xã hội.
Buôn bán gạo do đó cũng trở nên sầm uất nhất ở một đô thị đang phát triển như
Hà Nội đầu thế kỷ 20. Xưa kia gạo được vận chuyển chủ yếu bằng đường sông,
vì thế chợ buôn bán gạo được đặt sát bờ sông, ngay giữa sông Hồng và chợ
Đồng Xuân đoạn qua Ô Quan Chưởng.
Hàng Bồ xưa tập trung nhiều cửa hàng của người Việt, người Hoa và cả
các hãng của Anh, Mỹ và Nhật. Tên gọi Hàng Bồ xuất phát từ việc đây là nơi
bán những chiếc bồ bằng mây tre đan.Trên con phố này một thời còn bán các
loại tranh Tàu treo ngày Tết và các loại học phẩm. Đây cũng là chốn các ông đồ
già Tết đến, trải chiếu ngồi viết chữ thuê.
Thôn Cổ Vũ ở Hà Vĩ (Thường Tín, Hà Đông) có nghề làm đồ gỗ sơn đã
lên lập nghiệp ở khu 36 phố phường Hà Nội và hình thành nên phố Hàng Hòm.
Nay dấu tích ngôi đền thờ tổ nghề gỗ sơn vẫn nằm trong phố. Xưa kia, hàng năm
người dân phố Hàng Hòm vẫn giữ ngày giỗ tổ nghề trùng với lễ hội ở làng quê
Hà Vĩ. Nhà cửa trên phố Hàng Hòm vốn đồng dạng với những phố cổ xung
quanh, nhưng trong 60 ngày đêm chiến sự cuối năm 1946 đầu 1947, nhà cửa gần
như bị phá hủy hoàn toàn, sau đó mới được xây dựng lại.
Phố Hàng Bè xưa nằm sát sông Hồng, vốn là nơi bán các bè gỗ và vật liệu
làm nhà. Mặt hàng buôn bán ở đây ngày càng mở rộng sang các loại lâm thổ sản
từ miền ngược đưa xuống và hải sản từ miền biển chuyển vào,khi bờ hữu ngạn
2



dần mở rộng so sông bồi cát. Ngày nay, Hàng Bè vẫn là khu chợ nhộn nhịp, nổi
tiếng là "chợ nhà giàu" của Phố cổ Hà Nội.
Phố Hàng Trống ban đầu kéo dài suốt từ đầu Hàng Gai đến tận Tràng Thi,
bao gồm cả một đoạn nhìn ra hồ Gươm (song song Hàng Khay bây giờ). Phố
Hàng Trống như một hành lang nối khu phố cổ với không gian hồ Gươm và gắn
với khu trung tâm thương mại của người Âu ở phố Tràng Tiền. Trên phố có
nhiều khách sạn, cửa hàng và một số nghề mà thợ khéo từ các nơi tìm đến lập
nghiệp như nghề thêu, nghề khảm và đặc biệt là nghề vẽ tranh mang thương hiệu
Hàng Trống.
Phố Lò Rèn trước kia là thôn Tân Khai, hình thành từ những người làm
nghề sửa chữa nông cụ bằng sắt, gốc làng Canh (Hòe Thị, Từ Liêm) tụ về. Khi
sông Tô Lịch chạy qua nơi đây bị lấp, đất làng biến thành phố xá, cư dân đông
dần, có cả người làng Hà Từ (Sơn Tây) lên mở lò.Có thời phố còn được gọi là
Hàng Bừa vì bán nhiều răng bừa. Khi cầu Long Biên xây dựng, vật liệu cũng
như công nghệ chế tác sắt thép được phổ biến, việc tán đinh bu lông đào tạo
được nhiều nhân lực bản địa nên nghề rèn phát đạt. Sau này, các công trình xây
dựng bắt đầu sử dụng nhiều sắt thép kéo theo cả nghề rèn và nghề buôn vật liệu,
vật dụng sắt thép phát triển. Vì thế những phố kế cận với phố Lò Rèn cũng có
nhiều nhà mở cửa hàng buôn bán đồ sắt.
Khu 36 phố phường có một con phố ngắn gọi là Hàng Thiếc. Thiếc ở đây
được dùng để đúc một số vật dụng như chân đèn, cây nến, lư hương... nhưng
chủ yếu vẫn để làm chất liệu hàn ghép các đồ làm bằng kim loại khác. Các cửa
hàng ở đây còn sử dụng nhiều phế liệu, chủ yếu là thùng đựng dầu hỏa, để làm
thành các vật dụng như chậu, thùng gánh nước... Ở đây còn làm các loại đồ chơi
có thể cử động như thỏ đánh trống, con bướm vỗ cánh, tàu thủy chạy bấc dầu
hỏa...
Hàng Đường là cái tên có từ trong ca dao xưa. Phố có nhiều cửa hàng mứt
kẹo có tiếng và đặc biệt sầm uất vào những ngày giáp Tết Trung Thu hay Tết
Nguyên đán. Ngoài đồ ngọt, Hàng Đường còn có nhiều cửa hàng vải vóc của Ấn

kiều và cửa hàng tạp hóa của người Hoa.
Phố Hàng Khay nằm ở bờ Nam của hồ Gươm. Khay là món đồ gỗ dùng bày
đặt ấm chén uống trà, uống rượu hay những đồ vật gì cần sự sang trọng. Nó đẹp
nhờ tài khéo của người thợ khảm trai hay ốc lên mặt gỗ. Làng nghề thợ khảm
khay vốn tập trung trên đất bị Tây lấy làm đường Paul Bert (Tràng Tiền). Đoạn
đường ngắn này một thời còn gây ấn tượng bởi các cô gái từ làng hoa Ngọc Hà
ngồi thành dãy bên phía bờ hồ Gươm.
Phố Hàng Mã ngày xưa chuyên buôn bán đồ vàng mã để thờ cúng, bao gồm
tiền giấy âm phủ, vàng giấy âm phủ, sau mở rộng thêm các tượng giấy hình các
quan, hình nhà cửa... để đốt cúng cho người âm. Ngày nay phố Hàng Mã tập
trung nhộn nhịp vào các dịp lễ, tết Trung Thu, Nguyên Đán với các mặt hàng
phong phú về đồ chơi. Ngoài ra, tại đây cũng là nơi bán các hàng trang trí phông
màn đám cưới với các hình cắt cô dâu, chú rể làm tự bọt xốp nhiều màu sắc.
Liên quan đến phố Hàng Mã còn có phố Mã Mây. Phố này nguyên bao gồm hai
phố xưa: phố Hàng Mã và phố Hàng Mây. Đoạn phố Hàng Mây nằm giáp phố
3


Hàng Buồm, trên bờ sông Nhị, nơi tập trung thuyền bè miền ngược chở các mặt
hàng lâm sản như song, mây, tre, nứa...
Phố Hàng Bạc do ông Lưu Xuân Tín được nhà vua cho phép mở lò đúc bạc
thành nén cho triều đình, kéo người trong họ hàng và nguời làng Trâu Khê
(huyện Bình Giang - Hải Dương) ra đây mở phường đúc bạc, thành lập trường
đúc ở số nhà 58 Hàng Bạc.
Phố Hàng Đào là nơi buôn tơ, bán vải vóc (chữ vải điều chỉ màu đỏ được
đọc chệch thành chữ đào).
Phố Hàng Lược nối từ phố Hàng Cót đến phố Chả Cá, vốn là nơi có nhiều
nhà buôn bán lược: lược gỗ, lược sừng và sau này là lược nhựa cất cho các cửa
hàng xén bán cho các cô làm đồ trang điểm.
Phố Hàng Chai không phải là nơi sản xuất, buôn bán chai lọ; phố này là

một đoạn ngõ nhỏ nối phố Hàng Rươi và Hàng Cót, đây là nơi tập trung dân
nghèo làm nghề "ve chai", chuyên thu lượm các đồ phế liệu, đồ bỏ (rác).
Phố Hàng Gà chạy từ phố Hàng Điếu đến phố Hàng Cót, vốn là nơi tập
trung các cửa hàng bán đồ gia cầm: gà, vịt, ngan, ngỗng, bồ câu, gà tây...
Phố Hàng Chĩnh được người Pháp gọi là Rue des Vases (phố hàng Vại
Chậu), vốn thông ra bờ sông, là bến đậu các thuyền chở vại, chậu bằng sành của
làng Phù Lãng, nồi đất, chum vại, tiểu sành từ Hương Canh, bằng gốm từ Thổ
Hà.
Phố Hàng Đồng và phố Bát Sứ thời thuộc Pháp có tên chung là Rue des
Tasses (phố Hàng Chén). Đoạn Hàng Đồng và Hàng Mã trước thuộc thôn Yên
Phú, có nghề gốc bán đồ đồng (chứ không phải đồ đồng nát) như mâm, nồi,
đình, bát hương, lọ hoa, hạc thờ..
Các bạn ạ! Hiện nay, một số phố vẫn còn giữ được sản phẩm truyền thống
như phố Hàng Mã, Hàng Tre, Hàng Thiếc, phố Thuốc Bắc, ... Ngoài ra một số
phố tuy không giữ nghề truyền thống, nhưng cũng tập trung chuyên bán một loại
hàng hóa, như phố Hàng Quạt bán đồ thờ, phố Hàng Buồm bán bánh kẹo, phố
Mã Mây chuyên dịch vụ du lịch...
Cho đến nay, đây vẫn là khu buôn bán nhộn nhịp nhất của Hà Nội. Tuyến
phố đi bộ cũng được mở tại đây.
Câu 2 : Hãy nêu tên những thắng lợi tiêu biểu của Lực lượng vũ trang Thủ
đô từ khi thành lập đến nay. Cảm nhận của em về một trong những thắng lợi
đó. Hãy kể một câu chuyện (nhân vật hoặc sự kiện) em biết, có liên quan đến
chiến thắng đó.
TRẢ LỜI
Những thắng lợi tiêu biểu của Lực lượng vũ trang Thủ đô từ khi thành
lập đến nay:
* Ngày 19/8/1945 các đội tiền thân của LLVT Thủ đô đã làm nòng cốt cho
các tầng lớp nhân dân Hà Nội tiến hành Tổng khởi nghĩa giành chính quyền về
tay nhân dân ở Hà Nội.


4


* Ngày 19/10/1946, Chiến khu XI - Tổ chức hành chính quân sự thống
nhất của các LLVT Thủ đô Hà Nội được thành lập trên cơ sở Khu đặc biệt
Hà Nội.
* Sau khi được thành lập, ngày 19/12/1946, hưởng ứng lời kêu gọi của Chủ
tịch Hồ Chí Minh và chấp hành quyết định của Thường vụ Trung ương Đảng,
quân và dân Chiến khu XI với tinh thần “Quyết tử để Tổ quốc quyết sinh” đã nổ
súng mở đầu cho toàn quốc kháng chiến và từ đó kiên cường chiến đấu giam
chân địch trong Thành phố suốt 60 ngày đêm (vượt gấp đôi chỉ tiêu Trung ương
giao), tiêu hao, tiêu diệt lớn sinh lực địch, làm thất bại âm mưu đánh nhanh,
thắng nhanh của thực dân Pháp, bảo vệ tuyệt đối an toàn Trung ương Đảng,
Chính phủ, tạo điều kiện cho cả nước có thời gian chuẩn bị mọi mặt cho cuộc
kháng chiến lâu dài.
* Làm nòng cốt cho nhân dân Hà Nội đẩy mạnh đấu tranh vũ trang góp
phần đưa cuộc kháng chiến đến thắng lợi. Một số chiến công tiêu biểu:
- Trận đánh sân bay Bạch Mai: Diễn ra vào đêm ngày 17 và dạng sáng ngày
18/01/1950. Trong trận đánh này, ta tổ chức lực lượng tập kích vào sân bay của
địch, lực lượng gồm 32 chiến sỹ được lựa chọn từ Tiểu đoàn 108. Kết quả, ta
phá hủy 25 máy bay các loại, 60 vạn lít xăng dầu, 32 tấn vũ khí và nhiều trang bị
của địch. Đây là một trận đánh điển hình về việc dùng lực lượng nhỏ nhưng tinh
nhuệ để đánh các mục tiêu lớn của địch. Trận đánh để lại nhiều kinh nghiệm và
thiết thực góp phần vào việc hình thành lối đánh đặc công của quân đội ta sau
này.
- Trận đánh ở Khu Cháy (Ứng Hòa): Diễn ra vào hai ngày 18 và 19/6/1951.
Lực lượng của ta gồm 2 Đại đội của Tỉnh đội Hà Đông phối hợp với lực lượng
chủ lực của Tiểu đoàn 122/Đại đoàn 320 và lực lượng du kích của địa phương.
Lực lượng của địch khoảng 10 Tiểu đoàn với nhiều xe cơ giới và súng các loại.
Sau 2 ngày chiến đấu ác liệt, ta tiêu diệt gần 3 Đại đội địch, bắt 200 tên và thu

nhiều vũ khí. Với chiến công ở Khu Cháy, quân và dân Hà Đông đã được Chủ
tịch Hồ Chí Minh gửi thư khen ngợi, động viên.
- Trận đánh sân bay Gia Lâm: Sân bay Gia Lâm là một sân bay lớn của
miền Bắc Đông Dương, từ sân bay này, nhiều loại máy bay của địch đi ném bom
bắn phá hậu phương của ta và tiếp tế cho các mặt trận của chúng. Sân bay được
bảo vệ với lực lượng lên đến 2.000 tên cùng hệ thống đồn bốt, hàng rào thép gai,
bãi mìn dày đặc xung quanh. Lực lượng ta tham gia trận đánh gồm 16 đồng chí
có nhiều kinh nghiệm trong chiến đấu được tuyển chọn từ Đại đội 8. Trận đánh
diễn ra vào đêm ngày 3 và dạng sáng ngày 4/3/1954, với chiến thuật tập kích sau
đó nhanh chóng rút lui an toàn, ta đã phá hủy 18 máy bay địch, đốt phá một kho
xăng, một nhà sửa chữa máy bay và tiêu diệt 16 tên. Trận đánh sân bay Gia Lâm
là trận đánh tiêu biểu dùng lực lượng nhỏ, tinh nhuệ, với lối đánh táo bạo, bất
ngờ thọc sâu, đánh hiểm, đạt hiệu suất chiến đấu cao. Trận đánh cũng đã góp
phần gây nhiều khó khăn cho địch trong việc tiếp tế, ứng cứu cho tập đoàn cứ
điểm Điện Biên Phủ.
5


* Ngày 10/10/1954, LLVT Thủ đô đã góp phần tích cực cùng với bộ đội
chủ lực tiến hành tiếp quản Thủ đô bảo đảm tuyệt đối an toàn, nhanh chóng tiếp
quản toàn bộ Thành phố Hà Nội, bao gồm hàng loạt các căn cứ quân sự cùng
129 công sở, xí nghiệp, bệnh viện, trường học được giữ nguyên vẹn.
* LLVT Thủ đô phối hợp với các lực lượng đánh thắng 2 cuộc chiến tranh
phá hoại bằng không quân của đế quốc Mỹ. Đặc biệt là trong chiến dịch 12 ngày
đêm, từ 18/12/1972 – 30/12/1972. Trong chiến dịch này, đế quốc Mỹ đã huy
động tối đa sức mạnh không lực Hoa Kỳ đánh phá hủy diệt Hà Nội. Chúng sử
dụng 444 lần chiếc B52, hơn 1.000 lần chiếc máy bay chiến thuật, trong đó có
hàng trăm lần chiếc F111, ném khoảng 10.000 tấn bom đạn xuống 4 thị trấn,
39 phố, 67 xã và 4 khu vực đông dân.
Không khuất phục, quân dân Hà Nội phối hợp chặt chẽ với lực lượng

Phòng không, Không quân quốc gia kiên cường, dũng cảm chiến đấu bắn rơi 32
máy bay, trong đó có 25 chiếc máy bay B52, 2 F111 và 5 máy bay chiến thuật.
Chiến thắng của quân dân Hà Nội đã làm nên một “Điện Biên Phủ trên không”,
làm tiêu tan huyền thoại sức mạnh không lực Hoa Kỳ. Hà Nội không trở về
“thời kỳ đồ đá” mà trở thành “Thủ đô của lương tri và phẩm giá con người”, buộc
đế quốc Mỹ ký kết Hiệp định Pa-ri “Về chấm dứt chiến tranh lập lại hoà bình ở
Việt Nam”, cam kết tôn trọng độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh
thổ của Việt Nam, rút hết quân viễn chinh và quân chư hầu khỏi miền Nam Việt
Nam, tạo nên thời cơ chiến lược cho cách mạng Việt Nam tiến tới giải phóng
miền Nam, thống nhất đất nước.
* Ngày 05/3/1979, Bộ Chính trị ra Quyết định số 35/QĐ-TW, Chủ tịch
nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ký Sắc lệnh số 28/LCT thành lập
Quân khu Thủ đô Hà Nội (trên cơ sở Bộ Tư lệnh Thủ đô).
* Ngày 18/8/1999, Bộ Quốc phòng ra Quyết định số 1285/QĐ-QP chuyển
giao Bộ Chỉ huy quân sự tỉnh Hà Tây từ Quân khu III về trực thuộc Quân khu
Thủ đô.
* Trong tiến trình thực hiện Nghị quyết số 15/2008/NQ-QH12 về mở rộng
địa giới hành chính Hà Nội, ngày 16/7/2008, Chủ tịch nước ký Lệnh số
16/2008/L-CTN về tổ chức lại Quân khu Thủ đô Hà Nội thành Bộ Tư lệnh
Thủ đô Hà Nội; Bộ Trưởng Bộ Quốc phòng ra Quyết định số 2194/QĐ-BQP
ngày 25/7/2008 hợp nhất Bộ chỉ huy quân sự thành phố Hà Nội thuộc Quân
khu Thủ đô Hà Nội vào Bộ Tư lệnh Thủ đô Hà Nội; Quyết định số 2192/QĐBQP hợp nhất Bộ chỉ huy quân sự tỉnh Hà Tây thuộc Quân khu Thủ đô Hà Nội
vào Bộ Tư lệnh Thủ đô Hà Nội và Quyết định số 2196/QĐ-BQP sáp nhập Ban
chỉ huy quân sự huyện Mê Linh thuộc Bộ chỉ huy quân sự tỉnh Vĩnh Phúc Quân khu 2 vào Bộ Tư lệnh Thủ đô Hà Nội.
Tất cả những thắng lợi của Lực lượng vũ trang Thủ đô từ khi thành
lập đến nay đều rất đáng tự hào song làm cho em ghi nhớ và tự hào nhất
phải kể đến chiến thắng “Điện Biên Phủ trên không”.
Em cảm thấy rất tự hào về ý nghĩa lịch sử của chiến thắng “Điện Biên phủ
trên không”. Đây là một trong những chiến thắng vĩ đại nhất của dân tộc ta trong
6



thế kỷ 20, là trang sử vẻ vang của truyền thống đấu tranh dựng nước và giữ nước
trong thời đại mới- thời đại Hồ chí Minh. Chiến thắng đó đã cho chúng ta một
bài học kinh nghiệm về sự tuyệt đối tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng và Bác
Hồ kính yêu; bài học về tiến hành cuộc chiến tranh toàn dân, toàn diện; bài học
về xây dựng và phát huy ý chí quyết chiến, quyết thắng của toàn Đảng, toàn dân,
toàn quân ta, của sức mạnh đoàn kết toàn dân tộc; bài học về phát huy sức sáng
tạo, tinh thần độc lập tự chủ, tự lực tự cường, tạo nên sức mạnh tổng hợp chiến
thắng kẻ thù; đó là bài học của sự quả cảm, khao khát độc lập tự do, xả thân
chiến đấu cho lý tưởng cao đẹp độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
Lịch sử nhân loại đang bước sang những trang sử mới. Tuy nhiên, có những
sự kiện mà với tầm vóc lớn lao của nó, sẽ không bao giờ phai mờ trong ký ức
nhân loại. Một trong những sự kiện mang dấu ấn đặc biệt ấy là "Điện Biên Phủ
trên không". "Điện Biên Phủ trên không", chiến thắng của ý chí và trí tuệ Việt
Nam, sẽ vĩnh viễn tồn tại như một mốc son sáng chói mãi ngàn năm.
Gắn với chiến công oanh liệt ấy là biết bao con người, biết bao câu
chuyện được in sâu trong lòng những người ở lại. Một nhân vật em
biết gắn với chiến thắng “Điện Biên Phủ trên không” đó là cô phát
thanh viên Nguyễn Thị Thìn của Xí nghiệp Truyền thanh Hà Nội.
Cô Nguyễn Thị Thìn có giọng nói được xem là "nổi tiếng nhất thủ đô" lúc
bấy giờ. Cô Thìn là người rất tích cực và có trách nhiệm với công việc. Cô có
giọng kim, rất thanh nên được chọn là người phát thanh báo động cho nhân dân.
Khi có thông tin từ hầm chỉ huy của Bộ tư lệnh thủ đô là máy bay đến gần
Hà Nội, phát thanh viên Nguyễn Thị Thìn lại thông báo: "Đồng bào chú ý! Đồng
bào chú ý! Máy bay địch cách Hà Nội ... cây
số. Các lực lượng vũ trang sẵn sàng chiến
đấu. Đồng bào cần bình tĩnh vào hầm trú
ẩn...".
Khi máy bay ngừng phá hoại, phát

thanh viên lại báo an để nhân dân rời hầm
tiếp tục công việc. Loa truyền thanh được lắp
vào tận xã, thậm chí tận nhà dân. Đợt cao
điểm có đến hơn 1.700 km đường dây khắp
nội, ngoại thành và 6 vạn loa trong các gia Nữ phát thanh viên đọc lời báo
đình, ngoài ngõ xóm. Thế nên mọi thông tin động máy bay B52.
từ thương nghiệp, mua bán, tem phiếu, báo
động, báo an... nhân dân đều được biết kịp thời. Cũng vì thế, giọng nói của cô
phát thanh viên Nguyễn Thị Thìn trở nên thân thuộc với
Lời nói của cô Thìn có khi được phát trực tiếp, có khi mở băng thu âm bởi
khi báo động có càng ít người trực máy càng tốt, tránh trường hợp bị máy bay
ném bom. Tuy nhiên, với sự việc bất ngờ thì phát thanh viên phải nói trực tiếp.

7


Hơn 40 năm trôi qua, người có giọng nói nổi tiếng nhất thủ đô giờ đã không
còn.
Câu 3 : Bằng những kiến thức lịch sử chọn lọc, hãy khẳng định quá
trình xác lập và thực thi chủ quyền một cách liên tục của Việt Nam đối với
hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Em cần làm gì để góp phần bảo vệ
chủ quyền biển, đảo thiêng liêng của Tổ quốc.
TRẢ LỜI
Trong lịch sử, Việt Nam đã phải trải qua nhiều cuộc chiến tranh chống
ngoại xâm. Phần lớn thư tịch cổ quốc gia trong các giai đoạn đó đã bị quân xâm
lược tiêu hủy với mục tiêu xóa sạch văn hóa Việt để dễ bề đồng hóa. Tuy nhiên,
chỉ với những tài liệu chính sử còn lại đến nay cũng đủ để chứng minh người
Việt Nam đã có chủ quyền lịch sử từ rất lâu đời trên hai quần đảo Hoàng Sa và
Trường Sa, hoàn toàn phù hợp với tập quán cũng như luật pháp quốc tế về việc
xác lập và khẳng định chủ quyền lãnh thổ.

Hiện hai quần đảo đang là tâm điểm tranh chấp phức tạp giữa một số nước
ven Biển Đông. Về việc giải quyết tranh chấp chủ quyền đối với lãnh thổ, pháp
luật quốc tế đã hình thành nguyên tắc xác lập chủ quyền là nguyên tắc chiếm
hữu thật sự và thực hiện quyền lực Nhà nước một cách thật sự, liên tục và hòa
bình. Nguyên tắc này đã được các nước và các cơ quan tài phán quốc tế áp dụng
để giải quyết nhiều vụ tranh chấp về chủ quyền lãnh thổ trên thế giới.
Áp dụng nguyên tắc nói trên của pháp luật quốc tế vào trường hợp hai quần
đảo Hoàng Sa và Trường Sa, các bằng chứng lịch sử và căn cứ pháp lý đều cho
thấy rằng các Nhà nước Việt Nam đã chiếm hữu thật sự hai quần đảo này hàng
trăm năm qua. Nói chính xác là các Nhà nước Việt Nam trong lịch sử và cho tới
nay đã thực thi chủ quyền ở đây ít ra từ thế kỷ XVII khi hai quần đảo chưa hề
thuộc chủ quyền của bất cứ nước nào. Từ đó Việt Nam đã thực hiện việc xác lập
và thực thi chủ quyền của mình đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa
một cách liên tục và hòa bình.Các bằng chứng lịch sử mà Việt Nam đã thu thập
được rất phong phú, mặc dù như đã nói, do hoàn cảnh chiến tranh liên tục nên
nhiều thư tịch cổ của Việt Nam đã bị mất mát, thất lạc. Tuy nhiên, những tư liệu
còn lại đến nay và chính sử vẫn đủ để khẳng định chủ quyền của Việt Nam trên
hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Một là, các bản đồ Việt Nam thế kỷ XVII
đã gọi hai quần đảo bằng cái tên Bãi Cát Vàng và ghi vào địa hạt huyện Bình
Sơn, phủ Quảng Ngãi. Hai là, nhiều tài liệu cổ của Việt Nam như Toàn Tập
Thiên Nam Tứ chí Lộ Đồ Thư (thế kỷ XVII), Phủ Biên Tạp Lục (1776), Đại
Nam Thực Lục Tiền Biên và Chính Biên (1844 - 1848), Đại Nam Nhất Thống
Chí (1865-1875), các Châu bản nhà Nguyễn (1802-1945)... đều nói về hai quần
đảo Hoàng Sa và Trường Sa như là Bãi Cát Vàng vạn dặm trên Biển Đông và
việc Nhà nước cử đội Hoàng Sa ra khai thác các quần đảo này. Ba là, nhiều sách
cổ, bản đồ cổ của nước ngoài cũng thể hiện các quần đảo Hoàng Sa và Trường
Sa thuộc chủ quyền Việt Nam. Đỉnh cao nhất của việc tuyên bố và xác lập chủ
quyền của Việt Nam trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là vào năm 1816
khi vua Gia Long sai quân lính ra quần đảo Hoàng Sa cắm cờ Việt Nam và tuyên
bố chủ quyền. Cũng cần nói thêm là trong một thời gian khá dài, người Việt

8


Nam luôn coi quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa là một dải đảo dài
hàng vạn dặm trên Biển Đông, nên gọi là Vạn Lý Trường Sa, hay Đại Trường
Sa, Bãi Cát Vàng... Trên thực tế, các chúa Nguyễn cũng như nhà Nguyễn sau
này đều có nhiều hành động liên tục cử người ra cai quản, khai thác các đảo trên
cả hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Nhà nước phong kiến Việt Nam đã tổ
chức các đội Hoàng Sa, Bắc Hải để thực thi quyền chủ quyền và khai thác hai
quần đảo. Các thể lệ tuyển chọn người, chế độ khen thưởng, đãi ngộ đối với các
đội đều được Nhà nước quy định rõ ràng. Các đội này được duy trì và hoạt động
liên tục từ thời chúa Nguyễn (1558-1783) đến nhà Tây Sơn (1786-1802) và nhà
Nguyễn. Triều đình Nhà Nguyễn đã cử các tướng Phạm Quang Ảnh (năm 1815),
Trương Phúc Sĩ, Phạm Văn Nguyên, Phạm Hữu Nhật (các năm 1834, 1835,
1836) ra Hoàng Sa khảo sát, đo đạc các đảo, khảo sát, vẽ bản đồ, xây miếu,
dựng bia.
Năm 1933, Toàn quyền Đông Dương ra Nghị định quy thuộc quần đảo
Trường Sa vào tỉnh Bà Rịa. Pháp cũng tách quần đảo Hoàng Sa ra khỏi tỉnh
Nam Nghĩa và đặt vào tỉnh Thừa Thiên và cho một đơn vị đóng quân ở đó. Sau
khi trở lại Đông Dương, Pháp đã yêu cầu quân Trung Hoa Dân Quốc rút khỏi
các đảo mà họ đã chiếm đóng trái phép năm 1946 và Pháp đã cho quân thay thế
quân Trung Quốc, xây dựng lại trạm khí tượng, đài vô tuyến. Năm 1951, tại Hội
nghị San Francisco (Hoa Kỳ) có một đề nghị bổ sung bản dự thảo Hòa ước yêu
cầu trao trả cho Trung Quốc hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Nhưng Hội
nghị đã bác bỏ đề nghị này với số phiếu áp đảo là 46 phiếu thuận, 3 phiếu chống
và 1 phiếu trắng. Tại Hội nghị, Ngoại trưởng Trần Văn Hữu dẫn đầu phái đoàn
Chính phủ Quốc gia Việt Nam đã tuyên bố khẳng định chủ quyền lâu đời của
người Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa mà không gặp sự
phản đối hay bảo lưu của nước nào.
Năm 1956 Pháp chuyển giao lãnh thổ miền Nam Việt Nam cho Chính

quyền Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) và chính quyền này đã cho quân ra tiếp
quản, tổ chức hai quần đảo về mặt hành chính (lập ở mỗi quần đảo một xã thuộc
một huyện ở đất liền), xây các bia chủ quyền, duy trì các trạm khí tượng. Năm
1975, chính quyền VNCH sụp đổ, Hải quân Quân đội Nhân dân Việt Nam tiếp
quản đầy đủ các đảo do quân đội VNCH cai quản trên Biển Đông. Nhà nước
Việt Nam thống nhất sau đó tiếp tục khẳng định chủ quyền của người Việt Nam
trên các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, ban hành nhiều văn bản hành chính
nhà nước thành lập các huyện đảo Hoàng Sa và huyện đảo Trường Sa cũng như
hoàn thiện việc quản lý hành chính trên các quần đảo này. Một sự thật hiển
nhiên là cho đến năm 1988 chưa hề có bất kỳ sự hiện diện nào của Trung Quốc ở
quần đảo Trường Sa. Ngày 14-3-1988, Trung Quốc bắt đầu dùng vũ lực chiếm
đóng trái phép một số đảo thuộc quần đảo Trường Sa của Việt Nam. Dưới ánh
sáng của pháp luật quốc tế, Việt Nam có đầy đủ chứng cứ lịch sử và cơ sở pháp
lý để khẳng định chủ quyền lâu đời và liên tục của mình đối với hai quần đảo
Hoàng Sa và Trường Sa.
Công ước Luật Biển năm 1982 cho phép các quốc gia ven biển được
hưởng quy chế thềm lục địa để thăm dò và khai thác tài nguyên. Đây là chủ
9


quyền chuyên biệt, không tùy thuộc vào điều kiện phải có sự chiếm hữu, khai
phá hay tuyên bố minh thị. Mọi sự tùy tiện chiếm cứ của nước ngoài dù có bằng
vũ lực hay không đều bất hợp pháp và vô hiệu lực. Về mặt địa lý, đảo Tri Tôn,
quần đảo Hoàng Sa chỉ cách Quảng Ngãi 135 hải lý và đảo Hoàng Sa (Pattle)
chỉ cách lục địa Việt Nam 160 hải lý. Vì vậy, quần đảo Hoàng Sa nằm trong
thềm lục địa của Việt Nam được quy định bởi Công ước về Luật Biển năm 1982.
Về mặt địa chất, các nghiên cứu khoa học đều cho thấy quần đảo Hoàng Sa là
một thành phần của Việt Nam. Về địa hình, đáy biển vùng quần đảo Hoàng Sa là
một cao nguyên chìm dưới đáy biển nối tiếp liên tục lục địa Việt Nam. Tại quần
đảo Trường Sa cũng vậy, về mặt địa chất và địa hình đáy biển các đảo Trường

Sa là sự tiếp nối tự nhiên của lục địa Việt Nam từ đất liền ra ngoài biển. Hơn
nữa, bãi Tư Chính và đảo Trường Sa (Spratly) chỉ cách đất liền Việt Nam từ 150
đến 200 hải lý, nằm trong thềm lục địa của Việt Nam.
Một yêu cầu hết sức khách quan đặt ra cho tất cả các nước có hoạt động
liên quan tới Biển Đông là phải tuân thủ pháp luật chung mà cộng đồng quốc tế,
trong đó có các quốc gia ven Biển Đông, đã dày công xây dựng - Công ước Liên
Hợp Quốc về Luật Biển năm 1982 của. Khi vận dụng Công ước để thực thi chủ
quyền và quyền chủ quyền đối với nội thủy, lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và
thềm lục địa của mình, các quốc gia ven Biển Đông có nghĩa vụ tôn trọng chủ
quyền và quyền chủ quyền của các nước khác ven Biển Đông đối với lãnh hải,
vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của họ. Trong thời đại văn minh, sử
dụng vũ lực, đe dọa sử dụng vũ lực để cưỡng chiếm lãnh thổ nước khác đã bị
pháp luật quốc tế nghiêm cấm. Vũ lực cũng sẽ không phải là cách thức đúng đắn
để giải quyết các tranh chấp ở Biển Đông. Tôn trọng các nguyên tắc cơ bản của
pháp luật quốc tế, tôn trọng Hiến chương Liên Hợp Quốc, tôn trọng các quy
định của Công ước Luật Biển năm 1982, giải quyết tranh chấp bằng các biện
pháp hòa bình, thực hiện đầy đủ các cam kết trong DOC, tiến tới xây dựng Bộ
Quy tắc ứng xử ở Biển Đông (COC), cùng chung sức theo hướng biến Biển
Đông thành vùng biển hòa bình, hữu nghị và hợp tác là thể hiện sự hành xử của
những quốc gia văn minh, tôn trọng sự thật lịch sử cũng như thượng tôn pháp
luật quốc tế mà chính mình đã công nhận và ký kết.
Để bảo vệ chủ quyển biển đảo, thanh niên, học sinh nói chung và bản thân
em nói riêng cần nghiên cứu và nhận thức sâu sắc về ý nghĩa thiêng liêng chủ
quyền biến đảo và giá trị to lớn chủ quyền mà ông cha ta đã đố xương máu để
xây dựng; về lịch sử Việt Nam đặc biệt là lịch sử địa lý liên quan đến chủ quyền
biển đảo, về lịch sử hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa...
Điều quan trọng nữa là ra sức rèn luyện, học tập, không ngừng tu dưỡng
phẩm chất người Việt Nam tích cực tham gia xây dựng đất nước giàu mạnh, có
định hướng lý tưởng yêu nước và đoàn kêt thì chúng ta sẽ kết nối khối sức mạnh
lớn đủ sức bảo vệ quyển biển đảo.


10



×